Thiết tưởng không ai biết Lê Thị Lựu rõ hơn tôi, người đã sống sát cánh cùng Lựu trên nửa thế kỷ, nên tôi xin ghi lại đây những quãng đời của Lựu. Ngô Thế Tân
Lê Thị Lựu sinh ngày 19-1-1911 (19 tháng Chạp năm Canh Tuất). Lựu kém sức khỏe từ thuở nhỏ, lọt lòng đã sài lên sải xuống đến nỗi gia đình nản, định đem cho[2]. May sau gặp một ông lang ở Quảng Yên dùng ngoại khoa chữa khỏi. Đến tuổi trưởng thành, quãng 1936-1938 bị bệnh nặng[3], báo đã đăng bài khóc người nữ họa sĩ xấu số. Rồi từ năm 1979, tim đập không đều (arythmie), thỉnh thoảng lên cơn đau đớn vô cùng. Đến khi mắt kém, phải đeo kính, vẽ chân dung khó khăn và không lái xe được nữa. Từ năm 75 tuổi (1986), Lê Thị Lựu không muốn chấp nhận những suy nhược hao mòn, thay đổi quá nhanh trên cơ thể, may trí óc vẫn tinh tường. Tay tuy run nhưng vẫn vẽ, vẽ đến những ngày cuối đời. Hai ngày trước khi vào bệnh viện còn phác thảo tranh. Vào đây cốt chỉ để bác sĩ xem kỹ lại bệnh tim, không ngờ đêm mùng 4/6/1988 bị xuất huyết não. Ngày mùng 6/6/1988 vĩnh viễn từ giã cõi đời. Toại ý nguyện. Lựu thường mong ước được ra đi như thế, thể xác khỏi đau đớn và không gây trở ngại, vất vả cho những người phải chăm nom mình trước khi nhắm mắt. Nhưng Lựu ra đi đột ngột, để cho người ở lại một mối đau thương vô hạn. Làng Thổ Khối vừa là nơi sinh, vừa là quê nội, ngoại. Hai cụ thân sinh đồng danh là Quế, cụ ông Lê Văn Quế, cụ bà Nguyễn Thị Quế (chi Nguyễn Đăng)[4]. Cụ ông theo Tây học vào thời đầu, cùng lớp với những ông Nguyễn Văn Vĩnh, chủ báo Trung Bắc Tân Văn, Phạm Huy Lục, nghị trưởng[5], Ngô Văn Phú, chủ báo Đông Pháp. Hồi nhỏ, Lê Thị Lựu theo cha, làm công chức tòa sứ, đã ở Bắc Ninh, Nam Định, Thái Bình, Hải Phòng và Hà Nội. Năm 1925 đậu bằng Sơ đẳng tiểu học (Ngô Thế Tân ghi Sơ học yếu lược, là sai. Chú thích TK.) tại Hà Nội, song không vào trường Nữ Sư Phạm (Hàng Bài) như hai em mà lại chọn học dự bị Trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Đông Dương ở Hà Nội năm 1926. Theo bút tích của Lựu, có hai sự việc quyết định sự chọn lựa này: Một hôm, trong lúc xếp lại các sách cho thày giáo, Lựu thấy trên mặt bàn giấy có hình một cô gái Lào vừa to, vừa đẹp. Nếu đem đọ cùng hình trong một cuốn sách thì gống như hệt, nhưng ở sách tất nhiên nhỏ hơn. Thắc mắc hôm sau được thày giải thích: đây là thày phóng to hình trong sách ra. Vừa phục tài thày, vừa băn khoăn tự hỏi mình làm sao học được môn này. Thày lại cho biết ở Hà Nội có trường Bách Nghệ dạy vẽ và có ông Thục nặn giỏi lắm. Việc thứ hai, khi Lựu đến thăm một người bạn, cha là chủ rạp hát, thấy trên sân khấu có một người, chân đứng trên một tấm vải căng thẳng đầu cúi xuống gạch những nét nguệch ngoạc. Người ấy cho biết: Đây là lối vẽ chấm phá làm phông cho rạp hát. Đứng gần không thấy gì nhưng nhìn xa mới thấy đẹp. Lựu phục người nghệ sĩ đó vô cùng. Thế là Lựu quyết định tự học vẽ và ghi tên vào lớp dự bị để thi vào Trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Đông Dương.
