Thụy Khuê

Phê bình văn học thế kỷ XX

 

Chương 4: Phê bình phân tâm học của Freud

 

Phê bình phân tâm học của Freud, thực ra, chỉ là một khuynh hướng rất nhỏ trong phê bình văn học, nay đã lỗi thời, nhưng vì tên tuổi của Freud và vì hai chữ phân tâm, nó đã được một số tác giả khuyếch trương lên. Hiện tượng này không chỉ xẩy ra ở Việt Nam, mà cả ở Pháp. Sự sai lầm này đã thâm nhập vào Việt Nam từ thập niên 1940: Không ít tác giả đã nói tới phân tâm học và sử dụng trong phê bình, như trường hợp Nguyễn Văn Hanh, Trương Tửu Nguyễn Bách Khoa... Tình trạng này kéo dài và trở nên rất thịnh hành trong giai đoạn văn học miền Nam (1954-1975). Thời ấy, Nguyễn Văn Trung đã hết sức cảnh báo sự kiện dùng phân tâm học để phê bình Hồ Xuân Hương trong bộ Lược Khảo Văn Học, tập 3, Nghiên cứu và phê bình văn học (Nam Sơn, 1968).

Ngày nay, một số tác giả khai quật lại vấn đề này và trình bầy phê bình Phân tâm học của Freud như phương pháp chủ yếu của phê bình văn học thế kỷ XX.

Sự lầm lẫn này phát xuất từ ba vấn đề: hiểu sai Phân tâm học của Freud, hiểu sai nội dung phê bình phân tâm của Freud và hiểu sai nghĩa chữ phân tâm được dùng trong các lãnh vực khác nhau của phê bình, như phê bình phân tâm hiện sinh của Sartre, phê bình phân tâm vật chất của Bachelard, đều có chữ phân tâm nhưng nội dung hoàn toàn khác nhau.

Chúng tôi thấy cần phải giải thích lại, nói rõ nội dung phân tâm học của Freud và giải thích phê bình phân tâm của Freud là gì, khiến độc giả không còn hiểu lầm khi nói đến phê bình phân tâm học. Để giải toả những rối ren này, chúng tôi dừng lại rất lâu trong phần mô tả lý thuyết phân tâm của Freud, thực ra, là một lý thuyết y khoa và triết học, ở ngoài địa hạt phê bình, nhưng nếu không nói rõ nội dung phân tâm học, thì độc giả sẽ không thể hiểu được nội dung phê bình phân tâm của Freud. 

Vì vậy, chương này sẽ chia làm hai phần: Phần thứ nhất, sơ lược về phân tâm học và phần thứ hai, phê bình phân tâm học của Freud.

 

 

I- Nội dung phân tâm học của Freud

 

Sigmund Freud (1856-1939), cha đẻ phân tâm học, sinh ngày 6/5/1856 tại Freiberg, Moravie, thành phố thuộc Tiệp Khắc ngày nay, trong một gia đình Do Thái, nhiều đời phiêu bạt, chạy sự kỳ thị, đến ngụ cư ở Áo trong thế kỷ XIX. Năm Sigmund bốn tuổi, gia đình về Vienne; năm 1873, vào học y khoa, năm 1881, đậu bác sĩ, chọn nội trú chuyên về bệnh tâm thần. Freud trở thành một trong những người tiên phong về lý thuyết tế bào thần kinh, và năm 1884-1885, ông đã in một bài nghiên cứu về những hậu quả trị liệu của cô-ca-in, rồi viết bài Về những người bị cấm khẩu (Sur les aphasies) in năm 1891.

Năm 1885, Freud sang Paris tu nghiệp tại bệnh viện Salpêtrière, theo học bác sĩ Charcot (1825-1893) phép trị liệu bằng thôi miên và dịch Những bài học ngày thứ ba (Les leçons de mardi) của Charcot sang tiếng Đức. Mùa thu năm 1886, Freud trở về Vienne, cưới vợ và mở văn phòng trị bệnh tâm thần bằng điện khí và thôi miên, chuyên về bệnh thần kinh (névrose), đặc biệt chứng thác loạn cuồng trí (hystérie).

Dần dần ông bỏ phương pháp thôi miên, và dùng "phương pháp hồi tâm" (catharsis) mà ông gọi là phân tâm học (psychanalyse). Năm 1938, gia đình Freud sang Luân Đôn tỵ nạn Hitler, ông mất ngày 23/9/1939, vì bệnh ung thư quai hàm. Freud để lại một gia sản tinh thần lớn lao, khoảng trên hai trăm bài viết và đầu sách.

Phê bình văn học chỉ là phần rất nhỏ trong sự nghiệp đồ sộ này, tập hợp trong hai, ba bài viết, thậm chí những người viết tiểu sử ông trong các bộ toàn thư không hề nhắc đến, nhưng được một số người hiểu lầm, phóng đại và cho nó một tầm quan trọng không thực sự có.

 

Freud bắt đầu xây dựng nền móng phân tâm học từ năm 1895, khi nghiên cứu những giấc mơ của những người bị bệnh tâm thần và thấy vai trò quan trọng của tính dục trong sự rối loạn tâm thần. Ông xác định: "những rối loạn thần kinh thường có nguyên nhân là những rối loạn tính dục".

Rồi ông chuyển dần từ phương pháp thôi miên sang phương pháp hồi tâm (catharsis), tức là thay vì dùng thôi miên, dẫn người bệnh vào giấc ngủ nhân tạo để khám phá những bí ẩn của bệnh nhân, Freud chuyển sang phương pháp giải thoát cảm xúc: tức là trò chuyện với người bệnh trong lúc họ tỉnh táo, để đưa ra ánh sáng những biến cố gây chấn thương đã bị dồn nén trong đầu người bệnh. Một khi bệnh nhân nói ra được những ẩn ức ấy, là có cơ bình phục. Ông đặt tên phương pháp này là phân tâm học (psychanalyse) dựa trên ba thành tố chính: thúc đẩy tính dục (pulsion sexuelle) hay libido, sự dồn nén (refoulement) và vô thức (l'inconscient). Năm 1896, danh từ phân tâm học theo nghiã của Freud, được khai sinh. Và Freud định nghiã: Giấc mơ là sự thực hiện một ham muốn" hay chính xác hơn: "Giấc mơ là sự thực hiện (trá hình) một ham muốn (bị dồn nén)"[1].

Freud cho rằng: nguồn gốc của những rối loạn tâm thần phát sinh từ những ham muốn bị dồn nén, liên quan đến mặc cảm Œdipe[2] có từ tuổi thơ trong con người, không liên hệ gì đến luân lý hay những ham muốn khác của con người.

Những ham muốn này, tuy bị dồn ép, vẫn tiếp tục tồn tại trong vô thức, chỉ có thể bộc lộ ra ngoài một cách trá hình, tức là bị bóp méo, biến dạng. Vì vậy, bên cạnh các triệu chứng tâm thần, luôn có những giấc mơ hay những việc làm sái (actes manqués).

Trong cuốn Giải mộng (La science des rêves hay L'interprétation des rêves), phát hành năm 1900, Freud xác định những quy luật đại cương để giải mật những triệu chứng tâm thần mà nguyên do phát xuất từ vô thức.

 

Sự xây dựng lý thuyết phân tâm học của Freud có thể chia làm ba giai đoạn:

- 1895-1900, thời kỳ tìm tòi và xây dựng lý thuyết.

- 1900-1917, thời kỳ đào sâu và phát triển.

- Từ năm 1917 trở đi là sự kiện toàn lý thuyết phân tâm.

Năm 1900 là cái mốc quan trọng, vì là năm ông vừa hoàn tất sự tìm kiếm và xây dựng xong lý thuyết phân tâm. Đối với ông, 1900 cũng là năm bắt đầu một thế kỷ mới, Freud trình làng tác phẩm chủ yếu Giải mộng (L'Interprétation des rêves), tuy đề in năm 1900, nhưng sách đã ra mắt từ tháng 11/1899. Didier Anzieu viết:

"Freud 43 tuổi rưỡi, đã bỏ ra gần bốn năm làm việc cật lực để hoàn thành bộ sách này. Thực vậy, từ tháng 7/1895, ông đã khám phá ra rằng những giấc mơ là để thoả mãm sự ham muốn. Tháng 10/1895, ông gửi cho Fliess bản Dự thảo một khoa tâm lý (Le Projet d'une psychologie scientifique) chỉ in sau khi ông mất. Đầu năm 1896, ông ghép chữ Psycho-analyse, để chỉ phương pháp khảo sát vô thức và làm vựng tập những phát biểu lý thuyết đang thành hình. Tháng 10/1896, Jacob, cha ông mất. Sự kiện này gây biến động nội tâm, tác động mạnh lên ông, tạo ra những ám ảo (fantasmes) trong những giấc mơ (rồi đến những hình thức khác như: quên, nói nhịu, làm sái, và kỷ niệm-màn ảnh (souvenirs-écrans)[3] mà ông đem ra tự phân tâm mình, từ đó nẩy mầm trong đầu những khái niệm mới liên quan đến sự điều hành của tiềm thức và vô thức và sự nối khớp giữa hai yếu tố này trong cái mà ông gọi là bộ máy tâm thần (l'appareil psychique) với hệ thống nhận thức-ý thức (le système perception-conscience). Ông lần lượt cập nhật mặc cảm Œdipe tháng 10/1897 và sang năm 1898, những ám ảo của cảnh sơ khai (le fantasme de scène primitive), năm 1899, sự hoảng sợ bị thiến (l'angoisse de castration) (...).

Giải Mộng là cuốn sách đầy cảm hứng, sống động, mạo hiểm, nhưng khó đọc vì những tư tưởng tân kỳ chuyên chở trong đó, vì sự phức tạp của kiến trúc, vì sự gắt gao và đa dạng của các lý thuyết, vì những mới lạ của các khái niệm (...). Chất liệu dồi dào: khoảng 160 giấc mơ được kể lại, trong đó có 50 của Freud, 70 của họ hàng, bệnh nhân, bạn bè, học trò, và 40 do ông tìm thấy trong sách vở (...)

Freud chờ đợi rất nhiều ở bộ sách lớn lao này: chờ sự công nhận những giá trị mà ông khám phá ra, mong chấm dứt sự cô đơn trí thức, chờ sự nổi tiếng, bệnh nhân kéo đến nườm nượp, tiền bạc dư giả, nói tóm lại là quyền uy và vinh hiển. Thực tế xẩy ra trái ngược hẳn, kỳ vọng càng lớn thì sự thất vọng càng cao. Cuốn sách bán không chạy, nhà xuất bản thiệt hại nặng, theo Jones[4] sách in 600 cuốn mà 8 năm mới bán hết (...). Một vài bài tường thuật hiếm hoi trong các báo y khoa, khá ngu dốt hoặc chê bai. Những đồng nghiệp, bạn bè, nổi giận vì nhận ra mình trong những mẫu người lấy làm ví dụ. Freud gượng an ủi là mình đi trước thời đại 15, 20 năm, nhưng ông bị chạm tự ái, khi phải sửa lại những chữ viết nhầm, những sai sót trong bản đã in"[5].

Vì vậy, sau đó Freud viết những bài luận văn hay những cuốn sách mỏng, dễ hiểu hơn cho mọi tầng lớp độc giả, trong số có những cuốn: Về giấc mơ (Sur le rêve), (1901), Tâm thần bệnh lý học trong đời sống hàng ngày (Psychopathologie de la vie quotidienne), (1901-1904), Ba tiểu luận về lý thuyết tính dục (Trois Essais sur la théorie sexuelle), (1905),... Năm 1915, ông viết một loạt bài quan trọng để "soi sáng và đào sâu những giả định lý thuyết mà hệ thống phân tâm học dựa vào", một số được thu thập lại và in trong tập Siêu tâm lý học (Métapsychologie)[6]. Đến năm 1917-1918, ông viết cuốn Phân tâm học nhập môn (Introduction à la psychanalyse), tuy gọi là "nhập môn", nhưng cuốn sách này tổng kết một cách chi tiết nội dung phân tâm học. Đó là những sách cơ bản. Năm 1923, Freud cho xuất bản cuốn sách nhỏ Cái tôi và cái đó (Le Moi et le ça), giải thích lại tiến trình thúc đẩy và dồn nén của libido trong vô thức, thay hai luận chứng ban đầu: tiềm thức/vô thức/ý thức, rồi vô thức/tiền thức/ý thức bằng luận chứng: Cái tôi/cái đó/cái siêu tôi.

Chúng tôi chọn trình bầy sơ lược nội dung những sách cơ bản này, để độc giả thấy rõ tiến trình tư tưởng của Freud. Độc giả có thể thấy một vài chủ đề được lập lại trong hai cuốn sách khác nhau, tuy nhiên chúng tôi vẫn dẫn lại, vì đã được tác giả thay đổi hoặc giải thích rõ hơn.

Cuốn Về giấc mơ (Sur le rêve) viết trong thời điểm Freud đang bị khủng hoảng tinh thần vì sự thất bại của cuốn Giải Mộng, nên không có nhiều cảm hứng, không phân chương mục, cho nên thay vì Về giấc mơ, chúng tôi sẽ giới thiệu chương Giấc mơ trong cuốn Phân tâm học nhập môn, sâu sắc hơn.

 

 

Tác phẩm Ba luận văn về lý thuyết tính dục

Cuốn Ba luận văn về lý thuyết tính dục (Trois Essais sur la théorie sexuelle), in năm 1905, gây cho Freud nhiều hệ lụy nhất. Người khen cho rằng đó là "sự đóng góp đáng ghi nhớ nhất, tân kỳ nhất, trong những đóng góp của Freud vào kiến thức nhân loại" (James Stracheys). Sách in 1000 cuốn, bán trong 4 năm mới hết. Từ năm 1910 đến 1920, in thêm 4000 cuốn nữa. Cuốn sách này đã làm cho Freud bị "gần cả nhân loại" ghét. Ông nhận được không biết bao nhiêu lời nhục mạ và rủa xả. Theo Jones, người ta thấy cuốn sách vô luân, tác giả độc hại, tục tĩu dâm bôn. Ra đường mọi người không thèm chào ông nữa[7].

Trong chương I, tựa đề Những thác loạn dục tính (Les aberrations sexuelles), Freud kê khai, mô tả và giải thích những hình thức thác loạn, được chia làm hai loại:

1/ Loại đồng tính và ái nam ái nữ, được giải thích như dấu hiệu suy thoái thần kinh (thời ấy, đồng tính bị coi là bệnh hoạn).

2/ Loại chưa trưởng thành trong tính dục (trẻ con) hoặc lấy con vật làm đối tượng vật dục (xẩy ra ở thôn quê).

Chương này gây sốc lớn bởi sự mô tả những cách giao cấu thác loạn.

Trong đoạn Thúc đẩy tính dục ở những người loạn thần kinh (La pulsion sexuelle chez les névrosés), Freud xác định lại một lần nữa: Sự thúc đẩy tính dục là nguyên nhân gây bệnh thần kinh. Vì những thúc đẩy này bị dồn nén, không được thoả mãn, chúng tìm cách thoát và nổ ra bằng những triệu chứng bấn loạn thể xác, dưới các hình thức thác loạn dâm bôn. Ở những người bệnh thần kinh, tình trạng này thường phát ra sau tuổi dậy thì[8].

Trong chương II, tựa đề Tính dục của trẻ con (La sexualité infantine)[9], Freud đưa ra những khái niệm còn sốc hơn nữa, ông cho rằng trẻ con là một kẻ "đồi trụy đa hình thức" (un pervers polymorphe). Tất cả những thứ lỗ trên người (miệng, mũi, tai, hậu môn...) đều được nó dùng để thoả mãn dâm tính. Các trò hôn, hít, bú, mớm, mút, sờ tý, rặn ị... đều có mục đích thoả mãn dâm tính từ thủa mới ra đời. Một quan niệm như thế ở đầu thế kỷ XX, quả là "không thể chấp nhận được".

Nhưng có ba điểm quan trọng trong cuốn sách này:

1- Freud xác định: thúc đẩy tính dục là nguyên nhân các bệnh thần kinh.

2- Freud xác định: thúc đẩy dục tính có từ tuổi thơ. Đến tuổi dậy thì, nó thay đổi bộ mặt.

3- Freud định nghiã Libido lần đầu.

 

 

Libido

Khái niệm libido, xuất hiện trong cuốn Ba luận văn về lý thuyết tính dục, ở dòng đầu, chương I, tựa đề Những thác loạn dục tính (Les aberrations sexuelles), Freud viết:

"Trong sinh vật học, người ta giải thích sự hiện hữu những nhu cầu tính dục nơi con người và con vật bằng giả thuyết có một "thúc đẩy tính dục" (pulsion sexuelle), được xem như tương tự với thúc đẩy thực phẩm: (ăn vì) đói. Nhưng vì ngôn ngữ bình dân thiếu chữ tương đương với chữ đói, nên khoa học phải dùng chữ "libido"[10].

Trong bản in năm 1910, Freud chua thêm: Có một chữ thích hợp trong tiếng Đức là Lust thì nó lại mập mờ, chỉ cả nhu cầu lẫn sự thoả mãn[11]. Ở trang 157, ông viết dài hơn:

"Chúng tôi đã định nghiã khái niệm libido như một sức mạnh mà định lượng thay đổi, cho phép ta đo những phát triển và những sự đổi chỗ trong phạm vi kích thích tính dục"[12].

Libido sau đó, được Freud giải thích ngắn gọn là năng lượng thúc đẩy tính dục (énergie de la pulsion sexuelle) hay năng lượng tính dục (énergie sexuelle), cũng có thể dịch là năng lượng nhục dục và hiểu nôm na là độ dâm trong tính dục, nhưng chúng tôi giữ nguyên chữ libido của Freud.

Freud phân biệt năng lượng libido với các thứ năng lượng thúc đẩy khác trong tâm thần, như thúc đẩy đói, và ông trách Jung đã đồng hoá libido với những thúc đẩy tâm thần nói chung[13]. Ông cho biết, sự khảo sát những trường hợp dâm bôn (perversions) và những tâm kinh bệnh (psychonévroses), cho thấy những kích thích tính dục này không chỉ đến từ những bộ phận sinh dục mà từ tất cả các bộ phận khác trong thân thể.

Libido, sẽ là một trong những khái niệm chủ yếu của phân tâm học Freud, ban đầu được trình bầy dưới hình thức: thúc đẩy tính dục (pulsion sexuelle), rồi chuyển sang sức mạnh của độ đẩy (la force de la pulsion), rồi năng lượng tính dục (énergie de la pulsion sexuelle) và được gọi tên là libido. Libido còn có nghiã là cường lực của thúc đẩy tính dục, ta có thể hiểu là độ dâm của tính dục. Và chính cái độ dâm này khi bị dồn nén đã gây ra những rối loạn tâm thần.

 

 

Tác phẩm Siêu tâm lý học

Siêu tâm lý học (Métapsychologie)[14], là tác phẩm quan trọng, gồm 5 bài thu thập được và in thành sách. Cuốn sách tương đối nhỏ, nhưng phải do một ban phiên dịch đảm nhiệm. Các dịch giả Pháp cho biết: "Vì tầm quan trọng cực kỳ của những bài này, vì tính chặt chẽ của luận chứng và sự tối nghiã đôi khi cố hữu ở những vấn đề bàn luận, chúng tôi cố gắng dịch đặc biệt sát với bản tiếng Đức, vì vậy có thể thấy là thô nhám".[15] Tác phẩm này giải thích ba vấn đề cơ bản trong lý thuyết phân tâm: Thúc đẩy (pulsions), dồn nén (le refoulement) và vô thức (l'inconscient). Chúng tôi xin tóm tắt một số ý chính bằng ngôn ngữ dễ hiểu và mạn phép đưa ra một số ví dụ nôm na để độc giả dễ tiếp thu.