Lê Thị Lựu ghi tên học lớp dự bị năm 1926, năm sau đỗ, thành sinh viên thực thụ khóa III. Trong 5 năm học, bất cứ môn nào, Lê Thị Lựu cũng trội hơn các bạn đồng khóa. Lựu đỗ thủ khoa khóa III. Đây là bản chính thức ghi thứ tự sinh viên tốt nghiệp khoá III (1927-1932)[6]: 1. Lê Thị Lựu 2. Trần Quang Trân 3. Phạm Hữu Khánh 4. Nguyễn Hòa Thế 5. Vũ Đăng Bốn 6. Vũ Tiến Chức. Vào dịp đó, báo Phụ Nữ Tân Văn, dưới hình Lê Thị Lựu đã viết: Nữ sinh tốt nghiệp thủ khoa Trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Đông Dương Hà Nội, muốn tỏ cảm tình với báo Phụ Nữ Tân Văn là một tờ báo cô rất mến yêu mà cô không phải là thi sĩ nên cô vẽ cho một bức họa về thời cuộc. Bức họa đã đăng ở bên đây, ký tên Văn Đỏ, tức là biệt hiệu của cô. Bổn báo xin có lời cảm ơn nữ họa sĩ[7]. Theo quy chế thời đó, những người tốt nghiệp hàng đầu, đều được bổ làm giáo sư: Lê Phổ ở trường Albert Sarraut, Mai Trung Thứ ở Huế, Hồ Văn Lái ở Sài Gòn v.v... Từ năm 1933 đến 1935, Lê Thị Lựu làm giáo sư ở các trường Trung Học Bảo Hộ (Trường Bưởi), Trường Nữ Sư Phạm (Hàng Bài), Trường tư thục Hồng Bàng Hà Nội. Năm 1935-1936 dạy trường Nữ Sinh Áo Tím Sài Gòn, Mỹ Nghệ và Trang Trí Gia Định. Những năm 1937-39 trở về dạy ở Trường Trung Học Bảo Hộ và Đăng Ten Hà Nội. Năm 1940 xuất ngoại sang Pháp.
Sang Pháp Đầu tháng 4-1940 tầu cặp bến Marseille. Tháng 6 chúng tôi lên tới Paris, chẳng may đúng ngày máy bay Đức thả bom, nhưng cũng cố lần tìm đến phố Alphonse Bertillon, nơi cư ngụ và cũng là xưởng vẽ của ba anh bạn họa sĩ: Vũ Cao Đàm, Lê Phổ và Mai Trung Thứ. Đến nơi, cửa đóng, then cài, chúng tôi hoàn toàn thất vọng, vì cả ba đều nhập ngũ rồi. Chân ướt, chân ráo, chưa được bước chân vào một viện bảo tàng nào cả thì một tuần sau, phải đổi đi Nantes, một cảng phía tây bắc nước Pháp. Sáng sớm ngày 16-6-1940 khởi hành từ Paris đi Nantes. Paris đang sống trong chiến tranh: cả vùng phụ cận bom đạn đe dọa trên đầu. Một vòm khói đen cố gắng che giấu thành phố và bể người di tản. Dân chúng trút ra đường: người ốm, người già, trẻ con cố lê chân kéo hành lý, gương mặt lo âu, thiểu não. Chúng tôi lách qua đám người dày đặc, từ sáng đến trưa mà vẫn chưa đến được cửa nhà ga Montparnasse. Rồi khi đến được nhà ga, làm sao trèo vào sân để đáp tầu, làm sao đem được hành lý lên toa? Phải liều lĩnh và thủ đoạn: công kênh nhau vượt qua rào sắt, trườn qua cửa sổ. Trong toa mọi người đã lèn chặt như nêm. Đành đứng suốt đêm, bụng đói, cổ khô. Và Lựu lại có thai. Chúng tôi ở Nantes gần hai tháng. Trở lại Paris: Paris đã phần nào tìm thấy đời sống bình thường nhưng cũng đã có nhiều đổi thay: chủ nhà chúng tôi trọ lúc trước ở Nogent Sur Marne đã bị lính Đức bắt, đành phải tìm chỗ khác. May nơi làm việc của tôi, thuộc Ban Kỹ Thuật Canh Nông Nhiệt Đới (Section Technique d'Agriculture Tropicale) cũng ở Nogent sur Marne, còn một phòng có sưởi cho chúng tôi. Giữa mùa đông, 5 giờ sáng ngày 1/1/1941 Lựu sinh con trai đầu lòng ở bệnh viện Saint Antoine thuộc Paris, quận 12. Từ nhà đến bệnh viện đã xa mà lại phải xuyên