 

* Thúc đẩy tính dục

Thúc đẩy tình dục (Les pulsions sexuelles) là khái niệm quan trọng đầu tiên của phân tâm học. Để giải thích khái niệm thúc đẩy (pulsion), Freud đưa ra khái niệm kích thích (exitation).

Đối với sinh lý học, thì kích thích là yếu tố từ bên ngoài đánh vào một tổ chức sống động của con người như hệ thần kinh (système nerveux). Nếu một hệ thần kinh bị tấn công, thì nó sẽ chống lại dưới dạng hành động [tạm lấy thí dụ: khi bị chửi, ta nổi xung đánh kẻ chửi.].

Theo Freud, kích thích, có thể coi như tương đương với thúc đẩy; tuy nhiên khác nhau ở chỗ: kích thích là yếu tố bên ngoài đánh vào cơ thể, còn thúc đẩy là tố bên trong cơ thể đánh vào tâm thần (psychique) của đương sự.

Kích thích là hiện tượng chốc lát, còn thúc đẩy là hiện tượng lâu bền.

thúc đẩy không đến từ bên ngoài mà nó ở trong cơ thể, nên ta không thể lẩn trốn nó được, mỗi lần "nó đến", ta gọi là có nhu cầu (besoin). Và muốn triệt hạ cái nhu cầu đó, thì ta không thể "đánh" lại ta từ bên trong, mà ta phải làm thoả mãn nó [thí dụ đói thì phải ăn].

Có nhiều loại thúc đẩy, không thể kể hết được, như: thúc đẩy bài bạc, rượu chè, phá hoại, nha phiến, đánh lộn, giết người,...

Có những thúc đẩy không thoả mãn không được, như: đói, đại, tiểu tiện,...; và có những thúc đẩy có thể chờ đợi hay "nhịn" được, như libido.

Freud chia làm hai loại và đặt tên:

- Thúc đẩy của cái tôi (pulsions du moi) còn gọi là thúc đẩy tự bảo tồn (pulsions d'auto-conservation) như: ăn, uống...

- Và thúc đẩy tính dục (pulsions sexuelles).

Khi khảo sát bệnh tâm thần, Freud thấy nguồn cội của căn bệnh này là sự xung đột giữa thúc đẩy của cái tôi với thúc đẩy tính dục.[16]

Nhưng theo sinh vật học, thì không thể cho tính dục nằm chung với các sinh hoạt khác của cá nhân bởi vì xu hướng tính dục vượt quá cá nhân, mục đích cuối cùng của nó là sinh sản, tức là bảo tồn chủng loại.

Freud lại thấy rằng: điểm đặc biệt của thúc đẩy tính dục là dù xuất hiện dưới hình thức nào, mục đích của nó vẫn là thoả mãn khoái lạc thể xác, và khi đã được thoả mãn rồi, thì nó mới có nhiệm vụ bảo tồn nòi giống. Do đó, thúc đẩy tính dục có cả hai bộ mặt: bảo tồn lẫn tính dục, Freud viết: "vì vậy một phần của nó gắn bó với thúc đẩy cái tôi suốt đời và cấp cho nó những thành phần thuộc libido, bình thường thoát khỏi con mắt mọi người và chỉ để lộ trong trường hợp bệnh hoạn"[17]. Tức là: thúc đẩy tính dục vừa đòi thoả mãn nhục dục nhất thời vừa bảo tồn nòi giống; bình thường nó tự giấu, người ngoài không thấy được, chỉ trong trường hợp bệnh hoạn, nó mới lộ rõ ra ngoài.

Freud tìm thấy bốn bộ mặt hay cá tính của thúc đẩy tính dục:

- Lật ngược tình thế: chuyển thúc đẩy chủ động sang thụ động (xoay ham muốn giao cấu sang sự thích nhìn cảnh này) hoặc thay đổi hẳn nội dung thúc đẩy (tình yêu đổi sang thù hận).

- Lật ngược chính mình (khổ dâm).

- Dồn nén.

- Siêu hoá (sublimation): lái libido sang những mục đích cao cả.

Freud viết: "Từ nguyên thuỷ xuất phát đời sống tâm thần, cái tôi đã bị những thúc đẩy bao vây, và có khả năng thoả mãn một phần những thúc đẩy này trên chính nó. Ta gọi tình trạng này là tự yêu mình (narcissisme)[18] và ta định danh cái khả năng thoả mãn này là tự dâm" (auto-érotique)[19].

Nhưng sự ham muốn không thể để lộ ra ngoài, và sự thoả mãn nhục dục, không phải lúc nào cũng đạt được. Vì thế, thúc đẩy tính dục hay libido có thể đạt tới những việc rất xa với mục đích ban đầu, như siêu hoá (sublimation).

Siêu hoá (sublimation) là sự bảo tồn cái tôi bằng cách lái libido sang những mục đích không có tính cách nhục dục, như những hoạt động xã hội, cứu người,...

 

 

* Sự dồn nén

Dồn nén (le refoulement) là khái niệm quan trọng thứ nhì trong phân tâm học. Câu đầu tiên trong chương viết về dồn nén, Freud cho rằng những thúc đẩy (pulsions) vấp phải chướng ngại đầu tiên là lực cản, nhắm vô hiệu hoá nó, và ông gọi đó là sự dồn nén (le refoulement).

Như trên đã nói: Đối với những kích thích đến từ bên ngoài, ta dễ đối phó, nhưng đây là những thúc đẩy từ bên trong, thì rất khó bởi vì ta không thể chạy trốn ta được. Cho nên tự kết án là phương pháp hữu hiệu nhất để vô hiệu hoá những thúc đẩy này.

Freud cho rằng: Dồn nén là khâu trung gian giữa trốn chạy và bị kết án. Nói khác đi, những thúc đẩy ở trong ta, bị chính ta đuổi đánh, kết án, không chạy trốn đi đâu được, chúng đành chịu bị dồn nén, tức là: làm sao mà giấu chúng đi, không cho ý thức biết, bởi vì ý thức mà biết thì nó cấm[20].

Những thúc đẩy tính dục hay libido bị cấm này, đã bị dồn nén rồi, nghĩa là đã bị ta giấu trong chỗ kín rồi, nhưng chúng không chết, mà chúng bắt đầu sinh mầm non, rồi chúng đánh lừa ta, chúng tự tổ chức "băng đảng" để sẵn sàng hành động và hiện ra dưới bộ mặt "dễ thương" khiến cho ý thức của ta có thể chấp nhận được.

Khảo sát những trường hợp bệnh thần kinh, Freud thấy rằng dưới bộ mặt dễ thương mới mẻ này, libido âm thầm sinh sôi nẩy nở và tìm ra những cách diễn đạt nguy hiểm trong đầu óc bệnh nhân. Chúng trá hình dưới các hình thức khác để vượt "tường lửa" của ý thức và hiện ra dưới bộ mặt ngây thơ vô tội. Người ta không thể biết được hết thiên hình vạn trạng của những sự trá hình này. Vì vậy, phân tâm học phải điều tra hai điểm: phát xuất từ những thúc đẩy nào và sau khi trá hình chúng biến thành những dạng thức như thế nào[21].

Chỗ libido bị ta giam kín tạm thời, Freud gọi là vô thức.

 

 

* Vô thức

Vô thức (l’inconscient) là khái niệm thứ ba và quan trọng nhất trong phân tâm học, được Freud định nghiã khá mập mờ:

"Phân tâm học cho ta biết rằng tính chất cơ bản của tiến trình dồn nén không phải là loại trừ hay tiêu diệt sự xuất trình lại một thúc đẩy mà là không cho nó trở thành ý thức [tức là được biết đến]. Chúng tôi nói rằng nó ở trong tình trạng "vô thức" và chúng tôi có thể cung cấp những cớ chắc chắn chứng tỏ rằng, dù ở trong tình trạng "vô thức", nó vẫn có thể sản sinh những hiệu quả mà một số đạt tới ý thức [được biết]. Cái bị dồn nén nào cũng tất yếu trú ngụ trong vô thức, nhưng trước tiên, chúng tôi xin nói là nó không bao phủ hoàn toàn vô thức mà chỉ chiếm một phần của vô thức.

Làm sao đạt tới sự nhận diện vô thức? Dĩ nhiên, chúng ta chỉ có thể biết nó như biết ý thức, một khi nó đã bị đổi chỗ hay được chuyển thể sang ý thức. Công việc phân tâm giúp chúng tôi mỗi ngày kinh nghiệm có thể làm được việc chuyển thể như thế"[22].

Nói gọn lại: libido bị dồn nén vào một nơi kín được gọi là vô thức, tức là chỗ mà ý thức không biết hay giả vờ như không biết đến nó. Nhưng như trên đã nói, nó không chịu chết cứng mà nó tổ chức phản kháng, chuyển thể, giả làm mặt dễ thương để được ý thức chấp nhận, tức là được biết đến.

Trong phần Biện minh cho vô thức (Justification de l'insconscient), Freud cho biết, tuy khái niệm vô thức bị phản đối mọi mặt, ông vẫn thấy nó cần thiếtchính đáng và ông có nhiều bằng chứng xác nhận sự hiện hữu của vô thức.

Cần thiết bởi vì những điều biết được về ý thức còn đầy thiếu sót, có những hành vi thuộc địa hạt tâm thần không thể giải thích được bằng ý thức như những giấc mơ hay những việc làm lộn, làm sái (actes manquants) ở người lành mạnh và có những triệu chứng tâm thần, những hiện tượng bị dồn nén hoảng loạn (phénomènes compulsionnels) nơi người bệnh. Hoặc nếu ta kể đến tất cả những kỷ niệm mà ta ngầm giữ trong đầu thì cũng không thể không công nhận là có vô thức, là nơi chôn giấu những kỷ niệm không thể nói ra này. Nói chung, theo Freud, những trạng thái tiềm tàng, ngầm, ẩn, mà ý thức không biết, hiển nhiên thuộc vào điạ hạt vô thức. Sở dĩ người ta không cho những trạng thái ngầm này tính chất tâm thần bởi vì người ta không nghiên cứu nó, trừ phân tâm học. Còn có những người không biết đến những dữ kiện bệnh lý này là vì họ cho rằng những việc làm lộn, làm sái của những người bình thường là do tình cờ và họ tin vào câu châm ngôn cũ rích mơ là bịa (songe est mensonge)[23].

Tóm lại, trong Siêu tâm lý học, Freud đã xác định rõ ba yếu tố cơ bản của phân tâm học là: sự thúc đẩy tính dục hay libido, sự dồn nénvô thức.

 

 

Tác phẩm Cái tôi và cái đó

 

Một cuốn sách nhỏ nhưng đáng chú ý là Cái tôi và cái đó (Le Moi et le ça), in năm 1923. Trong tác phẩm này, Freud đã thay đổi một phần quan điểm phân tâm của ông, ở đây, ông dùng bộ ba: Cái tôi/ cái đó/ cái siêu tôi, để thay thế cho bộ ba: Vô thức/ tiền thức/ ý thức, đã được dùng từ trước đến bấy giờ. Những người chỉ tiếp xúc với thời kỳ đầu của Freud, chỉ biết đến bộ ba: Vô thức/ tiền thức/ ý thức, mà không biết đến bộ ba Cái tôi/ cái đó/ cái siêu tôi. Chúng tôi xin sơ lược giải thích vấn đề này.

Khái niệm tiềm thức (subconscient) được Freud đưa ra từ năm 1895, trong bài Những nghiên cứu về chứng loạn thần khinh (Les études sur l'hystérie), ở đó, ông định nghiã: Subconsient hay tiềm thức là tình trạng tâm thần mà chủ thể không ý thức được, nhưng nó có ảnh hưởng tới thái độ và các phản ứng tâm lý.

Bộ ba yếu tố: ý thức/ tiềm thức/ vô thức ban đầu, được Freud trình bày theo tiến trình sau đây: những thúc đẩy tính dục, trước tiên, được biết đến (tức là ta ý thức được những thúc đẩy này), rồi chúng mới bị ý thức dồn nén vào tiềm thức, nhưng chúng vẫn chưa hoàn toàn bị vô hiệu hoá, chúng vẫn còn tác động, chỉ sau cùng chúng mới bị dồn vào vô thức, và để quên trong đó. Vậy tiềm thức là trạm trung gian giữa thúc đẩyvô thức, và tiến trình ý thức / tiềm thức / vô thức là luận cứ đầu tiên của phân tâm học.

 

Năm 1915, trong Siêu tâm lý học, Freud sửa lại luận cứ này, loại tiềm thức (subconscient) ra vì ông bảo: "nó không đúng và gây nhầm lẫn", dẫn đến sự hiểu lầm có hai ý thức: ý thức là chính và tiềm thức là thứ ý thức hạng hai, tuy yếu nhưng vẫn còn tác động. Vì vậy, Freud thay tiềm thức (subconscient) bằng tiền thức (préconscient), và thúc đẩy tính dục sẽ được ông trình bầy theo tiến trình sau đây: thức/ tiền thức/ ý thức. Tiến trình này đi đôi với lập luận sau đây của Freud:

Vô thức gồm chứa những hành vi ngầm, đợi (les actes latents), tạm thời ta không biết. Một hành động tâm thần (như libido) phải trải qua hai vòng, giữa hai vòng đó, có một kỳ sát hạch gọi là kiểm duyệt. Trong vòng đầu, nếu libido bị kiểm duyệt loại ra, không được vào vòng hai, thì nó bị dồn nén vào vô thức, và nó trở thành vô thức. Nhưng nếu nó thoát được màn kiểm duyệt để vào vòng hai, thì nó sẽ thuộc vào hệ thống gọi là hệ thống ý thức.

Tạm lấy thí dụ: ta có thúc đẩy tính dục, nhưng thoạt đầu ta chưa biết, tức là ta chưa ý thức được nó; nhưng đồng thời thúc đẩy này, sẽ bị trải qua bộ phận kiểm duyệt: nếu là một thúc đẩy "lành mạnh" (như thúc đẩy libido với người vợ), thì nó sẽ được thực hiện, tức là được ý thức cho phép; nhưng nếu là thúc đẩy libido "bất chính" (như loạn luân) thì nó sẽ bị kiểm duyệt cấm và đưa vào giam trong vô thức. Đó là chặng đầu.

Bây giờ tới chặng thứ nhì: Libido (bất chính) bị giam trong vô thức, nhưng nó không chịu ở yên, nó tìm cách thoát ra ngoài, tức là làm sao để ý thức cho phép nó hiện diện. Vì thế, nó phải trá hình, đánh lừa kiểm duyệt, để được vào tiền thức, trước khi trở thành ý thức thực thụ dưới bộ mặt mới.

Khi nó chưa được tiếp nhận hoàn toàn, tức là nó còn ở tình trạng tạm thời, sắp sửa trở thành ý thức, Freud gọi đó là tiền thức (préconscient)[24]. Vậy tiền thức là tình trạng tâm thần, hiện vẫn còn trong vô thức nhưng sắp sửa trở thành ý thức.

Tóm lại, đối với Freud, tiến trình thúc đẩy tính dục sẽ như sau: vô thức/ tiền thức/ ý thức.

Chỉ khi nào libido không thoát vòng kiểm duyệt trong giai đoạn hai, tức là bị từ chối hẳn, bị bắt buộc ở lại trong vô thức, thì nó mới làm hoảng loạn (angoisse) gây ra những hình thức bệnh lý, như chứng hoảng loạn thần kinh (hystérie d'angoisse)[25].

Đó là luận cứ của Freud trong Siêu tâm lý học, năm 1915.

 

Nhưng đến năm 1923, Freud lại đưa ra một luận cứ mới trong cuốn Cái tôi và cái đó (Le Moi et le ça), ông thay đổi luận cứ: vô thức/ tiền thức/ ý thức, thành: le moi/ le ça / le surmoi, tạm dịch là cái tôi/ cái đó/ cái siêu tôi.

Cái đó (le ça) là bình chứa những thúc đẩy và dồn nén, tức là "cơ quan" chứa những thứ bị cấm và quyết định sự kiểm duyệt. (Tương tự như vô thức)

Cái tôi (le moi) là cái đó thoát vòng kiểm duyệt, có bộ mặt mới để được trình diện với xã hội.

Cái siêu tôi (le surmoi) là khoảnh khắc của cái tôi lý tưởng mà cá nhân muốn đạt được theo mẫu của cha mẹ, là vị trí của cái tôi trong điạ hạt tưởng tượng, thể hiện lý tưởng của trẻ con, tưởng mình vô địch, thoát thai từ sự tự yêu mình (narcissisme)[26].

 

Tác phẩm Phân tâm học nhập môn

 

Năm 1900 là năm Freud trình làng lý thuyết phân tâm học với cuốn Giải mộng. Tác phẩm không đạt kết quả mong muốn.

Năm 1917, đánh dấu một ngõ quặt với cuốn Phân tâm học nhập môn (Introduction à la psychanalyse) viết năm 1916-1917. Đây là cuốn sách quan trọng, trong đó Freud định vị và đào sâu một số khái niệm đã có từ trước, đôi khi ông thay đổi và đưa thêm những khái niệm mới. Sau đây là những vấn đề chính được đề cập trong Phân tâm học nhập môn.

 

* Phân tâm học là phương pháp trị liệu bệnh tâm thần

Trong bài Tựa cuốn Phân tâm học nhập môn[27], Freud định nghiã phân tâm học như sau: "Phân tâm học là một phương pháp trị liệu những người bị bênh tâm thần", nhưng ông báo trước: "về phương diện kết quả không có gì là bảo đảm". Về nội dung của phương pháp này, Freud viết:

"Trị liệu phân tâm học là một cuộc trao đổi lời nói giữa người bị phân tâm và bác sĩ. Bệnh nhân kể những biến cố trong quá khứ của đời mình và nói những cảm tưởng hiện tại, thú nhận những ham muốn và những cảm giác. Bác sĩ chuyên chú điều khiển những ý tưởng của bệnh nhân, đánh thức những kỷ niệm, hướng sự chú ý của bệnh nhân về một số định hướng, rồi bác sĩ giải thích và quan sát phản ứng hiểu hay không hiểu mà ông đã tạo ra cho người bệnh".[28]

Như vậy, đối với Freud, phân tâm học chính là phương pháp trị liệu bệnh tâm thần.

Freud định nghiã phương pháp trị liệu bệnh tâm thần, như sau:

1- Dùng sự điều tra những diễn biến tâm thần trong vô thức mà những phương pháp khác không thể đạt được.

2 - Xây dựng trên sự điều tra này, để chữa những bệnh nhân bị rối loạn tâm thần.

Theo ông, không ai có thể tham dự những buổi chữa bệnh này, vì người bệnh chỉ thổ lộ với một người mà họ tin cậy, khi có mặt một người khác, họ sẽ không nói gì hết, cho nên phương pháp phân tâm học này mọi người chỉ được nghe nói chứ chưa được tham dự thực sự bao giờ. Và ta có thể thực hiện việc phân tâm chính mình[29].

 

* Những khám phá của phân tâm học

Theo Freud, những kết quả đầu tiên của phân tâm học cho thấy:

1- Khám phá thứ nhất: Vô thức điều hành tâm thần. Ý thức chỉ điều khiển vài việc đơn lẻ, tức là một phần của tâm thần. Freud viết: "Tôi có thể bảo đảm với quý vị rằng sự chấp nhận vô thức điều hành tâm thần, khánh thành một hướng đi mới có tính quyết định, trong khoa học."[30]

2- Khám phá thứ nhì: sự thúc đẩy tính dục là nguyên nhân quyết định những bệnh thần kinh và tâm thần, nó giữ một vai trò quan trọng phi thường và cho đến bây giờ [1917] chưa được đánh giá đúng mức. Hơn thế nữa, những thúc đẩy tính dục này còn góp phần không nhỏ vào việc cấu tạo tinh thần con người trong những điạ hạt văn hoá, nghệ thuật và xã hội.

Chúng ta thấy ở đây, tức là năm 1917, lý thuyết phân tâm của Freud đã thay đổi:

- Freud xác định vô thức chỉ huy tâm thần chứ không phải ý thức. Trước đây không có xác định này. Tất cả những người chấp nhận vô thức, đều sử dụng điều này để xây dựng lập luận của họ, tiêu biểu là Breton (1896-1966) và những người thuộc nhóm Siêu thực.

- Freud xác nhận những thúc đẩy tính dục góp phần vào viêc cấu tạo tinh thần con người, trong các địa hạt văn hoá và xã hội. Điều này ông cũng mới thêm vào (trước đây Freud chỉ cho rằng libido bị cưỡng bức, phải đổi hướng, phải siêu hoá (sublimation) tức là làm những việc không liên hệ đến tính dục, để được ý thức chấp nhận). Điểm siêu hoá này, cũng sẽ được Breton và những người tin vào vô thức, sử dụng, coi vô thức là nguồn của sáng tạo.

Tuy nhiên, Freud đã tự mâu thuẫn với chính mình khi ông đưa ra điểm này, vì ở nhưng chương viết về giấc mơ (xem ở dưới), Freud phân biệt rõ: những giấc mơ tỉnh (rêves éveillés) [tức là mơ mộng] sản phẩm của tưởng tượng, là một hiện tượng khác, và ông coi những giấc mơ tỉnh mới là nguồn cội của sáng tác. Mơ tỉnh không liên hệ gì tới giác mơ trong khi ngủ, vì người sáng tác, ở trong tình trạng mơ tỉnh hay mơ mộng, tức là tưởng tượng, trong lúc thức.

Nói tóm lại, năm 1917, Freud cho rằng những thúc đẩy tính dục hay libido bị dồn nén, sẽ siêu hoá, tức là bị đổi hướng sang làm việc văn hoá đã góp phần vào việc mở mang văn hoá nghệ thuật.

Freud giải thích: "Mỗi cá nhân mới, bước vào xã hội loài người, là bị bắt buộc phải hy sinh những bản năng của mình. Trong số những sức mạnh bản năng bị dồn nén đó, xung động tính dục giữ vai trò lớn lao, nó bị "siêu hoá" tức là bị đổi hướng khỏi mục đích tính dục để hướng về những mục địch xã hội cao hơn, không còn có gì là tính dục cả.

Nhưng sự dồn nén này bấp bênh [tào lao]; những bản năng tính dục bị chế ngự bậy bạ, và mỗi cá nhân bị cưỡng ép lao động văn hoá có cơ nguy bị bản năng tính dục nổi lên chống lại sự dồn nén này. Xã hội lại thấy rằng nếu giải thoát cho những bản năng tính dục được tự do thoả mãn thì rất nguy hiểm cho văn hoá. Thành thử, xã hội không thích người ta nhắc đến cái phần thô thiển mà nền móng xã hội dựa lên [tức là sự dồn nén hay chế ngự libido], xã hội chả vạ gì mà nhìn nhận bản năng tính dục và công nhận sự quan trọng của đời sống tính dục trong mỗi con người, cho nên xã hội chấp nhận một phương pháp giáo dục quay mặt với lãnh vực [libido] này. Vì không chấp nhận kết quả của phân tâm học mà chúng tôi biện hộ, người ta cố tình bài xích nó là ghê tởm về phương diện thẩm mỹ, là đáng kết án về phương diện đạo đức, là nguy hiểm về mọi mặt."[31]

Tóm lại, năm 1917, trong Phân tâm học nhập môn, Freud xác định lại hai điểm:

- Vô thức chi phối tất cả tâm thần.

- Libido bị cấm cản sẽ siêu hoá trong những công tác sáng tạo.

 Hai điểm cốt yếu này sẽ được Breton sử dụng trong Tuyên ngôn siêu thực.

 

 

* Làm lộn

Trong chương 2 cuốn Phân tâm học nhập môn, Freud viết về những hành động lệch, sai, trật, lộn, mà ông gọi chung là làm lộn (les actes manqués), và theo ông những động tác đó chứng minh sự hiện hữu và sự chỉ đạo của vô thức.

Làm lộn hay làm sái, được Freud định nghiã như sau: Khi một người nói hay viết một tiếng hay một chữ khác với tiếng, chữ mà đương sự muốn nói, viết (lapsus tức là nói nhịu hay nói lộn), hoặc đọc lộn, nghe lộn... Sự kiện này ở người lành mạnh, thường được coi như một hiện tượng thuộc về cơ thể (như tai điếc, mắt mờ...) mà đương sự vô tình phạm phải hoặc chỉ xẩy ra trong chốc lát, vv... Theo Freud, sự thực không phải thế, ông đưa ra trường hợp một nhà hùng biện, đang hùng hồn diễn thuyết, bỗng nói nhịu một chữ trong bài diễn văn. Và một bà nội trợ, tự nhiên quên không biết chìa khoá nhà để ở đâu. Cả hai đều trong tình trạng sáng suốt không bệnh hoạn gì cả.

Theo Freud, không thể coi đó là những "tai nạn nhỏ" không đáng để ý. Dĩ nhiên khi quá mệt, hay bị kích thích mạnh, hoặc đang chú tâm vào việc gì, ta có thể lơ đễnh, quên tên người này, người kia, hoặc nói nhầm, nhưng ở đây là trường hợp người không có bệnh, khoẻ mạnh, không mệt, tự nhiên nói nhịu, thì phải xét lại. Sự nói nhịu hay xẩy ra và đáng chú ý nhất là đương sự nói điều trái ngược hẳn với cái mà mình muốn nói. Thí dụ ông chủ tịch một hội nghị, trong bài diển văn khai mạc, thay vì nói: "Tôi tuyên bố khai mạc hội nghị" lại nói: "Tôi tuyên bố bế mạc hội nghị". Điều này có nghiã gì? Freud giải thích rằng: Trong thâm tâm, ông chủ tịch chẳng chờ đợi gì ở cái hội nghị này, ông muốn nó bế mạc trước khi khai mạc. Cái thâm tâm đó chính là vô thức. Vô thức đã nói thay chủ thể ý thức, vì thế mà ông chủ tịch nói nhịu. Và Freud kết luận: Điều này chứng tỏ, không những có sự hiện diện của vô thức, mà vô thức còn giữ vai trò chỉ đạo trong phát biểu.

Ông viết:"Hơn một nhà thơ đã dùng sự nói nhịu hay một sự làm sái khác, như phương tiện sáng tạo. Sự kiện này, chỉ riêng nó, đã đủ để chứng tỏ rằng nhà thơ coi sự làm sái, hay nói nhịu, không phải là vô nghiã, nhất là đương sự lại cố tình làm việc này."[32]

Câu này của Freud cũng sẽ được Breton dùng trong lý thuyết siêu thực, coi các sự nói nhịu, nói sái, là hình thức sáng tạo từ vô thức. Rồi Lacan (1901-1981) phối hợp với cấu trúc luận của Lévi-Strauss (1908-2009) để tạo thành lập thuyết: Vô thức phải được giải thích như một ngôn ngữ (L'inconscient doit être interprété comme un langage). Tuy nhiên, ta cũng biết, Aristote đã từng khuyên nhà thơ phải "bóp méo", phá vỡ ngôn ngữ nhàm chán hàng ngày, để thành lập một ngôn ngữ lạ, tức là ngôn ngữ thơ. Vậy sự nói nhịu, làm sái chữ, phải chăng chỉ là thủ pháp của nhà thơ, để kiếm ra những chữ lạ, theo nghiã Aristote?

 

 

 * Giấc mơ

Phần quan trọng nhất trong sách Phân tâm học nhập môn là những chương viết về giấc mơ. (Từ chương 7 đến chương13).

Theo Freud, những triệu chứng của một số người bị bệnh thần kinh, đều có ý nghiã. Trong khi trị liệu, người ta lại nhận thấy bệnh nhân thường coi những giấc mơ như những triệu chứng, và như thế, những giấc mơ, cũng có ý nghiã. Từ đó, giấc mơ trở thành đối tượng khảo sát của phân tâm học.[33]

Nhưng nội dung những giấc mơ lại rất ít khi được bệnh nhân mô tả tường tận. Chẳng hạn có người tự nhiên đùng đùng tuyên bố: "Tôi là hoàng đế nước Tầu", nhưng hỏi nội dung trở thành hoàng đế ấy như thế nào trong giấc mơ, thì không nói ra được. Và ngay khi bệnh nhân có nói rõ ra, ta cũng không biết là đương sự nói thực hay bịa. Nhưng có điều chắc chắn rằng, từ xưa đến nay, từ Đông sang Tây, con người đều mơ cùng một cách như nhau[34] nhưng, người xưa coi mộng là một điềm báo trước tương lai, còn phân tâm học coi mộng là biểu tượng một biến cố xẩy ra trong quá khứ, đó là cái khác nhau cơ bản.

Vậy, mơ là gì? Trước khi trả lời câu hỏi này thì phải trả lời câu hỏi: ngủ là gì?

Freud viết: "Ngủ là tình trạng trong đó người ngủ không muốn biết gì hết về mọi chuyên xẩy ra ở bên ngoài và lợi ích của người ngủ là hoàn toàn tách rời khỏi cõi đời này"[35]

Một giấc ngủ không mộng mị là giấc ngủ ngon, là giấc ngủ bào thai nằm trong bụng mẹ. Nếu có một hoạt động tâm thần nào đó trong giấc ngủ là ta đã không loại bỏ hết được các sinh hoạt tâm thần để đạt tới giấc ngủ bào thai. Giấc mơ chính là những hoạt động tâm thần còn sót lại ấy. Và Freud định nghiã: "Giấc mơ diễn tả cách tâm hồn phản ứng trong lúc ngủ, với các kích thích mà nó phải chịu"[36].

Freud xác định tính chất đầu tiên của mơ: những gì hiện ra trong mơ là những hình ảnh đôi  khi đi kèm với chút tình cảm, ý tưởng, nhưng bao giờ hình ảnh cũng là chủ yếu. Vì vậy người mơ thường không kể lại được, vì không thể "kể" được một chuỗi hình ảnh, tức là những ảo giác. Có những giấc mơ rất ngắn, chỉ chứa một vài hình ảnh, một ý tưởng, cũng có những giấc mơ dài như cuốn tiểu thuyết. Nhưng phần lớn người ta quên ngay khi tỉnh dậy. Cũng có những giấc mơ sống lâu trong ký ức, như một số giấc mơ của tuổi thơ. Những giấc mơ thường vô nghiã, lộn xộn, vô lý, nhưng đôi khi cũng có những giấc mơ có nghiã.

Freud phân biệt rõ sự khác biệt giữa những giấc mơ ngủ (rêves) và những giấc mơ tỉnh (rêves éveillés) [ta gọi là mơ mộng]. Theo ông, không có gì liên lạc giữa giấc mơ ngủ với giấc mơ tỉnh, bởi vì mơ tỉnh hay mơ mộng là sự thực hiện những ham muốn trong đầu và nó không có tính cách ảo giác. Freud viết về giấc mơ tỉnh như sau:

"Đó là những sản phẩm của tưởng tượng, những hiện tượng rất thông thường, thấy ở người lành mạnh lẫn người bệnh, mà ai cũng có thể khảo sát dễ dàng ở chính mình. Điểm phân biệt rõ nhất những sản phẩm tưởng tượng này là chúng được gọi bằng tên "những giấc mơ tỉnh" và quả đúng là chúng không có gì giống hai tính chất chung [ngủ và ảo giác] của những giấc mơ đúng nghĩa [mơ trong khi ngủ]. Như tên gọi, "mơ tỉnh" không liên quan gì đến tình trạng ngủ, và chúng cũng không chứa đựng những biến cố, ảo giác, mà chúng chỉ diễn tả: ta biết là ta đang tưởng tượng, ta không nhìn thấy, nhưng ta đang nghĩ [trong đầu]. Những mơ mộng này thường bắt đầu xuất hiện trước tuổi vị thành niên, và chấm dứt lúc đứng tuổi, nhưng cũng có thể kéo dài đến tận tuổi già (...) ở những người trẻ tuổi, là những mộng mơ tham vọng ngự trị (...) những "giấc mơ tỉnh" rất đa dạng và chịu sự thay đổi phận số. Có nhiều khi bị loại hẳn và bị thay thế bằng những mơ mộng khác (...)

Chúng là chất liệu sống của việc sản xuất thi ca, bởi vì, người viết tác phẩm tưởng tượng, có thể biến đổi, cải trang, giản lược những "giấc mơ tỉnh" này một cách nào đó, để đem vào tiểu thuyết, truyện ngắn hay kịch bản của họ"[37].

Qua đoạn văn trên đây, Freud đã giải thích rất rõ nội dung mơ tỉnh (mơ mộng), là nguồn cội của sáng tác, không thể lầm với mơ ngủ (mộng lành, mộng dữ hay ác mộng) là một tình trạng tâm thần, có thể dùng để khảo sát bệnh lý của người bị bệnh tâm thần.

Phân tâm học tập trung nghiên cứu những giấc mơ ngủ này.

 

giấc mơ [ngủ] luôn luôn không có đầu đuôi nghiã lý gì cả, muốn hiểu chúng thì phải biết cách giải mộng. Freud xác định nếu muốn tìm hiểu và giải thích giấc mơ thì phải chấp nhận hai tiền đề:

1- Giấc mơ là hiện tượng tâm thần.

2- Có thể có trong con người những sự kiện tâm thần mà đương sự biết, nhưng lại không biết là mình biết. Và ông gọi đó là vùng vô thức.

Freud giải thích: năm 1889, ông được mục kích một thí nghiệm về thôi miên: bác sĩ thôi miên một người và cho đương sự cảm thấy mọi thứ ảo giác, nhưng khi tỉnh dậy, đương sự bảo không nhớ gì cả. Bác sĩ cố gặng hỏi, lúc đó bệnh nhân mới nhớ dần dần và sau nhớ hết. Điều này chứng tỏ: có những sự kiện ta biết nhưng tưởng rằng không biết, tương tự như trường hợp nói nhịu. Trong giấc ngủ tự nhiên, người ngủ cắt đứt với tất cả mọi liên lạc với đời sống bên ngoài còn trong giấc ngủ thôi miên, người ngủ cũng là cắt đứt với đời sống bên ngoài, nhưng vẫn giữ liên lạc với một người duy nhất là người thôi miên mình và chịu sự điều khiển của người này, nhưng tình trạng tâm thần của hai cái ngủ này giống nhau[38].

Cái vùng mà người bệnh tưởng là không biết, thực ra là có biết, nhưng bị che giấu đi, khiến người bệnh không đạt được, nên tưởng là không có thực, chính là vô thức, và Freud đưa ra định nghiã: "Giấc mơ trọn vẹn là sự thay thế một biến cố vô thức bằng một biến cố đã biến dạng. Giải mộng tức là khám phá ra vô thức này"[39].

Vì vậy, việc đoán mộng đòi hỏi ba nguyên tắc:

1- Không cần biết ý nghiã của giấc mơ nói gì.

2- Chỉ cần đánh thức những yếu tố đã bị thay thế, biến dạng.

3- Chờ đợi những yếu tố này, bị giấu trong vô thức, tự sống lại.

Nói tóm lại là làm sao cho vô thức trở thành ý thức.

Và Freud xác định: "Tất cả những ý tưởng bị dồn nén luôn luôn là những ý tưởng quan trọng nhất và quyết định nhất trong sự khám phá vô thức"[40]

Nhưng muốn đoán mộng, còn phải giải quyết một vấn đề nữa: tìm hiểu tại sao trong giấc mơ, các biến cố lại bị biến dạng. Và sự điều tra dẫn tới một yếu tố quan trọng khác: sự kiểm duyệt.

 

 

* Kiểm duyệt

 

Trong chương 9, tựa đề Sự kiểm duyệt giấc mơ (La censure du rêve), Freud định nghiã lại giấc mơ một lần nữa: "Giấc mơ là một phương tiện để loại trừ những kích thích (tâm thần) quấy phá giấc ngủ, sự loại trừ này thực hiện bằng cách thoả mãn ảo giác"[41]. Câu này có nghiã là: giấc mơ là một cách làm thoả mãn những ước muốn bằng hình ảnh, để có thể ngủ yên sau đó.

Trừ những giấc mơ của trẻ con, khá rõ ràng, phản ảnh những ước muốn ban ngày không làm được, còn những giấc mơ của người lớn, thường khó hiểu, hoặc lỗ mỗ, chứng tỏ chúng đã bị kiểm duyệt. Vậy cơ cấu kiểm duyệt này như thế nào? Freud cho rằng nó không hoàn toàn giống như việc một nhà báo bị kiểm duyệt, mà giấc mơ chỉ bị chuyển trọng tâm, bị biến dạng và sự kiểm duyệt này nhận được sự đồng ý của kẻ bị kiểm duyệt. Nói khác đi, tất cả những điều cấm kỵ, người mơ trong lúc tỉnh, hoàn toàn đồng ý cấm: ví dụ những ham muốn loạn luân, giết người, hay thoả mãn các bản năng khác. Như lời Platon: những người tốt là những người thoả mãn trong mơ, còn những kẻ xấu, làm thật. "Uỷ ban kiểm duyệt" không chỉ đẩy lùi những bản năng xấu xa vào vô thức mà còn làm biến dạng những phần tử xấu này đến không thể nhận diện được ra nữa, mới cho chúng xuất hiện lại, trong mơ.

Freud viết: "Sự bóp méo giấc mơ là hậu quả của sự kiểm duyệt mà những xu hướng thừa nhận của cái tôi dùng để chống lại những xu hướng ham muốn tội lỗi, nổi lên ban đêm trong chúng ta, trong giấc ngủ. Nhưng tại sao chúng lại nổi lên ban đêm và chúng đến từ đâu thì chưa biết, câu hỏi còn bỏ ngỏ, đợi những tìm kiếm mới" và "Những ham muốn này đến quấy nhiễu giấc ngủ của ta mà ta không biết. Ta chỉ biết chúng sau khi đã giải mộng".

Freud nhấn mạnh lần nữa: Điều đó chứng tỏ sự hiện diện quan trọng của vô thức, bởi vì có những tiến trình, những xu hướng xẩy ra trong tâm thần chúng ta mà ta không biết gì cả, từ lâu rồi và có lẽ không bao giờ ta biết được, chúng nằm trong vô thức; như vậy, vô thức là hiện tượng thường trực, liên tục, không phải chỉ chốc lát và ngầm[42].

 

 

* Giải mộng bằng những biểu tượng trong mơ

Trong chương 10, tựa đề Hệ thống biểu tượng trong mơ (Le symbolisme dans le rêve), Freud mới thực sự đưa ra những chìa khoá để giải mộng. Ông công nhận chương này vô cùng quan trọng trong lý thuyết về mơ của ông. Ông đưa ra một bản liệt kê những biểu tượng xuất hiện trong mơ và ông giải mã từng biểu tượng một. Giới hạn của chương này, khiến chúng tôi không thể điểm đầy đủ những biểu tượng được Freud trình bầy, nhưng đó là những chìa khoá mở cửa cho ta đoán một số giấc mơ, giúp ta có thể phân tâm những giấc mơ của chính ta. Chúng tôi xin trích dịch vài đoạn tiêu biểu dưới đây, Freud viết:

"Những sự vật được biểu dương trong mơ không nhiều: Toàn bộ thân thể con người, cha mẹ, con cái, anh chị em, sự sinh, sự chết, sự khoả thân- và cái gì đó, nữa. Cái nhà là biểu tượng điển hình duy nhất, tức là chính xác nhất của toàn bộ nhân thân con người (...)