rừng Vincennes, với lệnh giới nghiêm ban đêm. Xe bị lạc trong rừng, gây thêm nhiều lo âu và hoang mang. Nửa nước Pháp đã bị quân Đức chiếm đóng. Thực phẩm khan hiếm, được phân phối bằng phiếu. Đời sống rất khó khăn. Hoạt động nghệ thuật đình chỉ. Tháng 6/1941 chúng tôi xuống Marseille để đáp tầu về nước. Không may, hết tầu. Chiến tranh lan tràn trên các mặt bể, các hải cảng lớn bị phong tỏa. Đường Pháp-Viễn Đông bị tê liệt, kênh Suez tắc, vòng qua đường Cap rất nguy hiểm. Tàu chiến, tầu ngầm, của trục Đức-Ý-Nhật đang thắng thế. Đành phải ở lại Marseille, rồi sau về Nice sống một năm tròn. Hai bạn Lê Phổ và Mai Trung Thứ cũng đã giải ngũ cũng về đây. Đến trọ ở Pension des Etats Unis do Cao Văn Bổn[8] quản lý, sau thành bạn. Thời gian ở Nice, nhân thời tiết nắng ấm, chúng tôi đi thăm vài nơi. Trong chương trình này có mấy ngày ở Château de Jutreau, do ông bà René Robin[9] mời. Khi làm giáo sư ở Sài Gòn, Lê Thị Lựu có vẽ chân dung cho bà Robin, và tôi cũng muốn biết lý do nào đã thúc đẩy ông hạ lệnh thả bom vào làng Cổ Am. Khi tôi hỏi, ông không trả lời thẳng mà trần tình: Sau một đêm "trắng" và nghĩ chín, tôi đã nhất định phải lấy ác trị ác (Après une nuit blanche et de mûres réflexions, j'avais décidé d'employer le mal contre le mal). Thì ra vậy!
Đi Phi Châu Ở vùng tự do[10] đến tháng 7-1942 thì Lựu theo tôi đi Phi Châu. Tôi được bổ nhiệm làm giám đốc Vườn Thử Nghiệm Thực Vật Kindia (Jardin d'Essai de Kindia), xứ Guinée[11]. Sở dĩ tôi nhận đi Phi Châu vì xem ra chưa biết bao giờ mới có tầu về nước. Tình thế, lương thực càng ngày càng khó khăn, không sao giải quyết được mọi thiếu thốn hàng ngày. Phi Châu dầu sao cũng là xứ nông nghiệp, sản xuất thực phẩm, lại ở miền nhiệt đới, quanh năm không cần sưởi. Chiếc tầu Ville d'Oran chở chúng tôi thuộc loại nhỏ, chuyên chở hàng hóa nhưng cũng dành ít phòng cho hành khách, độ 50 người, đồng hạng. Chạy ven bờ Phi Châu, ghé các bến Alger, Casablanca, Dakar. Ở các hải cảng này đều có đồng bào ta sinh cơ lập nghiệp, phần đông là cựu thủy thủ. Chúng tôi lên bờ ở Conakry, vừa là hải cảng, vừa là thủ đô xứ Guinée. Tháng 8/1942, chúng tôi đi Kindia, một thị trấn gần trung tâm xứ Guinée. Tương đối khí hậu tốt, có viện Pasteur, trại lính to, nhiều cửa hàng của kiều dân xứ Liban, Syrie, buôn bán phồn thịnh. Chung quanh thị trấn có nhiều đồn điền, diện tích hàng mấy trăm mẫu, chuyên giồng chuối đế xuất cảng sang Pháp. Kindia cũng có trường thủ công nghệ. Ông giám đốc trường mời Lê Thị Lựu làm giáo viên nhiều lần nhưng Lựu đều từ chối. Trong những năm ở đây, Lựu không vẽ gì nhiều, phần bận con nhỏ, phần thiếu họa cụ, thuốc vẽ. Chỉ sáng tác chừng mươi bức, tranh mấy cô gái đồng trinh bản xứ, do tòa sứ đặt để trang trí phòng khách. Thiếu nữ với y phục ngày lễ kết thúc cuộc cắt dâm hạch (excision). Lễ phục thật độc đáo, giàu màu sắc. Màu sắc của những chiếc khăn vuông được kết búi với tóc đen nhánh quấn vòng tròn cong như như con thiên nga uốn cổ trên đỉnh đầu. Tranh rất linh động, chỉ tiếc không giữ lại bức nào làm kỷ niệm.