Ta hay thấy trong mơ: ta lướt mình dọc theo mặt tiền của những căn nhà và cảm thấy trong cuộc hạ cánh này một cảm giác khi thú vị, khi lo sợ; những căn nhà có bờ tường nhẵn nhụi biểu hiệu cho những người đàn ông, còn những căn nhà có những chỗ lồi và có ban-công để có thể bám vào, biểu hiệu cho những người đàn bà. Cha mẹ được biểu hiệu bằng hoàng đế và nữ hoàng, hay vua và hoàng hậu, hoặc những nhân vật siêu quần khác; những giấc mơ trong có cha mẹ thường biến hoá trong không khí hiếu thảo. Ít êm dịu hơn là những giấc mơ trong có con cái, anh chị em, họ thường được biểu hiệu bằng những con vật nhỏ nhít như chấy rận. Sự sinh đẻ bao giờ cũng được biểu hiệu bằng một hành động có nước là chính: ta mơ thấy ta nhảy xuống nước, hoặc ta ra khỏi nước, hoặc ta lôi một người ra khỏi nước, hay ta được kẻ ấy kéo ra khỏi nước, nói cách khác, giữa kẻ ấy và ta [người mơ] có quan hệ mẹ con. Cái chết sắp đến được biểu hiện trong mơ bằng cuộc khởi hành, hay cuộc du lịch bằng xe lửa. Cái chết được thể hiện qua một số điềm đen tối, ghê rợn. Sự khoả thân được biểu hiện bằng y phục và đồng phục. Và bạn thấy đó, có thể nói, chúng ta biết rõ cả hai lối trình bày: biểu hiệu và ám chỉ.

Ra khỏi bản kê khai khá gầy guộc trên đây, chúng tôi xin đề cập đến một phạm vi mà sự vật và nội dung được trình bầy bằng những biểu tượng phong phú và đa dạng lạ thường: Đó là phạm vi tính dục, với những bộ phận sinh dục, những quan hệ tính dục, những sự giao cấu. Phần lớn những biểu tượng của giấc mơ đều là những biểu tượng tính dục."[43].

Và Freud liệt kê một số biểu tượng của các bộ phận sinh dục:

"Để chỉ cơ quan sinh dục của đàn ông nói chung, con số 3 linh thiêng là một biểu tượng quan trọng. Phần chính của bộ phận sinh dục đàn ông, quan trọng với cả hai phái, là dương vật, trước tiên, được thay thế bằng những biểu tượng qua những vật có hình thức giống nó, như: cái can [canne, gậy chống để đi], cái ô, thân cây, cây, vv... ; rồi đến các vật giống nó ở chỗ có thể xuyên sâu vào cơ thể và gây thương tích như: khí giới nhọn đủ loại như dao, dao găm, lưỡi (dao, kiếm), gươm, hay các loại súng như súng trường, súng lục (pistolets), đặc biệt nhất là loại khí giới có hình dạng giống dương vật, tức là súng lục có tay quay (révolver). Những ác mộng của thiếu nữ bị một người đàn ông cầm dao găm hay cầm súng đuổi, giữ một vai trò quan trọng. Và đó là trường hợp thường xẩy ra nhất trong biểu tượng giấc mơ, việc đoán mộng này rất dễ dàng" [44]

"Bộ phân sinh dục của đàn bà được biểu tượng hoá bằng tất cả những vật có đặc tính là bên ngoài có lỗ để cho một vật có thể trú vào như: mỏ, hầm hố, hang hốc, bình, chai, hộp đủ loại, rương hòm, thùng, túi,... Con tầu cũng thuộc vào loại biểu hiệu này. Một số biểu tượng khác như tủ, lò, nhất là phòng, gợi tới tử cung hơn là bộ phận sinh dục nói riêng. Biểu tượng phòng ở đây dính tới căn nhà, cửa và cửa chính, lần lượt trở thành những biểu tượng của lối vào lỗ sinh dục. Một vài chất liệu như gỗ, giấy, hoặc đồ vật làm bằng gỗ, giấy như cái bàn, quyển sách, cũng thuộc vào loại biểu tượng này. Hoặc những sinh vật như ốc sên, sò, hến, chắc chắn là biểu tượng của phái nữ. Còn phải kể đến, về những bộ phận của cơ thể được dùng làm biểu tượng, thì miệng là biểu tượng của lỗ sinh dục, và về những dinh thự được dùng làm biểu tượng, thì giáo đường và tiểu giáo đường cũng là biểu tượng của lỗ sinh dục. Bạn thấy đó: tất cả những biểu tượng này đều không dễ đoán như nhau (...)

Điểm đáng chú ý nữa là cái tráp đựng đồ nữ trang cũng biểu dương bộ phận sinh dục của người phụ nữ: [bởi vì] nữ trang và châu báu là những ve vuốt mơn trớn dành cho người yêu trong giấc mộng; những thứ ngọt như đường, mật, biểu dương cho khoái lạc. Sự thoả mãn khoái lạc với một đối tượng khác phái được biểu hiện bằng tất cả các loại trò chơi, đáng kể là chơi đàn dương cầm. Sự trượt ngã, sự tuột dốc, sự ngắt cành cây, biểu hiện thanh tao việc thủ dâm. Một biểu dương đặc biệt đáng chú ý: việc rụng răng, nhổ răng, biểu hiệu chắc chắn sự bị thiến, cũng được coi là sự trừng phạt những hình thức giao cấu đồi trụy, trái với luật thiên nhiên"[45].

"Phong cảnh dùng để biểu hiệu bộ phận sinh dục đàn bà và núi, đá, dùng để biểu hiệu bộ phận đàn ông"; "ngọn lửa chỉ bộ phận sinh dục đàn ông và lò lửa biểu hiện bộ phận phụ nữ"; "chữ trèo trong tiếng Đức được dùng trong nghiã tính dục" [tiếng Việt cũng vậy: Trèo lên cây bưởi hái hoa (ca dao)]"[46]

Đến đây, chúng ta tự hỏi: làm sao Freud biết được cái gì là biểu tượng của cái gì? Vì chính người mơ cũng không biết rõ, không nói rõ, điều đó. Freud trả lời như sau:

"Sự hiểu biết này chúng tôi rút ra từ những nguồn khác nhau, trong truyện cổ tích, truyện thần thoại, truyện tiếu lâm, trò hề, hay folklore nghĩa là sự nghiên cứu những phong tục địa phương, lề thói, cách ngôn và dân ca của những dân tộc, ngôn ngữ thơ và ngôn ngữ chung. Chúng tôi thấy ở khắp nơi đều có cùng biểu tượng, hiểu ngay được không khó khăn gì. Khi khảo sát kỹ từng nguồn một, chúng tôi lại khám phá ra một sự tương đồng như thế với những biểu tượng trong mơ, khiến chúng tôi càng thêm tin tưởng"[47]

Những giải thích này có lẽ đã được Jung dùng khi xây dựng khái niệm vô thức tập thể" của ông, Freud viết tiếp:

"Địa hạt biểu tượng vô cùng lớn lao mà biểu tượng trong mơ chỉ là một tỉnh nhỏ (...) Ta có cảm tưởng đứng trước một cách diễn tả theo lối cổ, đã biến mất, trừ một vài mẩu còn sót lại tung vãi trong những lãnh vực khác nhau, cái này ở đây, cái kia ở đó, cái khác được giữ dưới hình thức thay đổi sơ qua, trong nhiều địa hạt. Về vấn đề này, tôi còn nhớ sự lạ kỳ của một chàng điên tưởng mình hay ho, đã mường tượng ra một thứ "ngôn ngữ nền tảng" mà theo ý anh ta, tất cả các biểu tượng sống sót đều ở đó."[48]

Cái anh chàng điên khùng tưởng tượng ra một thứ "ngôn ngữ nền tảng" chứa đựng những biểu tượng chung của nhân loại, phải chăng Freud nói bóng đến Jung? môn đệ của Freud, đã ly khai thầy và đưa ra những archétypes (khuôn mẫu đầu tiên hay nguyên mẫu) là nền tảng của "ngôn ngữ chung của nhân loại" trong lập thuyết Tân phân tâm học của ông? Chúng tôi sẽ nói rõ hơn ở dưới.

 

 

* Mặc cảm Œdipe

Đây là khái niệm quan trọng cuối cùng trong phân tâm học của Freud.

Khái niệm mặc cảm Œdipe (Complexe d'Œdipe) đi từ sự nhận xét trẻ con. Theo Freud, đứa bé, trong những năm đầu của cuộc đời (từ nhỏ đến 5 hay 8 tuổi) thời gian mà sau này nó gần như quên hết, thường tỏ ra rất ích kỷ, nó chỉ biết yêu nó (narcissisme) mà thôi. Sau này nó sẽ học việc yêu người khác và hy sinh một phần cái tôi của nó cho người khác. Đứa bé yêu người chung quanh (mẹ, vú) vì nó cần người đó, tức là tình yêu này phát xuất từ sự ích kỷ: Sự ích kỷ dạy cho nó tình yêu. Đứa nhỏ không nhất thiết yêu anh chị em nó, thậm chí nó ghét, vì đó là những đối tượng cạnh tranh, là những địch thủ, nó muốn cha mẹ chỉ yêu một mình nó thôi. Và thái độ này kéo dài nhiều năm có khi tới tuổi vị thành niên hay sau đó, mới bớt đi. Vì thế đứa nhỏ không muốn con cò đem em nó lại (người Tây phương nói dối trẻ con, bảo con cigogne đem em nó lại). Nhưng còn một đối tượng nữa mà nó cũng rất ghét: với con trai là cha, vì cha "chiếm" mẹ nó và với con gái là mẹ, vì mẹ "chiếm" cha nó. Hiện tượng này có tính cách tính dục. Ngay từ tuổi thơ, con trai đã có những âu yếm khác thường với mẹ, coi mẹ là của riêng, còn con gái có lẽ ít lộ rõ hơn, với cha[49].

Freud đặt tên cho những tình cảm này là mặc cảm Œdipe, và ông giải thích như sau:

"Bởi vì huyền thoại, trong có nhân vật chính là Œdipe, đã thể hiện và biểu hiện cách giảm nhẹ hai ham muốn tột bực, rỉ ra từ tình thế của đứa con trai: ham muốn giết cha và cưới mẹ. Tôi không xác định rằng mặc cảm Œdipe sói mòn tất cả những gì liên quan đến thái độ thuận nghịch giữa cha mẹ và con cái, thái độ này có lẽ còn phức tạp hơn nhiều"[50].

Như ta biết, mặc cảm Œdipe từng là đề tài của nhiều tác phẩm văn học cổ kim. Nhưng khi Freud đưa ra như một lý thuyết trị liệu, ông bị chống đối mạnh mẽ. Tuy nhiên, mặc cảm Œdipe là một khám phá quan trọng về đời sống tâm thần của những đứa con trai bệnh hoạn, trong phân tâm học. Theo Freud, sự khám phá này hầu như bị y học bỏ rơi.

Freud viết: "Mặc cảm Œdipe ràng buộc chặt chẽ với một mặc cảm khác, mà chúng tôi gọi mặc cảm bị thiến là phản ứng chống lại sự ngăn cản hay giới hạn hoạt động sinh lý sớm trước tuổi của đứa con trai, do người cha bắt buộc"[51]

Tóm lại, theo Freud, người ta đã lầm khi chối bỏ đời sống tính dục của trẻ con và tin rằng việc này chỉ xẩy ra ở tuổi dậy thì, thực ra theo ông, trẻ con thuộc loại "đồi trụy đa hình thức", ngay từ thủa bé, nó đã có một đời sống tính dục rất phong phú. "Ở những đứa trẻ bị bỏ mặc một mình hoặc chịu những ảnh hưởng đồi phong bại tục, người ta thường thấy rất rõ sự biểu lộ những đồi trụy dâm bôn"[52].

Tóm lại, lý thuyết phân tâm của Freud có thể tóm gọn như sau:

Khảo sát những người bệnh thần kinh, Freud thấy rằng: những thúc đẩy tính dục (hay libido) không được thoả mãn, là nguồn cội của các bệnh tâm thần: Libido không được phép xuất hiện, bị dồn nén vào vô thức, ở đó, nó tìm cách trá hình để được hiện diện lại trong giấc mơ. Mục đích của phân tâm học là từ những hình ảnh của giấc mơ do bệnh nhân kể, điều tra ngược lại, tìm nguồn cội của những ẩn ức, để giải toả cho người bệnh.

 

Để kết luận, chúng tôi có những nhận xét sau đây:

1- Theo định nghiã của Freud, vô thức không có liên hệ gì tới sáng tạo văn chương, nó chỉ là nơi chứa những ẩn ức bị dồn nén.

2- Nhưng khi Freud xác định: Vô thức chỉ huy tất cả. Thì hoặc là ông nói quá, hoặc ông chỉ muốn nói: vô thức quyết định việc trình diện lại những thúc đẩy tính dục bị dồn nén, sau khi đã được trá hình, chứ không phải ý thức quyết định việc này.

3- Freud cho rằng những thúc đẩy tính dục bị dồn nén, chỉ có thể trở lại, sau khi đã trá hình hay đã siêu hoá (sublimation), tức là bị đổi hướng thành hoạt động xã hội hay nghệ thuật. Điểm này có thể gây hiểu lầm: Freud luôn luôn cho ta cái cảm tưởng là những thúc đẩy bị dồn nén là những điều bị xã hội và luân lý cấm, như: loạn luân, giao cấu đồi truỵ,... Vậy những dữ kiện bị giam trong vô thức, hẳn là những điều xấu, không thể dùng được, tại sao chúng có thể "cải biến" thành "văn chương, nghệ thuật". Nhất là, người ta lại khai thác "điểm tối" này, tức là người ta sẽ lợi dụng khái niệm vô thức của Freud, coi nó như nguồn cội của sáng tác, đặc biệt Breton và trường phái Siêu thực.

4- Còn Freud, một mặt khác, ông xác định: Sinh hoạt văn chương nghệ thuật thoát thai từ những giấc mơ tỉnh (rêves éveillés) tức là trạng thái mơ mộng, hay tưởng tượng của nhà văn nhà thơ trong lúc tỉnh táo. Điều này hoàn toàn phù hợp thực tế sáng tác, nhưng lại đi ra ngoài tất cả những lập luận coi vô thức là chủ thể của sáng tạo.

 

 

II- Sự phê phán phân tâm học của Freud

 

Lý thuyết phân tâm của Freud, từ khi ra đời, luôn luôn là đề tài tranh biện. Ngày nay thuyết libido bị dồn nén dẫn đến bệnh hoảng loạn thần kinh đã gần như bị y khoa loại bỏ. Ở đây, chúng tôi  chỉ chú ý đến hai điểm cần soi tỏ trước khi đi vào nội dung của phê bình phân tâm học:

- Sự lạm dụng lý thuyết của Freud, nơi André Breton và nhóm Siêu thực.

- Sự phê phán học thuyết của Freud, của Carl-Gustav Jung và Jean-Paul Sartre.

 

 

Breton, Siêu thực và Phân tâm học

 

Trong bản Tuyên ngôn Siêu thực, Breton viết:

"Siêu thực là một bộ máy tâm thần tự động thuần tuý qua đó chúng tôi trù liệu diễn tả sự vận hành đích thực của tư tưởng, bằng lời nói, bằng chữ viết, hoặc bằng các cách thức khác. Tư tưởng tự đọc ra, vắng mọi kiểm soát của lý trí, và ở ngoài những lo toan đạo đức hay mỹ học."[53]

Trong câu này, Breton cố ý không nói đến vô thức, cũng không đả động đến Freud, thậm chí Siêu thực còn xác định khái niệm "automatisme psychique" (bộ máy tâm thần tự động) lấy ở kinh nghiệm đồng cốt của thế kỷ XIX. Nhưng thực ra, tất cả những "vận hành" của Siêu thực đều dựa vào phân tâm học. Nhờ lối viết tự động, tức là tư tưởng từ trong vô thức vọt thẳng ra giấy, không qua trạm kiểm duyệt của ý thức, nên hoàn toàn "nguyên chất" và tự do. Tất cả những điểm này đều lấy của Freud cả, chỉ sửa đổi ngôn từ đôi chút và thêm thắt vào vài điểm.

Nhà thơ Saint-Paul Roux, khi đi ngủ treo bảng trước cửa phòng: "Thi sĩ đang làm việc". Trong cuốn Naja của Breton có hình nhà thơ Robert Desnos "đang ngủ nhưng viết và nói" trong thời kỳ được gọi là "thời kỳ ngủ" (l'époque des sommeils).

Siêu thực nổi tiếng nhờ những chữ mới và những hình ảnh tân kỳ, sáng tạo bằng cách ghép những yếu tố hoàn toàn khác nhau với nhau, như cá tan (poisson soluble) của Breton. Lối lắp ghép này là thủ pháp của Maiakovski (1893-1930) trong thơ Vị lai, mà Siêu thực học lại, đã đạt những thành quả đáng kể. Nhờ khái niệm vô thức với uy tín và tiếng tăm của của Freud, mà Siêu thực có chỗ đứng triết học và khoa học. Văn nghệ sĩ thích chí coi vô thức như "đầu não" của họ, vì tính chất bí mật và tân kỳ của chữ vô thức này.

Thực ra, lý thuyết Siêu thực của Breton dựa trên sự bóp méo lý thuyết phân tâm của Freud. Xin giải thích:

Freud phân biệt: sáng tác dựa trên những giấc mơ tỉnh (rêve éveillé) hay mơ mộng, tức tưởng tượng: đó là hiện tượng xảy ra ban ngày, khi người sáng tác đang mơ mộng, tức là có ý thức. Còn giấc mơ trong khi ngủ xảy ra ban đêm (cũng có khi ngủ ngày) trong vô thức. Thoạt đầu Freud xác định: giấc mơ [ngủ] không có liên hệ gì với sáng tác. Nhưng ông lại viết một câu có thể gây hiểu lầm là: "vô thức điều khiển tâm thần" mà chúng tôi nghĩ Freud viết quá tay hoặc viết lầm. Bởi vì, nếu vô thức (không biết) mà điều khiển được tâm thần thì nó đã trở thành ý thức (có biết) rồi. Khi các thi sĩ trong nhóm Siêu thực tuyên bố họ sáng tác trong lúc ngủ, là họ nói tào lao, nói giễu chơi. Họ chỉ lợi dụng tên tuổi và khái niệm vô thức của Freud [điều này Sartre đã tố cáo trong cuốn Văn chương là gì? (Qu'est-ce que la littérature)] để đòi "tự do tuyệt đối", vẽ những tranh kỳ quái, viết những tác phẩm kỳ quặc, và có những tuyên bố động trời. Văn chương huyền ảo châu Mỹ La Tinh cũng chịu ảnh hưởng của khái niệm vô thức này để đưa ra những cảnh tình hoàn toàn Siêu thực, máu mê, cuồng loạn.

Jean-Paul Sartre -cho rằng mỗi chữ viết ra là một viên đạn- đã phê phán cặn kẽ học thuyết của Freud (xem ở dưới), nhưng đối với Breton và Siêu thực, Sartre không bắn súng lục hay súng trường mà ông ria một tràng liên thanh. Trong cuốn Văn chương là gì? dẫn lời Breton: "Hành động siêu thực đơn giản nhất là cầm súng lục xuống đường bắn đại vào đám đông, càng nhiều càng tốt", Sartre trả lời: ẩn náu trong bưng biền của lối viết tự động, bọn này "tàn phá tài sản tinh thần của xã hội", "xúi giục giết người", là bọn "vô trách nhiệm"[54].

 

 

Tâm lý học phân tích hay Tân phân tâm học của Jung

 

Học thuyết của Freud, ngoài sự chống đối nói chung của những thành phần tôn giáo, đạo đức, khoa học, còn có sự chống đối bên trong của những học trò và đồng nghiệp. Nặng nề hơn cả là sự ly khai của Alfred Adler năm 1911, và nhất là của Carl Gustav Jung. Jung đưa ra thuyết Tâm lý học phân tích còn gọi là Tân phân tâm học.

Adler coi mặc cảm tự ti là nguyên nhân những rối loạn trong tâm thần con người. Còn Carl Gustav Jung (1875-1961), bác sỹ tâm lý người Thụy Sỹ, là một trong những người đầu tiên ủng hộ Freud, kết thân với ông từ năm 1907, được ông coi như người thừa kế tinh thần. Sự xung đột về tư tưởng với Jung dẫn đến sự ly khai, rồi đoạn tuyệt, năm 1914.

Ngay từ năm 1905, Freud đã trách Jung đồng hoá libido với những thúc đẩy tâm thần khác của con người. Jung không dùng chữ pulsion (thúc đẩy) mà dùng chữ instinct (bản năng).

Jung gọi chung các thúc đẩy là bản năng (l'instinct), sau này Sartre cũng dùng chữ instinct.

Jung không phân biệt mơ tỉnh hay tưởng tượng với giấc mơ (ngủ) như Freud. Và theo cách giải thích của ông, ta hiểu mơ ở Jung là tưởng tượng, tức là mơ mộng, vì nó liên quan đến sáng tác.

 

 

* Vô thức tập thể

Thay vì khái niệm vô thức của Freud, Jung đưa ra khái niệm vô thức tập thể (l'inconscient collectif). Vô thức tập thể là yếu tố quan trọng đầu tiên trong tâm lý học phân tích.

Jung phân biệt hai loại vô thức: vô thức cá nhân (insconscient personnel), nội dung độc đáo và biệt lập và vô thức tập thể (inconscient collectif) nội dung phổ quát, xuất hiện đều đặn và đúng kỳ. Vô thức tập thể bẩm sinh trong ta và có tính cách phổ quát, ta không biết nó nhưng nó thuộc vào bản chất của ta. Còn vô thức cá nhân là cái nôi chứa tất cả những gì bị bỏ rơi, bị cấm, tức là bị giáo dục và đạo đức lùa vào bóng tối, rồi bị dồn nén trong đó. Theo nghiã này, vô thức cá nhân gần với vô thức của Freud.

Vô thức cá nhân thường được biểu hiệu bằng thần Mercure (Hermès, Hy Lạp) trong thần thoại La-tinh. Vô thức tập thể được biểu hiệu bằng đại dương hay rừng rậm.

Vô thức tập thể điều khiển những vận hành của con người liên quan tới tưởng tượng, nó là điều kiện và cũng là nền móng của cái tôi tự tại (la psyché en soi), nó luôn luôn hiện diện, không thay đổi, ở khắp nơi.

Vô thức tập thể là sự kết tầng những kinh nghiệm hàng ngàn năm của nhân loại, thể hiện qua một số chủ đề nguyên thuỷ, được gọi là khuôn mẫu đầu tiên (archétypes) hay nguyên mẫu. Những nguyên mẫu này chính là nền móng, dựng nên những thần thoại, cổ tích và cấp chất liệu cho mơ. Nói khác đi, theo Jung, nguyên mẫu là một loại hình, có cấu trúc chung của nhân loại, khởi đi từ vô thức tập thể. Nguyên mẫu hiện diện trong tất cả những truyện thần thoại, cổ tích và những sản phẩm tưởng tượng của con người. Khái niệm nguyên mẫu của Jung giải thích được sự giống nhau trong cấu trúc cổ tích của nhân loại (xem chương 7, Hình thái học cổ tích của Vladimir Propp).

Theo Jung, vô thức tập thể được thành lập trên ba tầng: trước hết là vô thức tập thể gia đình, rồi đến vô thức tập thể của nhóm chủng tộc và văn hoá, mà chủ thể thuộc vào, và sau cùng là vô thức tập thể nguyên thuỷ (inconscient collectif primordial), trong đó hội tụ tất cả những gì nhân loại có chung với nhau, như sự sợ bóng tối hay bản năng sinh tồn, vv...

Vô thức tập thể liên kết với nguyên mẫu.

 

* Nguyên mẫu

Nguyên mẫu (archétype), theo Jung, là tiến trình tâm thần nền móng của những nền văn hoá nhân loại, nó diễn tả những kiểu mẫu sơ đẳng (modèles élémentaires) của những thái độ và những cách diễn đạt, rút ra từ kinh nghiệm sống của con người qua tất cả những thời kỳ lịch sử, liên quan tới vô thức tập thể.

Nguyên mẫu hiện ra trong huyền thoại cổ tích và cả trong những giấc mơ. Nó hình thành những loại biểu tượng, nó xây dựng văn hoá và tâm lý, hướng chủ thể về sự tiến hoá nội tâm, hiện tượng này được gọi là cá tính hoá (individuation).

Đối với Jung, nguyên mẫu là sự hợp nhất một biểu tượng với một cảm xúc. Nguyên mẫu tổng cộng và tổng hợp năng lượng tâm thần, nhờ bản chất này, nó là tiền thân của cái tôi tự tại (pschysé).

Đừng nhầm nguyên mẫu với bản năng.

Nguyên mẫu là một hình ảnh nguyên thuỷ sống trong vô thức nhưng nó không sinh ra từ kinh nghiệm cá nhân. Còn bản năng là tổng số tất cả ý thức, tất cả vô thức và tất cả tâm hồn của con người. Bản năng, được rút ra từ vô thức tập thể, có nhiệm vụ thành lập nội dung và chủ đề của nguyên mẫu.

Theo Jung, bản năngnguyên mẫu tạo thành toàn bộ vô thức tập thể.

Dần dần theo thời gian, những nguyên mẫu kết tầng và tổ chức bộ máy tâm thần.

Cây nhân sinh (l'Arbre de vie) là một nguyên mẫu xuất hiện trong nhiều nền văn hoá. Nó tiêu biểu cho cho sự mở mang tự nhiên và sự hoà hợp của cá tính con người.

Vòng tròn Mạn Đà La (Mandala), biểu dương vũ trụ trong triết học Ấn Độ, là một Nguyên mẫu của Toàn thể (Archétype de la Totalité).

Trong một thư gửi cho Freud, Jung giải thích: Chúng ta không thể giải quyết vấn đề cơ bản của chứng loạn thần kinh (névrose) và tâm bệnh (psychose), mà không dùng đến huyền thoại cổ tích và lịch sử của các nền văn minh.

Trong một thư gửi cho Jung, Freud nhắc nhở: ta không thể trị được bệnh thần kinh nếu ta loại bỏ libido ra ngoài.

Tóm lại, Jung liên hệ nguyên mẫu với vô thức tập thể thành một vô thức toàn diện, chung cho mọi người, tìm thấy trong những truyện thần thoại và những sản phẩm tinh thần của nhân loại.

Lý thuyết của Jung cũng luôn luôn gây tranh cãi. Nhất là ở hai điểm: khái niệm vô thức tập thể và sự xác định có những nguyên mẫu chung cho tư tưởng loài người. Những người phản đối cho rằng lý thuyết này dẫn đến các lập thuyết toàn trị.

 

 

Sartre phê phán Freud

 

Sự phê phán của Jean-Paul Sartre mạnh mẽ và sâu sắc hơn cả. Nếu Freud sống lại, chưa chắc đã cãi nổi Sartre.

Sartre bãi bỏ hoàn toàn khái niệm vô thức và thay thế bằng khái niệm ngụy tín (mausvaise foi). Trong cuốn L'être et le Néant (Hữu thể và Vô thể thường được dịch là Hữu thể và Hư vô) chương II, tựa đề Ngụy tín (La mauvaise foi)[55], Sartre phê phán khái niệm vô thức của Freud, bằng những lập luận chặt chẽ và gắt gao. Biện chứng của ông được chia làm ba đoạn:

1- Trình bày và định nghiã hiện tượng ngụy tín.

2- Trình bày khái niệm bản năng và chỉ ra những rối rắm trong lập luận của Freud.

3- Phê phán cái vô lý của sự dồn nén và sự kiểm duyệt.

 

 

*1 - Trình bày và định nghiã hiện tượng ngụy tín

Trước tiên Sartre định nghiã ngụy tín: "là thái độ của kẻ, mà ý thức thay vì hướng cái phủ định ra ngoài, lại hướng cái phủ định về mình"[56]. Theo ông, ngụy tín (mauvaise foi) thường bị nhầm với nói dối (mensonge), gọi ngụy tín là nói dối chính mình, cũng được, với điều kiện phải phân biệt nói dối với nói dối chính mình.

Theo Sartre, nói dối, là kẻ nói dối hoàn toàn biết rõ sự thực, nhưng khi nói ra lại trá giả đi. Khi người nói không biết rõ sự thực, hay lầm, hoặc bị lừa, thì không thể gọi là nói dối. Ý niệm của kẻ nói dối là một ý thức vô liêm sỉ (conscience cynique): y nhìn nhận sự thực với mình, nhưng y từ chối (sự thực) khi nói với người khác.

Lại theo Heidegger, hiện hữu (dasein) là hiện hữu với (mitsein), nói khác đi: sống là sống với ai, chứ không thể sống một mình. Vậy kẻ khác (l'autre) hiện ra cùng với hiện hữu.

Nói dối là sự đối đầu tay đôi (dualité) có tính cách bản thể học, giữa ta (kẻ nói dối) kẻ khác.

Kẻ nói dối chỉ cần tạo một vùng mờ ám để che đậy hành vi của mình với kẻ khác, làm sao cho kẻ ấy tin là thật.

Qua việc nói dối, ý thức biết rằng trong bản chất của nó, có chỗ lừa bịp người khác.

Còn ngụy tín, tức là nói dối mình, tuy bề ngoài có cơ cấu giống như nói dối, nhưng thực ra là khác. Bởi vì, ngụy tín là tôi ngụy trang sự thực với chính tôi.

Như vậy không có sự đối đầu tay đôi giữa tôi và kẻ khác, giữa kẻ nói dối và kẻ bị gạt. Tức là, không có tôi với người khác, chỉ có tôi với tôi thôi. Ngụy tín cũng không từ ngoài vào ta mà chính ý thức ta chủ định làm, như vậy nó đã tiềm ẩn trong bản chất sự nhất trí của một ý thức, nghiã là tôi hoàn toàn biết rõ sự thực, nhưng tôi quyết định lừa dối tôi.

Một mặt khác, ngụy tín cũng không thể đi ra ngoài vòng hiện hữu (dasein) và hiện hữu với (mitsein), tức sống là sống với ai, là điều kiện tiên quyết của sự hiện hữu con người.

 

Vì vậy mà có hai trở lực không thể giải quyết được sau đây:

1- Trở lực thứ nhất, nằm trong 4 tính chất sau đây của ngụy tín:

a - Ta không chịu đựng ngụy tín, ta cũng không bị ngộ độc ngụy tín, ngụy tín không phải là một tình trạng, mà chính do ý thức hay lương tri (conscience) của ta chủ trương.

b - Tôi là kẻ ngụy tín tức là tôi nói dối tôi, vậy tôi phải biết rõ sự thực mà tôi muốn giấu tôi, là kẻ bị lừa. Thậm chí còn tệ hơn nữa: "Tôi còn biết rất chính xác sự thực này, để có thể giấu kỹ tôi".

c - Sự nói dối không xảy ra ở hai khoảnh khác khác nhau của thời gian, để tôi có thể tổ chức một cuộc đối đầu giả tạo giữa hai ý thức giả tạo của tôi, mà nó xảy ra tức thời trong một cơ cấu thống nhất của một dự tính duy nhất: Kẻ nói dối và kẻ bị lừa, là một.

d - Như thế thì làm sao ngụy tín có thể tồn tại được, nếu sự đối đầu, là điều kiện tiên quyết của nói dối bị tiêu diệt. Một khi đối đầu đã không có, thì ngụy tín cũng tiêu tan.

 

2 - Trở lực thứ hai: Phát xuất từ tính mờ đục (la translucidité) của ý thức hay lương tri (conscience):

Kẻ ngụy tín phải ý thức được sự ngụy tín của mình. Vậy dường như tôi đã ngay thẳng, ít nhất ở điểm này: là tôi ý thức được sự ngụy tín của tôi; mà nếu như thế thì tất cả hệ thống tâm thần sẽ sụp đổ, bởi vì chính lương tri tôi tổ chức việc ám muội lừa tôi, mà tôi ý thức điều đó.

Vậy ta bắt buộc phải đồng ý với nhau rằng: "nếu tôi cương quyết tự thử nói dối tôi một cách vô liêm sỉ, thì tôi sẽ thất bại hoàn toàn". Bởi vì, sự nói dối sẽ bị tan rã trước cái nhìn của tôi, nó bị đánh sập từ đằng sau, bởi khi lương tri (conscience) trên cương vị của nó, một khi ý thức (conscient) được việc tự dối, sẽ thẳng tay trừng trị đúng với cương vị của nó.

Hai trở lực trên đây, dẫn ta đến kết luận: ngụy tín chỉ có thể hiện diện như một hiện tượng lẩn tránh, có thể biến mất (évanescent).

Tuy nhiên nó vẫn thường xuyên xuất hiện và có người suốt đời sống với sự ngụy tín, tức là biết mà tự che mắt mình. Ta bối rối vì không loại trừ được nó và cũng không hiểu được nó[57].

 

*2 - Trình bầy khái niệm bản năng, chỉ những rối rắm trong lập luận của Freud

Bây giờ Sartre mới nói đến phân tâm học của Freud:

"Để thoát ra khỏi những khó khăn này, người ta bèn cầu cứu đến vô thức. Trong sự giải thích của phân tâm học, người ta dùng giả thuyết kiểm duyệt, được xây dựng như một lằn ranh biên giới, có nhà đoan, có các cơ quan thông thành, kiểm soát tiền tệ,... để thiết lập lại sự đối đầu tay đôi giữa kẻ nói dối và kẻ bị lừa"[58]

Sartre dùng khái niệm bản năng (l'instinct) để thay thế cho khái niệm pulsion (thúc đẩy) của Freud. Bản năng ở Sartre, tượng trưng thực tại: Bản năng chẳng đúng, chẳng sai, bởi nó không hiện hữu cho ta, vì ta. Nó chỉ đơn giản, giống như cái bàn, tự thân nó không đúng không sai, mà chỉ đơn giản là có thật (réelle). Theo Sartre, các chứng lo sợ (phobie), nói nhịu, những giấc mơ là những biểu tượng tâm thần cụ thể của bản năng, cũng giống như những lời nói, những cử chỉ của kẻ nói dối, là những thái độ cụ thể và hiện hữu thực sự. Chủ thể đứng trước các biểu tượng tâm thần này, cũng giống như kẻ bị lừa đứng trước kẻ nói dối, anh ta phải lần ra đầu mối, dẫn đến các nguyên do, để tìm ra sự thực.

Và nhà phân tâm, đứng trước các biểu tượng tâm thần này của bệnh nhân, cũng phải lần từng mối, qua các liên hệ đời sống cá nhân, qua những mặc cảm vô thức, mà bệnh nhân kể lại thông qua sự kiểm duyệt của ý thức để tìm lại sự thực.

Sartre cho rằng: "Khi phân chia cái tôi (le moi) và cái đó (le ça), là Freud đã cắt khối tâm thần làm hai: Tôi là "tôi", nhưng tôi không phải là "cái đó". "Tôi không có địa vị ưu tiên nào trong phần tâm thần mà tôi không biết"[59]

(Xin nhắc lại, theo Freud: Cái đó là một khoảnh khắc của tâm thần, là bình chứa những thúc đẩy và dồn nén. Cái đó là chủ thể vừa chứa những thứ bị cấm vừa quyết định sự kiểm duyệt. Cái tôi là khoảnh khắc của tâm thần đã bị cái đó kiểm duyệt rồi, mới được trình diện với xã hội). Theo Sartre, khi Freud cắt tâm thần làm hai khúc như vậy, tức là ông đã chia cái tôi làm hai: một nửa tôi thụ động chịu lệnh và một nửa tôi (là cái đó) ra lệnh, cả hai không biết nhau, và tôi nọ không phải là tôi kia.

Sartre chứng minh những rối rắm trong lập luận của Freud:

1- Bình thường, Tôi là những hiện tượng tâm thần của riêng tôi vì tôi ý thức được chúng. (Ví dụ: muốn ăn cắp cuốn sách bầy trên quầy hàng, tôi ý thức được cái thúc đẩy tôi muốn ăn cắp và tôi cũng là cái thúc đẩy đó, tôi chỉ đạo cho tôi để ăn cắp. Vậy tất cả những tôi này là một.

2- Nhưng, theo Freud, tôi lại không phải hoàn toàn là những dữ kiện tâm thần này, bởi vì có một tôi thụ động nhận lệnh của cái đó và một tôi là cái đó. Tôi [cái đó] trước khi ra lệnh cho tôi thụ động, thì phải phân tích, đưa ra những giả thiết về vụ ăn cắp (rằng đây là một thúc đẩy tức thời và hiếm hoi, rằng giá cuốn sách là bao nhiêu, có đáng ăn cắp không,  v.v...) giống như nhà bác học phỏng đoán về bản chất một hiện tượng bên ngoài. Hoặc đi xa hơn, tôi [cái đó] có thể nhận định rằng: thúc đẩy này là một tiến trình ít nhiều nối với mặc cảm Œdipe, vv...

Như thế, Sartre cho rằng: Freud đã cắt tôi làm hai: một nửa thụ động nhận lệnh của cái đó để làm, và một nửa là cái đó tính toán, cân nhắc, nên cho phép, nên dồn nén, hay cấm chỉ.

Như thế, phân tâm học, đã thay thế khái niệm ngụy tín [tôi biết ăn cắp là xấu nhưng vẫn nhắm mắt làm] bằng sự nói dối không có kẻ nói dối [cái đó sau khi phán xét, nhận định, đã cho phép cái tôi ăn cắp]. Như vậy, tôi bị lừa mà không biết ai lừa tôi, bởi vì phân tâm học đã đặt tôi trong vị trí tha nhân [cái đó] đối với chính mình, và đã thay thế liên hệ kẻ nói dối/kẻ bị lừa bằng liên hệ cái đó/cái tôi.

 

 

*3 - Phê phán cái vô lý của sự dồn nén và sự kiểm duyệt

Sartre cho rằng "Để thoát khỏi những khó khăn, người ta đã cầu cứu đến vô thức. Trong sự giải thích phân tâm học, người ta dùng giả thuyết có một ban kiểm duyệt".

Đến đây Sartre phê phán hai điểm trọng yếu trong lập thuyết của Freud là sự dồn nén và sự kiểm duyệt áp đặt trên cái tôi, ông đánh trực tiếp vào ban kiểm duyệt:  

"Ban kiểm duyệt, nếu muốn hoạt động một cách minh bạch, thì phải biết rõ những gì nó dồn nén. Nếu ta từ chối tất cả những cách nói bóng bẩy để chỉ định kiểm duyệt là những sức mạnh mù quáng, thì ta cũng bắt buộc phải công nhận rằng ban kiểm duyệt phải "lựa chọn" [cái mà nó muốn kiểm duyệt] và để lựa chọn, thì nó phải "trình bày". Tức là nó phải nói rõ tại sao nó để cho những thúc dẩy tính dục hợp pháp đi qua, nó dung túng cho những nhu cầu (như đói, khát, ngủ) được khơi khơi phát biểu trong ý thức sáng tỏ. Và làm sao giải nghiã được việc nó lại phóng thích cho bọn canh gác, thậm chí nó bị những trá hình của bản năng đánh lừa? Nhưng ban kiểm duyệt nhận thức được những khuynh hướng tồi tệ chưa đủ, nó còn phải nắm đầu chúng mà dồn nén nữa, điều này đòi hỏi ở nó, ít nhất, một sự biểu diễn hoạt động riêng của nó. Nói ngắn gọn, làm sao ban kiểm duyệt nhận thức được những thúc đẩy đáng dồn nén mà không ý thức được sự nhận thức này? Ta có thể tưởng tượng một tri thức không biết mình biết cái gì, chăng? Alain nói: Biết là biết mình biết. Chúng ta nói: tất cả mọi tri thức đều ý thức được điều mình biết (...) Vậy ý thức về mình của ban kiểm duyệt là loại như thế nào? Ban kiểm duyệt phải ý thức được rằng nó biết những xu hướng mà nó dồn nén, nhưng biết mà coi như không biết. Vậy cái đó là cái gì, nếu không phải là sự ngụy tín?