Trở lại Pháp Năm 1945, chiến tranh kết thúc, Lê Thị Lựu trở lại Paris. Năm 1946 trong khi nghỉ ở Chedde (Haute Savoie) chúng tôi được tin từ trong nước ra: phong trào chống thực dân giành độc lập đang sôi động. Phái đoàn Việt Nam qua Paris điều đình[12], Lê Thị Lựu lên Paris tham dự, trực tiếp lấy tin và gặp người quen trong phái đoàn. Từ đấy hai vợ chồng có thái độ rõ ràng và dứt khoát: cùng tham gia phong trào chống thực dân. Chồng thôi làm công chức cho Pháp. Chống Pháp ngay trên đất Pháp tất nhiên gặp nhiều khó khăn bội phần. Cái khó khăn đầu tiên là mưu sinh cho gia đình. Sau khi cùng chồng gây một cơ sở sản xuất nhỏ để sinh sống, Lê Thị Lựu tích cực tham gia phong trào chống thực dân, liên lạc cùng đại diện chính quyền Trần Ngọc Danh hay đại diện Hội người Việt Nam tại Pháp (Liên Hiệp Việt Kiều) như Phạm Huy Thông, Nguyễn Khắc Viện. Lê Thị Lựu giữ chức thủ quỹ cho hội Liên Hiệp Trí Thức, tham dự các buổi họp của Phong Trào Hòa Bình Thế Giới tổ chức ở Pháp cũng như ở nước ngoài. Đôi khi có cả họa sĩ Picasso cùng tham dự. "Chim bồ câu và bó hoa hòa bình" của Picasso hình như được vẽ vào thời điểm này. Chúng tôi "được" Pháp ghi tên vào sổ đen, nên bị cảnh sát, mật vụ DST, v.v... (Phỏng tính có đến 7 nơi) luôn luôn truy vấn. Hai bạn Vũ Cao Đàm và Mai Trung Thứ được nếm mùi đề lao La Santé. Mãi đến quãng 1959-60, khi thấy chính phủ miền Bắc chuẩn bị đánh miền Nam bằng võ lực, chúng tôi mới đoạn giao cùng các nhóm của Hội Người Việt Nam Tại Pháp. Khi mới ở Phi Châu về (1945), Lê Thị Lựu ở tạm cùng xưởng vẽ với Mai Thứ, ở Vanves, số 16 avenue du Parc. Vài tháng sau, đi nghỉ ở Chedde (Haute Savoie), trọ ở khách sạn Pernot. Năm 1947 chúng tôi dọn về số 41 rue Blomet, Paris quận 15, cùng chỗ ở với Lê Phổ. Năm 1953 dọn về số 10 ngõ Joséphine, thị xã Gentilly, ngoại ô phía Nam Paris, sau Cư xá Đại học. Từ năm 1971 đến khi mất, ở vùng Địa Trung Hải, thị xã Spéracèdes, biệt thự An Trang.
Trở lại với sáng tác hội họa Sau hiệp định Genève, nước nhà đã độc lập, Lê Thị Lựu bỏ hẳn dịch vụ buôn bán, quyết tâm làm công tác nghệ thuật, nối lại nghề hội họa. Để tâm trí hòa nhập vào môi trường hội họa, ngày ngày Lựu đi thăm các viện bảo tàng, các phòng triển lãm cộng đồng, cá nhân, các hiệu bán tranh ở Paris. Thăm viện bảo tàng Firenze (Ý) nhiều tuần lễ, tới lui phòng vẽ La Chaumière ký họa những người mẫu khỏa thân, nam, nữ, người Âu và cả phụ nữ Việt bằng chì than trên giấy. Lựu cũng vào học ở Ecole du Louvre, nhưng sau mấy tháng thấy chương trình nặng nề về lịch sử mỹ thuật và quản lý bảo tàng, không giúp gì cho hội họa của mình, nên bỏ dở. Tuy quyết tâm học hỏi nhưng Lựu vẫn còn phân vân, do dự trước các trường phái và các khuynh hướng mới: từ Tả Thực, Ấn Tượng, Dã Thú đến Hồn Nhiên, Siêu Thực, Trừu Tượng vv... Các họa phái ngày một nảy nở thêm nhưng đối với Lựu ít quyến rũ vì nó đã xa vời truyền thống cổ điển