Phân tâm học không giúp ta đạt được cái gì cả, bởi vì, để loại bỏ ngụy tín, nó đã thiết lập giữa vô thức và ý thức một ý thức tự trị và một sự ngụy tín"[60].

Đối diện với lập luận chặt chẽ trên đây của Sartre, Freud khó có thể biện bác được.

 

 

III- Phê bình phân tâm học của Freud

 

Trong số hơn 200 bài viết và đầu sách của Freud, có rất ít chủ đề văn học, và những bài viết về chủ đề này cũng không có tầm quan trọng so với lý thuyết phân tâm học của ông.

Là bác sĩ tâm thần, cho nên những gì Freud viết về sáng tạo, về phê bình, thường để kéo về những kiến giải bệnh lý, theo phân tâm học, vì vậy đôi khi khiên cưỡng, đôi khi mâu thuẫn nữa.

Từ năm 1907, Freud có viết mấy bài tiểu luận liên quan đến văn học. Những bài này không thấy ông đưa vào sách, hoặc ông chỉ tóm tắt một số ý, đó là:

Cơn mê sảng và những giấc mơ trong Gradiva của Jensen (1907), Sự sáng tạo văn chương và giấc mơ tỉnh (1908), Ba cái tráp (1913) và Ký ức tuổi thơ của Goethe (1917).

Bốn bài viết này không được nhiều người tìm đọc, nhưng lại được một số người đôn lên, để tạo ra một thứ trường phái "phê bình phân tâm học của Freud".

Để tìm hiểu đích xác nội dung phê bình phân tâm học của Freud là gì, chúng tôi lần lượt giới thiệu với độc giả cả bốn văn bản này. 

 

 

Sự sáng tạo văn chương và giấc mơ tỉnh

 

Freud thường nhắc đến giấc mơ tỉnh (rêve éveillé) tức mơ mộng, hay tưởng tượng, được ông xác định là hiện tượng của ý thức. Theo ông, ai cũng có lúc mơ mộng, riêng nhà văn có thể sửa đổi những giấc mơ tỉnh này để đưa vào tác phẩm. Hiện tượng này không liên quan gì với giấc mơ ban đêm, khi ngủ, là sản phẩm của vô thức và là đối tượng của phân tâm học.

Mơ mộng hay tưởng tượng liên hệ tới ám ảo (fantasme), trong khi mơ ngủ liên hệ với ảo giác (hallucination). Những giấc mơ tỉnh là sự thực hiện những ám ảo, tức là những khát khao, mơ ước, trong đời sống, được ta tơ tưởng trong đầu qua những giấc mơ tỉnh.

Trong bài Sự sáng tạo văn chương và giấc mơ tỉnh (La création littéraire et le rêve éveillé)[61], viết năm 1908, Freud đưa ra một số đề nghị, có thể coi là quan niệm của ông về sáng tác. Freud đặt vấn đề nguồn gốc của những đề tài và nguồn gốc của cảm xúc, ông tìm hiểu tại sao chúng đội lại trong ta, và đề nghị kết hợp sáng tạo văn chương với giấc mơ tỉnh, tức là mơ mộng hay tưởng tượng. Sau đây là những điểm đáng chú ý trong lập luận của Freud:

1- Trước hết, Freud đặt câu hỏi: Những người ngoại đạo như chúng ta thường tự hỏi những người sáng tạo (nhà thơ, tiểu thuyết gia, kịch tác gia) lấy đề tài ở đâu? Họ làm thế nào khiến ta cảm động mạnh đến thế? Có hỏi, họ cũng chẳng biết. Nhưng ai cũng biết là những thứ như trí thông minh, sự khéo chọn đề tài hay bản chất nghệ thuật, không làm nên người sáng tạo.

 2- Phải chăng trẻ con đã biết sáng tạo nghệ thuật? Bởi vì, khi chơi các trò chơi, chúng tìm cách bày lại đời sống thực tế [chơi búp bê, chơi bán hàng...], chúng muốn làm giống như người lớn. Vậy trò chơi trẻ con cũng gần giống như giấc mơ tỉnh của người lớn: tức là, trẻ con thực hiện những ao ước trở thành người lớn trong các trò chơi và người lớn thực hiện những tham vọng, dự tính của mình trong tưởng tượng.

3-Theo Freud, nhà thơ khi sáng tạo, cũng làm như trẻ con chơi. [Điều này đã được triết gia Ý Giambattista Vico (1668-1744) phát biểu: bản chất của thơ là gán ý nghiã và nhiệt tình cho những vật vô tri vô giác và cũng là đặc tính của nhi đồng]. Freud nói theo cách khác: Bởi vì nhà thơ tạo ra một thế giới tưởng tượng để thực hiện những ám ảo (fantasme) của mình và ông cho rằng những người thoả mãn trong đời sống không có fantasme. Chỉ những người bất mãn mới có fantasme.

4- Nhưng làm sao biết được những fantasme của người lớn? Freud trả lời: nhờ gặng hỏi những người có bệnh. Vặn kỹ, họ nói hết những ám ảo của họ, và Freud chia làm hai loại: ám ảo ham muốn tham vọng và ám ảo ham muốn dục vọng. Theo Freud, con người, lúc mơ cũng như lúc tỉnh, vẫn bị cái ham muốn chi phối. Ông lấy thí dụ: một người thanh niên nghèo, mồ côi, thất nghiệp, được giới thiệu đi làm, trên đường đi, anh ta mơ tới tương lai: sẽ được ông chủ tiếp đãi tử tế, cho việc, có lương cao, sẽ lên chức và cưới cô con gái xinh đẹp của chủ... Và Freud xác nhận: trò chơi trẻ con giống như giấc mơ tỉnh của người lớn.

5- Freud lại tự hỏi: có thể so sánh những sáng tạo của nhà thơ với cái fantasme ban ngày của người mơ tỉnh? Rồi ông giải thích: Trong tiếng Đức các nghệ thuật trình diễn đều có chữ chơi (spiele) đi kèm như kịchlustspiel, bi tráng kịchtruerspiel... Và Freud bảo: thế giới văn thơ là phi thực (irréel), và là kết quả của một trò chơi. Kỹ xảo nghệ thuật tạo lạc thú với những yếu tố, bình thường, không tạo được lạc thú trong đời thật, ví dụ: có những cảnh nặng nề, ám ảnh, lại gây khoái lạc nơi người xem hoặc người đọc.

6- Khi còn nhỏ đứa bé ham chơi, đến lúc trưởng thành, nó "có vẻ" bỏ, không chơi nữa, nhưng tất cả những ai biết rõ đời sống tâm thần của con người, đều hiểu rằng không dễ gì mà ta bỏ được một cái thú mà ta đã hưởng qua. Vì vậy, thay vì ngừng chơi, con người trưởng thành đổi hướng chơi, sang những thú khác, như xây lâu đài trên bãi cát, tự tạo cho mình những ám ảo, trong những giấc mơ tỉnh bằng tưởng tượng.

7- Trẻ con khi chơi thì nó chơi thật tình, nó trình bày tất cả những fantasme của nó ra và không sợ gì cả, tức là nó "muốn làm người lớn" vậy nó không có gì phải giấu giếm. Còn người lớn, phải giấu hoặc trá hình những fantasme của mình. Tại sao vậy? Bởi vì, một phần, người lớn bị người ta chờ đợi, không phải anh phô trương những fantasmes của anh, mà anh tác động như thế nào đến đời sống thực; thêm nữa, trong những fantasmes của anh có nhiều cái đáng xấu hổ nên anh phải giấu đi.

8- Bạn sẽ hỏi: Làm sao ta biết được những fantasmes của người lớn, vì họ giữ bí mật như thế? Nhưng có một loại người, không giữ được bí mật của họ, đó là những người bị bệnh tâm thần. Những người này thổ lộ hết những gì làm họ đau, những gì làm họ sướng, cho bác sĩ biết tất cả những ám ảo của họ, để hy vọng được khỏi bệnh. Và đó là nguồn mà Freud tin cậy nhất, và từ những ám ảo mà người bệnh nói ra, ta có thể suy ra ám ảo của người khỏe mạnh.

Chỗ này vô lý: Làm sao có thể lấy những "sự thật" do người bệnh nói ra (tạm cho rằng họ không biạ), để gán với những gì xảy ra trong đầu người không bệnh?

9- Khảo sát tính chất của giấc mơ tỉnh, Freud thấy những ham muốn không được thoả mãn trở thành những fantasmes. Và những fantasmes này, có khi là ham muốn danh vọng, có khi là ham muốn dục vọng: ở con gái thường là ham muốn tình yêu, ở con trai là ham muốn nhục dục, dĩ nhiên còn nhiều loại fantasme khác...

10- Đến đây Freud liên hệ ám ảo trong những giấc mơ tỉnh với những giấc mơ ban đêm:

"Nhưng tôi không thể bỏ sót mối liên hệ giữa fantasme với giấc mơ [ngủ]. Những giấc mơ trong đêm của chúng ta, không có gì khác hơn, mà chính là những fantasme như thế, như chúng tôi đã chứng minh sự hiển nhiên trong cuốn Giải mộng [1900]".

Câu này chứng tỏ năm 1908, khi viết những dòng này, Freud vẫn chưa tách rời hai điạ hạt: giấc mơ (ngủ) là những ảo giác (hallucination), với giấc mơ tỉnh hay mơ mộng hay tưởng tượng là những ám ảo (fantasme). Và như vậy là rất sai, bởi chúng ta biết rằng nhà văn viết văn với những ám ảo (fantasmes) chứ không phải với những ảo giác (hallucinations).

11- Cuối cùng, Freud phân tích tác phẩm văn học như sau:

Để trả lời câu hỏi: ta có quyền so sánh việc nghệ sĩ và những sáng tạo trong giấc mơ tỉnh ban ngày với những giấc mơ đêm không? Freud đề nghị trước hết phải phân biệt hai loại tác giả:

Không kể những tác giả xưa, khi viết những anh hùng ca, bi tráng kịch, họ đã tiếp nhận chủ đề từ người khác kể lại.

Nếu chỉ chú ý đến những tác giả bình dân, ta sẽ thấy, trong những tác phẩm ngây ngô này, tác giả tìm cách tự đồng hoá mình với nhân vật chính, luôn luôn hay ho, luôn luôn thoát mọi hiểm nghèo... bởi vì vai chính thì không thể chết, chết là hết truyện. Chưa kể tất cả những người đàn bà trong truyện đều mê vị "anh hùng" nhân vật chính này. Qua đó, ta dễ thấy những nét vô địch, đế vương của cái tôi, là nhân vật chính và cũng là anh hùng trong tất cả những giấc mơ tỉnh, được thực hiện trong tiểu thuyết. Giấc mơ tỉnh đem ám ảo vào sáng tác, tạo ra những nhân vật không bị trầy trượt, qua những nổi trôi, những cuộc tình, những gặp gỡ, đối đầu.

Còn tiểu thuyết tâm lý (thịnh hành thời 1900), theo Freud, thường có một nhân vật, luôn luôn là nhân vật chính, từ trong (tâm hồn) viết ra, xem như tác giả tả những kẻ khác từ bên ngoài. Tóm lại, tác giả tự cắt mình làm hai: "cái tôi tự quan sát" và "cái tôi tham dự". Nói khác đi, tiểu thuyết gia tự phân thân, vừa là vai chính cũng là người kể, vừa là nhiều cái tôi riêng biệt của những nhân vật khác trong truyện, tiêu biểu cho những dòng chảy khác nhau trong đời sống tâm thần của tác giả.

Freud đồng hoá sáng tạo văn chương với giấc mơ tỉnh, và nhấn mạnh đến tương quan giữa cuộc đời và tác phẩm: "Một biến cố dữ dội trong hiện tại nhắc người sáng tạo nhớ lại một biến cố xa xưa, thường là trong tuổi thơ".

Và chính cái biến cố đầu đời ấy gợi cho tác giả ý muốn thực hiện nó trên tác phẩm. Người đọc có thể nhận diện cả ấn tượng bây giờ lẫn ấn tượng ngày xưa của tác giả trong tác phẩm.

Tóm lại, theo Freud: "Tác phẩm là sự thực hiện những ham muốn tuổi thơ" hay "sự thay thế những trò chơi thủa nhỏ". Tác phẩm xuất phát từ một giấc mơ hay ham muốn tuổi thơ; nhưng nó cũng có thể phát xuất từ một thần thoại, và khi đó, nó là giấc mơ của một dân tộc hay giấc mơ cổ đại của nhân loại.

Freud cho rằng nếu ta khảo sát tác phẩm về mối liên hệ giữa các nhân vật, về ký ức của các nhân vật, về những ham muốn của họ diễn biến theo thời gian... rồi đem so sánh với cuộc đời thực của tác giả, ta cũng sẽ thấy lại hệ thống những ám ảo của ông ta, những kỷ niệm ấu thời, những mặt nạ của ông ta, từng cái một, sẽ bị lột dần.

Còn về tác dụng trên người đọc, trái ngược với những ám ảo khi được trần trụi phanh phui, có thể gây sốc, gây sự ghê tởm, nhưng qua tay tiểu thuyết gia, nó có khả năng tạo lạc thú, đẩy lui sự ghê tởm nhờ thủ pháp nghệ thuật. Người đọc cứ việc "hưởng thụ ám ảo văn chương" không ngần ngại, và nó sẽ làm "dịu bớt những căng thẳng" trong đời.

 

 

Kỳ nữ Gradiva

 

Năm 1907, Freud đã phân tích tác phẩm văn học bằng lý thuyết phân tâm, để chứng tỏ có thể áp dụng khoa học vào văn chương, một địa hạt gần như xa lạ với khoa học: Tác phẩm Cơn mê sảng và những giấc mơ trong cuốn Gradiva của Jensen (Délire et rêves dans la "Gradiva" de Jensen)[62] của Freud, là tác phẩm mở đầu và duy nhất cho khuynh hướng phân tâm này. Danh tiếng của Freud thời ấy đã dẫn đường cho nhiều người tìm đọc cuốn tiểu thuyết của Jensen, và bức tranh khắc kỳ nữ Gradiva trở thành một biểu tượng.

Wilhelm Jensen (1837-1911) là một tác giả viết nhiều, nhưng chỉ nổi tiếng vừa phải tại Đức. Sau khi ông mất, không có tác phẩm nào của ông được in lại, trừ cuốn Gradiva, tưởng tượng ở Pompéi (Gradiva, fantaisie pompéienne) được Freud đem ra phân tích phê bình.

Chính Freud cũng cho rằng Gradiva là "một truyện ngắn không có gì đặc sắc của Jensen". Nhưng tại sao ông lại chọn phân tích cuốn sách này?

Đầu tiên hết, là vì cuốn truyện mô tả sự mê sảng và kể lại những giấc mơ của nhân vật chính là nhà khảo cổ học trẻ tuổi Nobert Hanold, phù hợp với việc Freud đang muốn làm: quảng bá lý thuyết phân tâm nói chung và lý thuyết về mơ nói riêng, chứng minh giấc mơ là có thật trong đời sống và phân tâm học có thể giải thích bằng tác phẩm văn học.

Điểm thứ nhì, truyện xảy ra tại Pompéi, là nơi, năm 1902, Freud đã đi du lịch cùng với người anh/em Alexander, và đã có những kỷ niệm "say đắm". Freud, dường như, qua bài viết này, muốn đào xới lại những kỷ niệm, những ám ảo của chính mình, trong cuộc hành trình mơ mộng tay ba: Freud, nhân vật Nobert Hanold và tác giả Jensen, qua tác phẩm văn học.

J.B. Pontalie trong bài Tựa đã không nhầm khi cho rằng: Freud đã mơ tưởng đến một cuộc "luyến ái hợp cẩn" giữa phân tâm học và khảo cổ học, nhưng: "Trong vòng 20 năm, Freud đã đo lường được tất cả khoảng cách giữa Pompéi và Vienne, giữa Nobert Hanold và chính ông, cuộc luyến ái hợp cẩn giữa khảo cổ học và phân tâm học đã thực sự lỗi thời"[63].

Vậy Freud đã gửi gắm những gì trong cuốn sách đó?

Truyện của Jensen có thể tóm tắt như sau:

Nobert Hanold, một nhà khảo cổ học trẻ, người Đức kiếm được bản sao một bức khắc nổi bày tại bảo tàng viện La Mã. Ông rất mê bức tranh khắc này, đem về treo trước bàn làm việc và tìm cách khám phá bí mật của người phụ nữ yểu điệu đang bước trong tranh. Ông đặt tên nàng là Gradiva (Người bước tới). Gradiva là tên Gradivus của thần Mars được đổi sang giống cái. Một đêm, Nobert Hanold, mơ thấy mình ở Pompéi và được mục kích cảnh hỏa sơn phun lửa: "anh đang đứng bên bờ nghị trường (forum) gần đền Jupiter thì bỗng nhiên anh thấy Gradiva ở cạnh anh", nhưng nàng thản nhiên tiến đến cửa đền, ngồi xuống, đầu gối lên bậc cửa. Khi anh chạy đến nơi, thì nàng đã nằm xuống dọc bậc thềm, như ngủ, nét mặt bình thản, đúng lúc cơn mưa tro gieo xuống mình nàng bao phủ toàn thân.

Bị giấc mộng chi phối, Nobert Hanold bèn đi La Mã, qua Naples, tới Pompéi và ở đây anh đã trải nhiều giấc mơ với Gradiva, với Léa Bertgang, "hậu thân" của nàng, và là người con gái nhỏ có bước đi uyển chuyển mà anh đã quen từ thời thơ ấu.

Jung đọc truyện này và giới thiệu với Freud, năm 1906, lúc đó hai người mới sơ giao. Ít lâu sau, Freud đến Vatican, cũng tìm được bản sao bức tranh khắc nổi Gradiva, về đặt dưới ở chân đi-văng người bệnh nằm để phân tâm, khiến họ có thể chiêm ngưỡng Gradiva và nhìn bước đi yểu điệu có một không hai của nàng. Mùa hè năm ấy Freud viết bài phê bình này. Ông phân tích tác phẩm của Jensen, theo tiến trình sau đây:

Trước hết, Freud giới thiệu phương pháp đoán mộng của ông trong cuốn Giải Mộng (1900) Ông dành nhiều trang để thuyết phục độc giả về phương pháp khoa học mới này chưa được quần chúng biết đến. Sau đó, ông kể khá chi tiết nội dung tác phẩm của Jensen, thỉnh thoảng dừng lại để giải thích một sự kiện trong truyện, bằng những khái niệm quen thuộc của phân tâm học, như libido, dồn nén, vô thức. Freud có ý so sánh khái niệm ẩn ức bị đè nén, chôn vùi, bung ra trong giấc mơ với hiện tượng nhà khảo cổ học Nobert Hanold cố gắng tái tạo lại quá khứ bị chôn vùi bằng cách đào bới để khai quật lại.

Rồi xuyên qua những ám ảomê sảng của nhân vật Nobert Hanold, Freud tìm lại "những chủ động dâm tính trong vô thức của anh ta" và "vẽ lại" những giấc mơ của anh ta, trong bối cảnh câu chuyện. Freud viết:

"Trường hợp Hanold, ngay từ khi xuất hiện bức tranh khắc nổi, đã là trường hợp của một vô thức bị dồn nén, nói vắn tắt, là một kẻ bị dồn nén.

Ở Norbert Hanold, những kỷ niệm về quan hệ tuổi thơ với cô gái nhỏ có bước đi yểu điệu, bị dồn nén nhưng cũng chưa phải là cách đúng để xét tình trạng tâm lý này"[64].

Sau đó ông viết tiếp: "Ở Norbert Hanold, những dâm tình bị dồn nén và vì dâm tình của anh trong tuổi thơ chỉ biết có mình Zoé Bertgang. Những kỷ niệm về cô bé này anh đã quên rồi. Bức tranh khắc nổi cổ đại đánh thức trong anh dâm tình đã ngủ, và làm sống lại kỷ niệm tuổi thơ"[65].

Vì vậy, theo Freud, điều quan trọng là làm sao phải nối kết được sự hiểu biết những nét chính trong giấc mơ với dòng chảy của truyện. Mà muốn giải thích một giấc mơ, trước hết phải đưa nó vào trạng thái tâm thần của nhân vật bằng cách, qua những diễn biến trong truyện, ghi lại những chi tiết về đời tư bên ngoài cũng như bên trong của người mơ. Mỗi phần chứa đựng trong giấc mơ, mỗi đơn vị mơ mộng, đều thoát thai "từ những ấn tượng, những kỷ niệm và những chắp nối tự do của người mơ mộng".

Freud giải thích rằng sự khảo sát này bật ra hiện trạng: "ý tưởng ngầm trong giấc mơ" không phải chỉ hàm có "một ý" mà là "một mạng dệt những ý tưởng".

Theo ông, nhà văn nhà thơ "biết nhiều chuyện trong trời đất mà cái học trường ốc không giúp ta mộng tới được", cho nên ông chọn khảo sát chủ đề "những giấc mơ được một tiểu thuyết gia tưởng tượng trong một tác phẩm".

Phân tâm học còn cho biết: con người có những ham muốn, những ý tưởng thầm kín, không dám nói ra, hoặc không thể thực hiện trong đời thực vì xã hội không cho phép, bèn giấu kín trong vô thức. Vận dụng hiện tượng này, Freud cho rằng, đối với văn nghệ sĩ: thay vì dồn nén những ẩn ức ấy vào vô thức như những người bình thường, văn nghệ sĩ đưa nó ra ra bằng thủ pháp nghệ thuật, bằng hư ảo. Vậy giải mộng là làm sao, từ giấc mơ trong truyện, tìm ra được những quy luật trong vô thức của nhà văn.

Tóm lại, Freud cho rằng phân tâm học, tìm cách phân tích trên nền móng những ấn tượng nào, những kỷ niệm riêng tư nào, nhà văn đã dùng để dựng nên tác phẩm. Trong bài này, Freud đã phân tâm nhân vật chính Nobert Hanold bằng phương pháp phân tâm của ông, đồng thời ông đồng nhất nhân vật với tác giả.

Đó là những nét rất chủ quan, sau này sẽ bị coi là lỗi thời. Nhất là ở đây Freud đã đồng hoá hai khái niệm mơ tỉnhmơ ngủ với nhau. Ông đã dùng phương pháp đoán mộng dành cho những giấc mơ ngủ, liên quan tới vô thức, nơi người bệnh tâm thần để đoán mộng của những giấc mơ tỉnh, tức mơ mộng hay tưởng tượng, hoàn hoàn ý thức, nơi người sáng tạo.

 

 

Ký ức tuổi thơ của Goethe

 

Vấn đề kỷ niệm ấu thời có thể chi phối vô thức con người đến mức nào, được Freud bàn đến trong bài "Một kỷ niệm tuổi thơ trong cuốn "Sự thật và Hư cấu" của Goethe" (Un souvenir d'enfance dans "Fiction et Vérité' de Goethe)[66] (1917), Freud chứng minh sự quan trọng của ký ức tuổi thơ: Ông chú ý đến đoạn đầu cuốn sách Sự thật và Hư cấu (Fiction et Vérité), trong đó Goethe viết về tuổi thơ của mình mà chỉ giữ lại có một kỷ niệm lúc chưa đầy bốn tuổi.

Cuốn hồi ký này Goethe bắt đầu viết ở tuổi 60. Sau khi lược kể mình sinh ngày 28/8/1749, lọt lòng mẹ tưởng chết, may cứu được, Goethe kể lại câu chuyện sau đây:

Một hôm, cậu Goethe (khoảng gần bốn tuổi), chơi trò tàu chạy với mấy cái lọ, tô bằng đồ gốm. Chán, cậu bé bèn ném một cái tô ra đường, thấy nó vỡ kêu rủng rảng rất vui tai, cậu khoái trí vỗ tay; cùng lúc ấy mấy thằng hàng xóm, lớn đầu hơn, con nhà Von Ochhsenstein, cũng vỗ tay hoan hô phụ hoạ và cổ võ: "Nữa đi! Nữa đi!" Cậu nhỏ thích chí, chạy vào bếp lôi thêm các tô, chén, điã, đem liệng ra đường, giữa những lời hoan hô vang dậy: "Nữa đi! Nữa đi!" của lũ lỏi hàng xóm, cho tới lúc bị người lớn cấm.

Theo Freud, câu chuyện này, khi chưa có phân tâm học, mọi người đọc qua không để ý, nhưng ông cho rằng, có những kỷ niệm tuổi thơ trôi đi mất, nhưng lại có kỷ niệm được giữ lại, vậy cái được giữ lại phải là cái gì quan trọng hơn cả, nó được giữ lại ngay từ thời ấy hay do ảnh hưởng của những yếu tố bên ngoài, đến sau. Cái kỷ niệm xuyên thời gian này, Freud gọi là Kỷ niệm-Màn ảnh (Souvenir-Ecran), và ông giải thích như sau:

Theo Freud, những kỷ niệm ấu thời được lưu lại trong đầu bệnh nhân, mà ông gọi là Kỷ niệm- Màn ảnh, thường là chìa khoá mở vào đời sống tâm thần của họ, nhưng trường hợp Goethe không hoàn toàn là như vậy.

Freud đã phải bỏ qua một bên vấn đề Goethe, vì không giải thích được, cho đến khi ông gặp trường hợp một bệnh nhân có kỷ niệm tuổi thơ tương tự. Đó là một chàng trai 27 tuổi, trình độ văn hoá cao, có tài, đang xung đột dữ dội với mẹ. Sự xung đột này bao trùm lên cuộc đời anh, chặn đứng khả năng yêu đương và tự lập, bắt đầu từ tuổi nhỏ: Cho tới bốn tuổi, anh là một đứa bé ốm yếu, bệnh hoạn nhưng có những kỷ niệm tuyệt vời về thời kỳ ấy, vì anh sống trong sự yêu chiều của mẹ, không chia sẻ với ai. Trước anh và sau anh, mẹ sanh liền một chị và em gái, cũng không có vấn đề gì. Nhưng khi anh chưa được bốn tuổi, mẹ sanh đứa em trai (bây giờ vẫn còn sống). Để phản đối lại việc này, anh trở nên một đứa bé cứng đầu, rắn mặt, dữ dội, khiến mẹ trở nên hà khắc với anh.

Khi đến khám bệnh, sự ghen tuông với em -có lúc định "giết" em trong nôi- anh đã quên từ lâu rồi. Bây giờ anh đối xử với em rất tốt, nhưng vẫn có những hành động lạ lùng: như hành hạ dã man con chó hay những con chim mà anh chăm chút, nuôi nấng, như để dội lại những kích động thù hận đối với em.

Bệnh nhân kể lại rằng trong lúc lên cơn hành hạ em, anh đã từng ném tất cả những bát điã, có trong tay, qua cửa sổ. Hành động giống như hành động của Goethe thủa nhỏ. Tuy nhiên, Freud vẫn không thấy điều gì để có thể liên lạc hai sự kiện này với nhau. Goethe thì đổ lỗi vụ "ném điã chén này" do mấy đứa con nhà Von Ochhsenstein lớn hơn, đầu têu. Tuy nhiên, Freud cãi, chúng chỉ cổ võ, chứ chúng không là thủ phạm ném cái điã đầu tiên.

Freud bèn tìm kiếm thêm, ông thấy Goethe sinh trong một gia đình đông con, nhiều trẻ suy nhược, bốn bé mất sớm. Đối tượng ghen tuông của Goethe, không phải là chị và em gái sinh gần cận, mà là đứa em trai nhỏ hơn Goethe ba tuổi, ba tháng, nó mất lúc lên sáu, khi Goethe lên 10.

Theo lời bà mẹ Goethe, được ghi lại, thì "rất lạ là nó không có một giọt nước mắt khóc em, mà còn có vẻ khó chịu vì thấy cha mẹ và chị em khóc lóc". Ít lâu sau, khi mẹ hỏi: con có thương em không, thì cậu Goethe chạy vào phòng lôi dưới gầm giường ra những tờ giấy trong đó cậu ghi đầy những bài giảng về lịch sử để "dạy" em. Như vậy "người anh Goethe" đã muốn tỏ ra mình là cha, là thầy của đứa em xấu số.

Freud giải thích rằng: "Cái màn ném chén điã, là một hành động có tính cách biểu tượng, nói đúng hơn, là một hành động yêu thuật (action magique), qua đó đứa bé (Goethe cũng như bệnh nhân của tôi) diễn tả mạnh mẽ ý muốn đuổi kẻ xâm nhập đáng giận là đứa em sinh sau, muốn chiếm chỗ của mình bên mẹ".

Tiếp đó Freud lý luận rằng: đành rằng tất cả những đứa bé đều thích đập vỡ các đồ vật để nghe tiếng vỡ, nhưng chúng có thể ném xuống đất. Ở đây, sự ném qua của sổ, hay ném ra đường, có ý nghiã sâu hơn, tức là để trả thù cha mẹ, nó làm dữ.

Sự kiện "ném ra ngoài" ấy, chính là ý nghiã ẩn trong hành động của đứa bé: đứa em đến sau sau phải được "ném ra ngoài", "ném qua cửa sổ" nhất là khi nó biết là "con cò đem em nó lại" (thành ngữ của người Tây phương), thì đây, nó bảo: "Trả lại mày đấy, cò ơi, mày đem nó đi cho rồi!".

Mấy năm sau, Freud lại được một bệnh nhân nữa kể câu chuyện tương tự: Kỷ niệm sớm nhất mà anh ta nhớ được là khi nghe cha báo tin sắp có em, anh ta, lúc đó gần bốn tuổi, đã vứt qua cửa sổ, bất luận vật tìm thấy trong tay: giày, dép, bàn chải,  v.v...

Sau khi thuật thêm vài trường hợp do các đồng nghiệp mang lại, Freud kết luận về hành động của Goethe: "Lúc đó, như thể Goethe nói: Tôi là con của hạnh phúc, được định mệnh ưu đãi, số phận đã giữ tôi lại trên đời, mặc dù suýt chết lúc sinh ra. Nhưng số phận đã đánh bại em tôi, khiến tôi không phải chia sẻ với nó tình yêu của mẹ."

Và Freud kết luận rằng: với cảm tưởng mình là "đứa con đặc biệt ưu ái của mẹ mà không ai chối cãi", Goethe đã giữ trọn đời "tính khí của kẻ chinh phục""sự bảo đảm của thành công". Và Freud cho rằng những thành công ở đời của Goethe, là nhờ mối liên hệ với mẹ, bắt nguồn từ cái kỷ niệm ấu thời, ném điã ra đường nhỏ bé ấy, chính là Kỷ niệm-Màn ảnh.

 

 

Ba cái tráp

 

Bài tiểu luận phê bình thứ ba, là bài Về đề tài ba cái tráp (Le thème des trois coffrets) (1913)[67]. Đề tài này thoát thai từ hai màn kịch, một vui, một buồn, trong tác phẩm của Shakespeare, mà khi khảo sát, đã đưa Freud đến những nhận xét sau đây:

1- Màn vui, trong tuồng Người lái buôn ở Venise: truyện ba người đến cầu hôn, phải chọn trong ba cái tráp: một vàng, một bạc, một chì; nếu chọn trúng cái tráp chứa hình người đẹp, mới được cưới cô Portia hiền hậu. Mỗi thí sinh phải giải thích sự lựa chọn của mình. Hai người chọn tráp vàng, bạc, thao thao bất tuyệt tán tụng sự quý giá của vàng, bạc, đều trượt. Bassanio chọn tráp chì, lấn cấn trong sự bảo vệ tính chất quý giá của chì trước vàng, bạc, nhưng anh trúng. Theo Freud, ba cái tráp này tiêu biểu cho ba người phụ nữ (ta đã thấy trong phần giải mộng: những thứ như hòm, tráp, hộp... đều tiêu biểu cho người đàn bà).

1- Màn bi đát, trong tuồng Vua Lear (Le roi Lear): ông vua già Lear quyết định chia nước cho ba con gái, tùy theo cách các cô diễn tả tình yêu với cha. Hai cô đầu ra sức ba hoa về lòng hiếu thảo của mình, cô thứ ba, Cordélia, yêu cha thực tình, nhưng chỉ biết làm thinh. Thay vì nhận ra tình yêu chân thực của đứa con im lặng, nhà vua đuổi Cordélia đi, chia gia tài cho hai con đầu. Sự bất hạnh xảy ra, đem đến cái chết của Cordélia. Theo Freud, tình huống này cũng là sự chọn giữa ba người đàn bà, và Freud so sánh với những cảng tương tự trong các huyền thoại, cổ tích (Pâris, Cendrillon và Psyché). Vì Lear là ông vua già, nên Shakespeare chuyển tình yêu nam nữ sang tình yêu cha con, nhưng ý nghĩa tình yêu không thay đổi, Freud giải thích: Cordélia, đẹp, tốt, im lặng, nàng cũng giống như cái tráp chì mà Bassanio đã chọn và anh bảo: "Sự xanh xao đơn mạc của mi, làm động lòng ta hơn những lời hùng biện". Anh muốn ám chỉ hai đối thủ chọn vàng, bạc, ồn ào và lẻo mép: Chì làm thinh, như Cordélia. Nàng biểu hiệu cho tình yêu và sự chung thuỷ, nàng là thần của tình yêu nhưng nàng mang cả cái chết trong người: nàng là cái chết, nàng là thần chết, bởi vì "ba chị em" tiêu biểu cho thần Định mệnh[68] gồm ba người: Clotho, Lachésis và Atropos, biểu tượng của sự sinh, sự sống và sự chết. Cordélia, người em út, nàng là Atropos và cũng là thần chết.

Freud lập luận rằng: Không phải tình cờ mà Shakespeare đưa ra hai màn kịch đều có ba người đàn bà (màn đầu biểu hiệu bằng ba cái tráp). Mà đó chính sự gặp gỡ giữa giấc mơ và huyền thoại. Sự kiện này đã thấm nhuần trong lịch sử loài người từ thời nguyên thuỷ, nó sống âm ỉ trong ký ức nhân loại, qua các truyền thuyết và các truyện cổ tích (chỗ này Freud và Jung có cùng quan điểm).

Như trên ta đã biết: thúc đẩy tính dục hay libido có khả năng lật ngược tình thế, như đổi tình yêu sang hận thù (xem đoạn Thúc đẩy tính dục). Sự hoán chuyển tình yêu sang cái chết, hay thần ái tình sang thần chết, cũng là sự lật ngược tình thế và hiện tượng này thường xảy ra trong giấc mơ và trong đời sống. Bởi từ nguyên thuỷ, các vị thần, Đông cũng như Tây, đều có hai mặt: Ở Á Châu, thần Phật che chở chúng sinh và có toàn năng huỷ diệt. Sự chuyển hoán thần chết sang cô em út Cordélia, là người đẹp nhất, tốt nhất, đáng yêu nhất, cũng nằm trong dòng chẩy nguyên thuỷ này. Freud kết luận bài viết bằng những hàng:

"Nay, ta có cảm tưởng, nhà thơ, đã đem đề tài trở về với truyền thuyết nguyên thuỷ, thậm chí  ý nghiã đớn đau của đề tài, sau này yếu đi vì bị biến dạng, lại quay trở lại làm xúc động ta. Nhà thơ, đã loại bớt những biến dạng, bằng sự trở về một phần với cái nguyên thủy, đã thành công trong việc gây ảnh hưởng trên chúng ta qua động tác uyên thâm (...)

Lear là một ông già. Như chúng tôi đã nói, vì tuổi tác, mà ba chị em được trình bày như ba con gái ông (...) Nhưng Lear không chỉ là một ông già mà còn là một người sắp chết. Cách phân chia gia tài lạ thường ở đây mất hẳn tính cách lạ lùng [trước sự] người đàn ông hấp hối không muốn từ bỏ tình yêu của người đàn bà, nên ông buộc [ba con gái] phải nói cho ông nghe ông được yêu đến mức nào. Ta lại nhớ đến màn xúc động cuối cùng, một trong những đỉnh cao bi đát của kịch hiện đại: Lear mang xác Cordélia lên sân khấu. Cordélia, nàng chính là sự Chết. Cảnh này đã xoay ngược lại tình thế, đối với ta, trở nên thân thuộc và có thể hiểu được: Thần Chết đã thắng trong cuộc chiến, giống người anh hùng chết như Valkyrie trong thần thoại Nhật Nhĩ Man. Sự minh triết muôn thủa, được phủ trong y phục của thần thoại nguyên thuỷ, đã khuyên ông già từ bỏ tình yêu, chọn cái chết, tập quen với cái tất yếu của sự chết.

Nhà thơ cho phép ta nhúng tay vào đề tài cổ đại, bằng cách để cho ông già sắp chết lựa chọn giữa ba chị em. Huyền thoại, đã bị xuyên tạc vì sự ngụy tạo của những thúc đẩy ham muốn, qua sự gạn lọc của nhà thơ, nó hiện lại ý nghiã ban đầu, đến độ chúng ta có thể bình giải sơ lược biểu tượng của ba khuôn mặt phụ nữ trong đề tài này. Ta có thể nói rằng, ba quan hệ tất nhiên và đích thực giữa người nam và người nữ đã được trình bày ở đây: Người sinh [mẹ], người sống [vợ] và người huỷ diệt [thần chết]. Hoặc ba hình ảnh người mẹ trong cuộc đời: người mẹ, người yêu được chọn theo mẫu người mẹ, và sau cùng Đất-Mẹ, đón nhận ta lần cuối. Ông già đã vô vọng tìm cách chiếm lại tình yêu của người phụ nữ như lần đầu ông nhận được ở mẹ; chỉ có đứa con gái thứ ba của thần Định Mệnh, là Thần Chết, đã lặng lẽ đón ông trong tay"[69]

Bài viết này chứng tỏ tài phê bình của Freud, có rất ít khái niệm phân tâm, trừ những khuôn mẫu cổ đại của người mẹ, cùng ý với Jung. Freud muốn chứng minh Shakespeare đã sử dụng tài tình các truyền thuyết nguyên thuỷ trong tác phẩm của mình. Nhờ vậy người đọc hay người xem kịch có thể sống lại những tình cảm bi đát này, qua những biểu tượng muôn thủa của người mẹ trong đời sống nhân loại. Freud không phân tâm ông già Lear, mà dùng câu chuyện của ông già Lear để "chứng minh" rằng: huyền thoại đã bị những ẩn ức dục tính làm biến dạng, tuy ông không dùng chữ libido, mà dùng chữ ham muốn (désir). Theo ông, công của Shakespeare, là dựng lại huyền thoại nguyên thuỷ. Tuy nhiên ông chưa chứng tỏ được có mối liên lạc nào, giữa hiện tượng libido làm biến dạng huyền thoại trong giấc mơ (vì ở đây không có mơ) với hiện tượng Shakespeare đưa huyền thoại trở lại dạng thức nguyên thuỷ. Cho nên dụng ý của Freud dùng Shakespeare để củng cố lập thuyết phân tâm của ông ở đây cũng thất bại. Chỉ còn lại nghệ thuật phê bình của Freud.

Nghệ thuật này, qua ba bài viết trên đây, có thể tóm gọn như sau:

Freud dùng một tác phẩm văn học (Gradiva), một tình thế (Cậu bé Goethe ném đĩa ra đường) và một màn kịch (của Shakespeare), để minh hoạ cho lập thuyết của ông trong phân tâm học: Freud đã phân tâm nhân vật chính (Norbert Hanold trong Gradiva), ông tìm mạng dệt tâm thần của nhân vật này và đồng hoá nhân vật này với tác giả Jensen. Với Goethe, ông chứng minh Kỷ niệm-màn ảnh, tức là kỷ niệm duy nhất trong tuổi thơ còn giữ lại được, có vị trí quyết định cuộc đời. Với Shakespeare, ông tìm lại những nguyên mẫu trong cổ tích và thần thoại mà Shakespeare sử dụng để tạo thành tác phẩm.