mà Lựu đã học tập ở trường, lại không phù hợp với quan niệm hội họa của mình. Lê Thị Lựu thán phục thiên tài Picasso, luôn luôn thay đổi bút thuật. Nhưng trong thâm tâm, Lựu không sao tạo được những ý thức hệ đi song song với con đường của họa sĩ số một ấy. Ngoài tranh của phái Cổ Điển và Ấn Tượng ra, Lê Thị Lựu không thích tranh của các phái khác nhất là một số tranh Trừu Tượng. Tưởng khả năng nghệ thuật của mình bị sút kém, nhưng sau khi nghĩ kỹ, thấy mình phải thành thật với chính mình, không thể mà cũng không nên a-dua hoặc đi ngược dòng thời đại. Phải sáng tạo theo quan niệm hội họa do chính mình đặt ra. Từ xác định rõ ràng đó, Lê Thị Lựu đã từ bỏ phần tự ti, lấy lại tự tín. Khởi đầu, Lê Thị Lựu vẽ một số tranh lụa nhỏ đem đến Galerie Le Chapelin ở cạnh Điện Elysée, phố Faubourg Saint Honoré, số 71. Bà chủ niềm nở nhận ngay. Phấn khởi hơn nữa khi thấy ba bức tranh lụa cùng được trưng ở trung tâm phòng triển lãm hàng năm của Hội Liên Hiệp Phụ Nữ Hội Họa, Điêu Khắc và Khắc Ấn Bản (Union des Femmes Peintres, Sculpteurs et Graveurs). Ngay buổi khai mạc đã có hai người Mỹ mua hai bức, còn bức thứ ba, bà chủ Galerie nhận phần. Rồi hai bất ngờ nữa xảy ra: ba tác phẩm đó đã mang lại cho Lê Thị Lựu giải nhất (Premier Prix) và được phong là Thành viên thực thụ (Sociétaire) của Hội, tức là tranh không bao giờ phải qua ban giám sát. Từ đây, Lê Thị Lựu sáng tác đều đều. Nhà văn Thụy Khuê hỏi tôi Lê Thị Lựu sáng tác được bao nhiêu bức? Thật khó trả lời. Từ khi còn là sinh viên ở trường đến năm 1940 xuất ngoại, chắc chưa đến trăm bức. Hồi ở Phi Châu chừng mươi bức. Còn từ khi quay lại vẽ đều có thể nói là không quá 400 bức. Không thể biết đúng số tranh Lựu vẽ, vì tranh vẽ ra không ghi lại, mà cũng rất ít bức được chụp ảnh, lẽ dễ hiểu là Lê Thị Lựu quá khiêm tốn, không bao giờ tính đến chuyện sau này cho in vựng tập. Quãng 1926-1940, Lựu có vẽ một số tranh sơn dầu, nằm trong diện thực tập ở trường. Có hai bức đã triển lãm chung trong niên học thứ hai, với chủ đề: Chân dung ông Hai, và Em nhỏ trong vườn chuối. Tranh Ông Hai thì Phủ Toàn quyền mua, còn tranh Em nhỏ trong vườn chuối thì ông chủ báo L'Avenir du Tonkin[13] mua. Chân dung bằng màu phấn: Cô Vân[14] và Cô An[15]. Sau có vẽ chân dung bà Robin toàn thân bằng sơn dầu. Những sáng tác thời kỳ đó, sau này tình cờ thỉnh thoảng chúng tôi có dịp gặp lại[16]. Lê Thị Lựu đã bao lần triển lãm riêng? Xin thưa là chưa lần nào, ngay cả ở nước Pháp. Tuy cũng đã có nhiều hiệu tranh ở Ý, Thụy Sĩ, Syrie, ... mời. Nhưng Lựu không thấy có nhu cầu, vẽ bao nhiêu có người mua bấy nhiêu. Về sau, có khi Lựu nợ tranh hàng mấy năm, khách đặt mua trước, nhưng kém sức khỏe, nên không vẽ kịp. Muốn làm triển lãm riêng, trung bình phải có chừng 40 bức tranh. Sáng tác ít, nên khi nhà Findlay ở Mỹ đề nghị ký hợp đồng độc quyền, Lựu cũng khước từ vì không có đủ điều kiện về số lượng.
Đề tài Nhà văn Thụy Khuê đã viết gọn trong một câu: đề tài nằm trong chữ thiếu: Thiếu Phụ, Thiếu Nữ, Thiếu Nhi. Thiếu phụ có nhiệm vụ gìn giữ, tạo tác giống nòi, để thế hệ sau nối tiếp truyền thống và các tiến bộ về nhân bản, nhân sinh của thế hệ đi trước. Thiếu phụ quản lý gia đình về vật chất cũng như về tinh thần. Thiếu nữ, một triển vọng ngày mai, dự bị thiết kế cuộc đời bằng yêu thương và hạnh phúc. Thiếu nhi thơ ngây, mầm non đầy nhựa sống, có nhiệm vụ tối trọng: nối dõi tông đường, có nhiệp vụ ràng buộc tình chồng vợ, nghĩa mẹ cha, mang lại ánh sáng và sưởi ấm gia đình những lúc tàn canh và lạnh giá. Trước những giá trị đó làm sao Lê Thị Lựu có thể vẽ gương mặt họ thô bạo đầy sát khí được! Đối với Lê Thị Lựu, gương mặt người thiếu phụ phải hiền hòa, trìu mến yêu đương. Thiếu nữ diễm kiều, thơ mộng. Ngay những bức khỏa thân Lựu vẽ cũng kín đáo, tuy mến các tác phẩm cổ điển nhưng Lựu không thể vẽ khỏa thân lộ liễu như những thiếu nữ trong tranh Ingres, vv... Hầu như Lê Thị Lựu không vẽ tranh qua người mẫu. Những bộ mặt do họa sĩ tưởng tượng ra. Cái đẹp được truyền vào những bức chân dung. Năm 1975 khi Lựu về Hà Nội thăm gia đình, Hội Mỹ Thuật tỏ ý muốn có một bức tranh. Lựu rất lúng túng. Làm sao chọn được chủ đề ăn khớp với hiện thực xã hội chủ nghĩa? Sau khi hội ý cùng gia đình, Lê Thị Lựu đã chọn vẽ bức Phụ nữ gặt lúa. Bức tranh này hiện nay không biết ở đâu?
Kỹ thuật, trường phái Từ khi vào trường đến năm 1940, Lê Thị Lựu thường chỉ áp dụng sơn dầu trong mọi sáng tác. Họa hoằn mới vẽ trên nền lụa. Màu phấn chỉ dùng trong mấy bức chân dung. Thuốc nước lại hiếm nữa, chỉ khi nào ký họa nhanh mới dùng đến. Lựu có học cả nghệ thuật sơn ta nhưng bị sơn ăn (lở sơn, dị ứng). Khi đi nghỉ hè ở Pháp thường chỉ mang theo các ống sơn dầu, nên phong cảnh đều dùng sơn này cả. Trong sơn dầu, bút pháp của Lê Thị Lựu đã được ông Tardieu khen là giống Cézanne, tuy trong thực tế, lúc đó Lê Thị Lựu chưa được coi tranh Cézanne bao giờ. Nét bút rất bạo, già, màu sắc linh động, hoà hài, bố cục vững vàng, cân đối. Mỗi cảnh một bầu không khí riêng biệt. Tỷ dụ một xóm nông gia với lớp nhà cũ kỹ, đàn bò gậm cỏ, đàn gà bới sâu dưới những vòm cây xanh tươi tĩnh lặng hay mấy hàng thông chờ gió để cùng rung điệu với nước mặt hồ, với khu rừng xa xa. Khi trở lại với hội hoạ sau nhiều năm đứt đoạn, Lê Thị Lựu hầu như chuyên về tranh Luạ. Cùng nền lụa, nhưng bút thuật Lê Thị Lựu, Mai Thứ hay Nguyễn Phan Chánh khác hẳn nhau. Mai Thứ cũng dùng nhiều màu sắc tươi vui, nhưng diễn đạt bằng mảng có viền, khác tranh Tầu ở chỗ có khối, tức có sáng tối. Chỗ tối, Mai Thứ lấy bút cùn thấm mực hay màu, chà lên (frottis). Tranh Mai Thứ ở Pháp liệt vào loại ngây ngô (Naïf), đã lấp được khoảng trống trong nền họa phẩm ở Pháp, nên đã có một địa vị nào đó. Tranh Nguyễn Phan Chánh được đề cao vào dịp Đấu Xảo Thuộc Địa 1931 ở Paris. Ông Đốc Trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Đông Dương, Tardieu, năm ấy gửi mấy bức tranh lụa của sinh viên, trong đó có tranh của Chánh, sang Pháp để cổ động cho trường. Ông đã liên lạc với tạp chí L'Illustration trước, để họ viết bài và tuyên truyền bản bình luận khen ngợi tranh của mọi người và đặc biệt của Chánh. Thâm tâm của tạp chí là khen ngợi một thành công của chính sách thuộc địa Pháp. Kỹ thuật vẽ lụa của Nguyễn Phan Chánh theo sát kỹ thuật Tầu cổ hơn cả. Thường đơn sắc (camaïeu). Lê Thị Lựu khi vẽ ở xưởng dùng toàn nền lụa. Tranh lụa của Lựu có xu hướng Tây phương, giầu màu sắc, đắp dầy. Lựu không vẽ theo kỹ thuật Tầu, nghiã là căng lụa lên khung rồi vẽ bằng màu nước. Vẽ xong mới mang bồi lên bìa cứng. Bồi tranh là cả một kỹ thuật riêng. Bồi không khéo hình có thể lệch lạc và thuốc có thể phai mờ. Cũng vì vậy họa sĩ Vũ Cao Đàm đã nghĩ tới cách bồi lụa trước khi vẽ. Lê Thị Lựu cũng dùng cách bồi lụa trước này. Lụa bồi theo cách này có thể vẽ như trên nền vải bố "lin", nghĩa là có thể đắp đầy màu. Chỉ khác là sơn dầu làm cháy lụa nên chỉ dùng màu nước được thôi. Cũng vì vậy tranh lụa của Lê Thị Lựu không giống tranh lụa của mọi người. Nó giầu màu sắc hơn, đa dạng như sơn dầu, nhưng vì màu nước không bóng láng nên có người nhầm là màu phấn (pastel). Thời kỳ khởi đầu, bút pháp và đề tài giống tranh cổ xưa. Sau hơi có ảnh hưởng Modigliani. Một thời kỳ dài chịu ảnh hưởng phái Ấn Tượng như Renoir, Bonnard v.v... Nói là ảnh hưởng nhưng trên thực tế từ bố cục, đề tài, màu sắc đều riêng biệt của Lê Thị Lựu. Mà thử hỏi có họa sĩ nào lại không có thời kỳ bị ảnh huởng. Picasso chịu ảnh hưởng của nghệ thuật Phi Châu (art nègre), Matisse của Maroc, Bonnard Nhật Bản v.v... Lựu ít vẽ tĩnh vật. Toàn thể tranh Lựu dành vẽ các phần tử trong gia đình. Có lẽ vì gia đình là một đơn vị tối trọng của xã hội cần phải đề cao, trong hoàn cảnh đất nước thời ấy, con tố cha, vợ tố chồng. Lựu vẽ trong hành trình sau đây: Bắt đầu chọn khổ lụa rồi sắp bút, sắp thuốc, chọn băng nhạc vì vẽ phải có kèm thanh âm du trí tuệ. Giở mấy trang sách hội họa để hòa mình với các họa phẩm. Đề tài định trước được phác họa bằng than fusain. Sửa đi sửa lại đến khi cho là được mới vào màu. Phác đều các màu để xem cân đối của các mảng. Khi vào chi tiết thì vẽ mặt trước nhất. Tạo xong cái mặt là bức tranh gần như hoàn tất. Khi vẽ mải mê quên đói, quên khát, quên cả ca nhạc bên tai. Thời gian sáng tạo một bức tranh không nhất định. Thường ra là vài ngày nhưng cũng có bức vẽ lưng chừng để đấy, mấy năm sau mới lại vẽ nốt. Phá kỷ lục nhanh có lẽ là bức Em bé mồ côi hoàn thành trong một buổi chiều. Sáng tác tranh có thể ví như sáng tác văn thơ. Nguồn cảm hứng khi đầy, khi vơi. Khi đầy, lời thơ, ý thơ không tìm mà ra, lưu loát, ý nhị, không gò bó, sống sượng. Khi phải gọt đi, dũa lại, mất phong độ hồn nhiên. Lê Thị Lựu quyến luyến đất nước, làng xóm, cảnh vật quê hương nên bao giờ cũng đặt người trong tranh vào những cảnh đồng quê với màu sắc Lựu tự tạo ra, tùy theo bố cục và đòi hỏi của tranh. Có người hỏi: sao trong khi nước nhà nồi da sáo thịt, mà lại thản nhiên ngồi vẽ những cảnh mơ mộng, quá xa với thực tế như vậy. Vô tình đến thế sao? Thực ra đây cũng chỉ là phản ứng đau lòng trước những cảnh điên rồ của đất nước. Có một chiều không nén được nỗi buồn, lấy lụa vẽ xong một em nhỏ, đó là bức Em bé mồ côi. Sau này Thụy Khuê đặt tên Dông tố. Cả hai đều hợp.
Ngô Thế Tân Peimeynade, hè 1995 [1] Tựa do chúng tôi đặt (TK). Chú thích của NTT và TK. [2] Tục lệ xưa cho rằng đứa trẻ ốm đau trường kỳ vì nó đầu thai chưa đúng cửa hay chưa đúng giờ, nên phải cho người khác nuôi giúp một thời gian. Thường thì chẳng thân nhân nào muốn lãnh trách nhiệm nặng nhọc đó, gia đình phải mang cho bên Đạo (đạo Gia Tô) để các bà sơ nuôi hộ ít lâu. [3] Bà Lựu bị lao. [4] Giáo sư Nguyễn Đăng Thục, nhà văn Mai Thảo (Nguyễn Đăng Quý) và nhà phê bình Nguyễn Đăng Mạnh đều là em họ họa sĩ Lê Thị Lựu. [5] Cụ Phạm Huy Lục, nghị trưởng, đã cứu sống Trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Đông Dương vào quãng năm 1930. Lúc đó, kinh tế thế giới và Đông Dương đều bị khủng hoảng trầm trọng, chính phủ Đông Dương quyết định đóng cửa trường. Cụ đã huy động đến tận nghị viện Pháp, nài ép họ can thiệp, trường mới lại được tiếp tục mở cửa. Để cám ơn, ông Tardieu đã biếu cụ hai bức tranh lụa. Hai bức tranh này do sinh viên Lưu Đình Khải vẽ, hiện còn treo ở nhà con cụ tại Paris. (Chú thích NTT). [6] Trong cuốn Trường Đại Học Mỹ Thuật Hà Nội xuất bản năm 1990, trang 49, lại xếp Lê Thị Lựu tốt nghiệp thứ 6! Rất tiếc, sách chính thức do nhà trường xuất bản mà lại có những sai lầm quan trọng như vậy. [7] Lê Thị Lựu ký tên Văn Đỏ vào các ký họa hay hình họa; các bài thơ -rất ít- ký bút hiệu Thạch Ẩn, tên do một nhà sư đặt cho. [8] Cao Văn Bổn sau trở thành Bộ trưởng Kinh tế của Mặt Trận với tên cách mạng Tám Thời, từ trần ở biên giới Việt Miên. [9] René Robin, Toàn quyền Pháp ở Đông Dương từ 1934 đến 1936. Năm 1930, khi làm Thống Sứ Bắc Kỳ, đã hạ lệnh ném bom làng Cổ Am (thuộc Hải Dương), quê Khái Hưng, nơi các yếu nhân Việt Nam Quốc Dân Đảng hay tụ họp. Khái Hưng có viết truyện ngắn và tiểu thuyết về sự kiện này. [10] Tức là những vùng thuộc miền Nam nước Pháp không bị Đức chiếm, còn tự trị. [11] Nước Guinée ở miền tây Phi Châu, trên bờ Đại Tây Dương, giáp giới nước Sénégal. [12] Hội nghị Fontainebleau, tháng 7-9/1946 do Phạm Văn Đồng làm trưởng phái đoàn. [13] Người mua tranh Em nhỏ trong vườn chuối, theo Ngô Thế Tân là Henri de Laborde de Monpezat (1868-1929), nhà báo, chính trị gia, nhà tư bản, chủ đồn điền... một khuôn mặt lừng danh dưới thời chính quyền thuộc điạ, cộng tác thường xuyên với báo L'Avenir du Tonkin, là chủ báo Volonté indochinoise. Ông đến Đông Dương năm 1893; là Đại biểu của Annam trong 26 năm trước Hội đồng Tối cao Thuộc điạ (Conseil Supérieur des Colonies); là nghị sĩ đối lập, ông phê phán các Toàn quyền, bênh vực quyền lợi của người dân bị trị. Nhưng chúng tôi (TK) kiểm chứng lại, người này không thể là Henri de Laborde de Monpezat, vì báo L'Avenir du Tonkin ngày 29/7/1929 loan tin ông vừa mất sau khi bị mổ. Và cuộc triển lãm tranh của các sinh viên trường Mỹ thuật khai trương ngày 15/11/1929. Vậy người mua tranh chỉ có thể là một trong hai người con trai ông, có thể là André. Thực vậy, Henri de Laborde de Monpezat có hai con trai với người vợ đầu là Jacques và André. André có con trai tên Henri de Laborde de Monpezat sau này lấy bà hoàng Đan Mạch, trở thành Prince Henrik de Danemark. Năm 1985, ông Hoàng Đan Mạch de Monpezat đến An Trang hỏi mua tranh nhưng hoạ sĩ không có sẵn, ông rất buồn phải trở về tay không. Ba năm sau, Lê Thị Lựu qua đời. [14] Chân dung Cô Vân (con ông Nguyễn Văn Vĩnh) vẽ bằng phấn mầu (pastel) ngày 26/11/1933. [15] Cô An là mẹ nhà điêu khắc Anh Trần. [16] Quãng năm 1987, họa sĩ Đinh Cường có gửi cho Lựu một tấm hình màu, chụp bức tranh sơn thủy Đường làng Kim Liên. Chủ bức tranh muốn bán với giá 2500US$. Chúng tôi không mua vì muốn để nó ở Việt Nam. Nghe nói sau có người mua mang đi Singapour. Thật kỳ dị: giữa lúc qua đời, ông cựu giám đốc xưởng dệt Hàng Kênh gửi trả lại cho Lựu một tranh vẽ từ khi còn là học sinh ở trường.
|