 

 

IV- Nhận xét về phê bình phân tâm của Freud

 

Trong ba bài viết trên đây, bài viết về tuổi thơ của Goethe, chưa phải là phê bình, mà chỉ là bài dẫn chứng cho lập luận: một hành động thời thơ ấu của con người (Goethe), có thể chi phối con người ấy, suốt đời. Bài Ba cái tráp cũng chưa hẳn là bài phê bình hai màn kịch của Shakespeare. Freud chỉ muốn chứng minh Shakespeare đã dùng các nguyên mẫu trong huyền thoại và cổ tích, điều này chứng tỏ tới năm 1913, Freud và Jung có cùng quan niệm về nguyên mẫu. Bởi năm 1912, Freud đã viết về khái niệm nguyên mẫu này trong cuốn Vật tổ và Cấm kỵ (Totem et Tabou)[70]. Cuối cùng, chỉ có bài viết về kỳ nữ Gradiva, là bài phê bình phân tâm học theo đúng nghĩa của nó: Freud chứng minh một tác phẩm mơ mộng, bề ngoài hoàn toàn "ngây thơ, dễ thương", không có gì là dâm thư cả, nhưng bên trong chứa đựng những dâm tình bị dồn nén, từ thủa nhỏ của Nobert Hanold, nhân vật chính. Ông phân tâm Nobert Hanold, qua những giấc mơ của anh, ông chứng minh sự mê sảng của anh phát xuất từ những libido bị kìm hãm từ thủa nhỏ. Và đó mới thực sự là phê bình phân tâm học.

Vậy nội dung đích thực của phê bình phân tâm học là chứng minh những hiện tượng có vẻ trong sạch như những giấc mơ nên thơ của Hanold, thực ra là những ám ảnh dâm đãng chứa trong vô thức của nhân vật này. Nói khác đi, libido đã trá hình thành bộ mặt ngây thơ vô tội để hiện ra trong những giấc mơ của Nobert Hanold.

Nhưng một câu hỏi được đặt ra: Ta có thể "phân tâm" một nhân vật tiểu thuyết như Freud đã làm được không? Hẳn là không, bởi vì làm sao phân tâm được một ảnh ảo, một sản phẩm tưởng tượng, một nhân vật do tác giả ngẫu hứng viết ra? Và điều đó dẫn đến nhận xét này: Freud đã đồng hoá tác giả với nhân vật chính, và qua Nobert Hanold, Freud phân tâm Jensen, và qua Jensen, Freud phân tâm chính mình, vì ông cũng đã tự tạo điều kiện để đi đúng con đường của Jensen.

Tóm lại, nếu ta chấp nhận việc có thể "phân tâm" một nhân vật có thực (như Goethe) hay tưởng tượng (như Nobert Hanold), thì phân tâm học cũng chỉ giúp ta trong việc tìm lại ý nghĩa ẩn trong một tác phẩm, đã bị quên đi, hoặc trá hình, cho đeo một mặt nạ khác.

Điểm thứ nhì, để tìm lại ý nghiã ẩn giấu này, người phê bình không thể không biết rõ tiểu sử tác giả, để có thể đối chiếu văn bản với sự thực ngoài đời của tác giả (như trường hợp Goethe). Hoặc phải hoàn toàn dựa vào nhân vật chính, đồng hoá tác giả với nhân vật chính (như trường hợp Jensen). Đó là giới hạn của phê bình phân tâm.

Còn những tác phẩm mà ý nghiã đã lộ rõ như những dâm thư, những truyện bạo lực, hay những thơ dâm tục được gán cho Hồ Xuân Hương, không thể là đối tượng của phê bình phân tâm bởi vì ý nghiã đã lộ rõ rồi (nói như Nguyễn Văn Trung: cái tục nó đã lù lù ra đó), không có gì ngụ ẩn ở đằng sau, thì việc "phân tâm", dù dùng lý thuyết của Freud, Jung, hay ai khác, cũng là vô ích.

 

Freud có hai đệ tử chính thức là Charles Baudouin, với tác phẩm Phân tâm nghệ thuật (Psychanalyse de l'Art) (1929) và Charles Mauron với chủ thuyết Phê bình phân tâm (Psychocritique).

Charles Baudouin xác định chủ đích của Phân tâm nghệ thuật"Tìm tòi những liên hệ mà nghệ thuật duy trì với những mặc cảm, hoặc riêng tư, hoặc nguyên thuỷ, ở cả nghệ sĩ sáng tạo lẫn người thưởng thức". Ông dựa trên những tìm kiếm không chỉ của Freud mà cả của Jung, Abraham, Rank. Chủ đề mặc cảm Œdipemặc cảm tự yêu mình (narcissisme), được khai triển nhiều hơn cả. Baudouin "phân tâm" Tolstoi, Hugo, qua tác phẩm, để tìm lại con người.

Charles Mauron, tiếp tục đường lối của Baudouin. Con đường của Mauron, là sự hỗn hợp giữa phê bình Sainte-Beuve và phê bình phân tâm. Ông quan niệm phải phân tích chất liệu văn chương bằng phương pháp khoa học và y học, tức là phải tìm hiểu tiểu sử tác giả trước rồi sau mới tìm đến những "triệu chứng" được hiểu là "biểu tượng" có trong tác phẩm. Khảo sát cả hai mặt này, mới tìm ra những "chủ đề" tạo nên ý nghiã nền tảng của tác phẩm.

Phê bình phân tâm, tóm lại, là sự phân tâm tác giả qua văn bản và tiểu sử, là khuynh hướng cuối cùng của phê bình cũ, trước thềm phê bình hiện đại thế kỷ XX.

 

 

V- Phê bình phân tâm vào Việt Nam

 

Những trào lưu văn học Tây phương khi vào đến nước ta, thường chậm mấy chục năm và có khi bị hiểu sai, áp dụng không đúng chỗ, phê bình phân tâm học của Freud cũng ở trong trường hợp này. Năm 1968, Nguyễn Văn Trung trong cuốn Lược khảo Văn học, tập 3, đã báo động sự áp dụng phân tâm học bừa bãi trong phê bình văn học ở Việt Nam, như sau:

"Khi nói đến áp dụng phân tâm học của Freud vào văn chương Việt Nam, người ta nghĩ ngay đến Hồ Xuân Hương (...). Những nhà phê bình đầu tiên dùng phân tâm học của Freud có lẽ là Nguyễn Văn Hanh và Trương Tửu. Trong cuốn "Hồ Xuân Hương, tác phẩm thân thế và văn tài" (Sài Gòn, 1936), Nguyễn Văn Hanh đã giải thích thơ Hồ Xuân Hương theo Freud như sau: "Dục tình càng ngày càng tăng càng nén lại càng bồng bột. Ngày qua tháng qua sức đã nén, dồn ép tình dục càng tăng vì sự cần kia càng khẩn cấp, kết quả: Xuân Hương khủng hoảng tình dục, khủng hoảng nặng sẽ kết bệnh thần kinh" hoặc: "Freud thấy sự bất mãn về tình dục lâu ngày sẽ kết cấu ra bệnh để thay cho sự vui thích không kết liễu. Xuân Hương không bao giờ thoả thích dục vọng, nàng bị dồn ép luôn luôn. Nàng bị bệnh thần kinh. Dục tình chiếm cả đầu óc, ám ảnh nàng mãi. Nó nhuộm thấm cái tư tưởng của nàng. Bao nhiêu thơ của Xuân Hương đều biểu lộ sự khao khát, sự bất mãn. Dục tình được biến chuyển qua mỹ thuật thơ văn..."

Nguyễn Bách Khoa Trương Tửu trong Kinh Thi Việt Nam cũng áp dụng Freud vào việc phân tách thơ Hồ Xuân Hương và cả cái tục trong văn chương bình dân Việt Nam:

"Cái óc Việt Nam lúc nào cũng có cái hình tục tĩu kia ám ảnh đến nỗi cái hình ấy đã thành cái khuôn, bao nhiêu ngoại vật phải chiếu qua nó, rồi mới vào được trong đầu. Có thể nói người Vìệt Nam trông sự vật tả sự vật bằng cái giống... Không có giả thuyết cho rằng não trạng ấy là một di tích của tôn giáo thờ sự sinh đẻ thì làm sao mà cắt nghiã được nó? Làm sao mà cắt nghĩa được Hồ Xuân Hương, cái thiên tài hiếu dâm đến cực điểm kia? Bất kỳ cảnh gì, vật gì, nàng cũng tả qua cái khung dâm, cái giống. (...)"[71]

Từ đó đến nay, qua các bài báo, sách biên khảo của hầu hết những tác giả trong Nam ngoài Bắc, đều liên hệ Hồ Xuân Hương với Freud và phân tâm học trở thành một lối nhìn duy nhất, đương nhiên để tìm hiểu thơ Hồ Xuân Hương. Hễ nói đến cái tục trong thơ Hồ Xuân Hương là phải nghĩ ngay đến ẩn ức của Freud.

Nhưng thực ra đó là một ngộ nhận lớn về cái tục trong thơ Hồ Xuân Hương và về khái niệm ẩn ức của Freud. (...)

Có thể nêu lên ba nguyên nhân chính đưa đến sư ngộ nhận lớn lao trên, trong phê bình văn học Việt Nam về trường hợp áp dụng Freud vào thơ Hồ Xuân Hương:

1- Chưa hiểu thấu đáo quan niệm ẩn ức của Freud.

2- Chưa hiểu thấu đáo cái tục trong thơ Hồ Xuân Hương, thực ra chỉ là một biểu lộ của hiện tượng tục trong văn chương truyền miệng ngôn ngữ tục (văng tục, chửi tục, câu đối tục, truyện tiếu lâm).

 3- Chưa dựa vào những tài liệu xác thực về thân thế Hồ Xuân Hương (...) Nếu phải coi Hồ Xuân Hương là nhà thơ khuyết danh thì làm sao có thể áp dụng phân tâm học khi không biết rõ người bị phân tâm. Nếu nghiêm khắc có thể coi sự ngộ nhận gắn liền ẩn ức với hiện tượng tục trong thơ Hồ Xuân Hương là một cẩu thả về phương pháp phê bình văn học.

Sự cẩu thả này cũng dựa trên một cẩu thả trước những đòi hỏi nghiên cứu lịch sử về tác giả, tác phẩm."[72]

Sau những lời báo động tâm huyết trên đây của Nguyễn Văn Trung, chúng tôi muốn ghi thêm những lời sau đây của Hoàng Xuân Hãn về vấn đề văn bản học. Trong một buổi nói chuyện trên RFI, chúng tôi hỏi ông về văn bản thơ Hồ Xuân Hương, và ông đã trả lời như sau:

"Bây giờ nói đến cái văn in bằng quốc ngữ từ trước đến bây giờ mà người ta gán cho Hồ Xuân Hương, thì phải nhìn những bài thơ ấy như thế nào? Và những bài thơ ấy lấy đâu ra?

Sang bên Pháp này tôi lục được một tập văn của một người Pháp tên là Antony Landes, ông là người sang Nam kỳ thời Pháp chiếm Nam kỳ, ông học tiếng Việt ở trường thông ngôn thành ra giỏi tiếng Việt lắm, ông có dịch cả Nhị Độ Mai. Vào khoảng năm 1892, ông được bổ làm đốc lý ở Hà Nội. Landes có nhẽ là người Pháp đầu tiên ra Bắc tìm kiếm các tác phẩm của người Việt Nam, rồi thuê hay sai người chép lại. Nhưng những người đó làm để lấy công, lấy tiền, hay lấy tiếng chứ không có trình độ hoặc thực tâm, cho nên tuy góp được khá nhiều văn nhưng không chắc chắn lắm. Những văn mà ông góp lại, chỉ về tuồng không cũng có độ 10 cuốn dày. Tập thơ, nhiều thơ lắm, do con cháu ông Landes cho Sociéte Asiatique trữ lại. Trong đó có hai ba người chép thơ; gọi là thơ Hồ Xuân Hương. Gốc tích đầu tiên về văn học mà sau này bên ta in ra thơ Hồ Xuân Hương, tôi chắc là ở trong ấy! Xét ra thì thấy họ hoàn toàn bịa. Cái anh chép nhiều nhất, thì mỗi bài thơ anh ta bịa ra [một thoại] về những chuyện đã xảy ra, trước khi chép bài thơ. Ví dụ như bài thơ Bù nhìn (bây giờ nhiều người nói là của Lê Thánh Tông) thì trong ấy họ cho là của Hồ Xuân Hương. Anh ấy kể chuyện rằng một hôm Hồ Xuân Hương về già đi bộ giữa đồng, thấy một con bù nhìn, thế rồi làm bài thơ này. Thì mình biết rằng bịa"[73].

Khi Hoàng Xuân Hãn nói những lời này, năm 1993, tình trạng văn bản học của chúng ta còn ở mức độ như thế. Ngày nay, tình trạng ấy như thế nào? Có bao nhiêu người thực sự chú ý đến việc tìm lại văn bản đích thực của Hồ Xuân Hương, nói riêng, hoặc để ý đến vấn đề văn bản, nói chung?

Một điểm quan trọng mà Nguyễn Văn Trung nêu ra, là ta chưa hiểu thấu đáo quan niệm ẩn ức của Freud. Tình trạng này đã có từ thời Nguyễn Văn Hanh, Trương Tửu: các ông chỉ đọc sơ Freud, rồi viết bừa, thậm chí Trương Tửu còn viết bậy nữa, khi ông cho rằng : "Cái óc Việt Nam lúc nào cũng có cái hình tục tĩu kia ám ảnh", hay "Có thể nói người Việt Nam trông sự vật tả sự vật bằng cái giống... không có giả thuyết cho rằng não trạng ấy là một di tích của tôn giáo thờ sự sinh đẻ thì làm sao mà cắt nghiã được nó".

Trương Tửu Nguyễn Bách Khoa dựa vào đâu mà nói như thế? Ngôn ngữ tục về cái giống, lúc nào, nơi nào, cũng có, chỉ cách trình bày là khác, vì con người thường xuyên làm chuyện này. Nếu sống ở Pháp, ngày hôm nay, xem quảng cáo trên tivi, thì ông sẽ thấy, bất cứ việc gì, họ cũng có thể xoay thành đề tài sex để dụ khách hàng được, từ sự quảng cáo cây cà-rem, viên kẹo, đến miếng chocolat. Rồi ông khảo sát bao giờ mà biết rằng "não trạng ấy là một di tích của tôn giáo thờ sự sinh đẻ"? Ai chứng minh được người mình thờ sự sinh đẻ? Bằng chứng nào?

Nhưng đáng buồn nhất là hiện tượng hiểu sai phân tâm học Freud, hiểu sai phê bình phân tâm học của Freud, mặc dù có sự cảnh báo của Nguyễn Văn Trung, vẫn kéo dài đến ngày nay và có vẻ còn được tô đậm hơn, đưa tới những tuyên bố sai lầm về tình hình phê bình của Tây phương, như lời sau đây của Trần Đình Sử:

"Phê bình phân tâm học là một trường phái phê bình rất thịnh hành ở phương Tây ở nửa đầu thế kỷ XX. Sức ảnh hưởng của nó đối với phê bình văn học phương Tây đương thời có thể nói không phương pháp phê bình văn học nào sánh được. Cội nguồn của nó không ngoài phân tâm học của bác sĩ người Áo S. Freud và của nhà tâm lý học phân tích người Thụy Sĩ là K. Jung (...) Hai lý thuyết này thực sự đã trở thành làn sóng mạnh mẽ, cuốn theo cả phong trào phê bình văn học phương Tây, làm xuất hiện nhiều tên tuổi nổi tiếng như Ch. Baudouin, Ch. Mauron, P.Guiraud, G. Bachelard... theo nhận xét của P. Guiraud thì "không một nhà phê bình văn học hay nghiên cứu phong cách học hiện đại nào có tầm cỡ mà không chịu ảnh hưởng của phân tâm học, còn như lý thuyết mẫu cổ của Jung thì đó là chỗ dựa của toàn bộ nền phê bình chủ đề học hiện đại, từ L. Spitzer đến G. Bachelard (...)" Quả đúng như thế. Ngay J.P. Sartre khi nghiên cứu sự hình thành cá tính sáng tạo của G. Flaubert với phương pháp "vận động thường xuyên từ tác phẩm đến con người và từ con người đến tác phẩm", ông đã chú ý đến lịch sử phát triển thần kinh của nhà văn, mà đặc biệt cái vô thức thời thơ ấu"[74].

Không hiểu tại sao chỉ một đoạn văn ngắn như vậy mà lại chứa nhiều cái sai như vậy?

Thực ra, phê bình phân tâm của Freud chưa bao giờ có ảnh hưởng đến độ không phương pháp phê bình văn học nào sánh được, vì có mấy ai biết đến ba bài phê bình của Freud mà chúng tôi vừa giới thiệu ở trên đâu, trừ một số rất ít người nghiên cứu văn học.

Baudouin và Mauron, tuy được coi là hai nhà phê bình phân tâm, cũng không làm việc theo lối Freud, mà họ chỉ ghép một số khái niệm của Freud, hoà với những lập thuyết khác, để hình thành lý thuyết văn học của họ và họ cũng không có ảnh hưởng gì lớn trong phê bình văn học thế kỷ XX.

Spitzer không dính líu gì đến phân tâm học (xem chương 10, Leo Spitzer).

Tuy phê bình phân tâm vật chất của Bachelard và phê bình phân tâm hiện sinh của Sartre, đều có chữ phân tâm, nhưng cũng không dính dáng gì đến Freud cả, chữ phân tâm này chỉ có nghiã là phân tích cặn kẽ. (Xem chương 13 và 14, về Sartre và Bachelard)

Riêng Sartre, sự phủ nhận vô thức của Freud, đã rành rành trong cuốn Hữu thể và Vô Thể, mà chúng tôi vừa trình bầy ở trên.

Qua những điều này, ta có thể rút ra bài học: thà rằng ta không viết gì về Freud, còn hơn là ta viết mà không đọc ông hoặc viết theo những điều "nghe nói" hoặc trích những tác giả không rành rẽ vấn đề. Làm như vậy rất hại cho những bạn đọc trẻ, bởi vì ta hướng họ theo những lầm lạc của ta. Sự lầm lẫn về Freud, từ những năm 40 của thế kỷ trước, tưởng đã đến lúc nên thực sự chấm dứt.


 


 

[1] Freud, Ma vie et la psychanalyse (Đời tôi và Phân tâm học) (1925), bản điện tử: classiques.uqac.ca.

[2] Œdipe, trong thần thoại Hy Lạp, con của Laios (vua Thèbes) và Jocaste. Œdipe giết cha, lấy mẹ mà không hay. Sau biết sự thực, Œdipe tự chọc mù mắt, bị đuổi khỏi Thèbes, lang thang do con gái Antigone dẫn đường và chết ở Colone, gần Athènes. Freud lấy lại ý nghiã mặc cảm Œdipe (con lấy mẹ) trong thần thoại để xây dựng nên mặc cảm Œdipe trong phân tâm học

[3] Khái niệm kỷ niệm-màn ảnh (souvenir-écran), của Freud, sẽ được giải thích rõ hơn, trong đoạn Ký ức tuổi thơ của Goethe, ở dưới. Ở đây, xin tạm hiểu là một kỷ niệm bị cấm kỵ, dồn nén mà người bệnh đã quên, nhưng nó vẫn ngầm sống trong vô thức và hiển hiện ra dưới một hình thức khác không bị cấm; thí dụ: hình ảnh người vú nuôi hiện ra, biểu hiện và che giấu mặc cảm Œdipe (con yêu mẹ) bị dồn nén.

[4] Ernest Jones, người viết tiểu sử Freud.

[5] Didier Anzieu, trong bài Table d'hôte (Bàn khách), là bài tựa cuốn Sur le rêve (Về giấc mơ) 1901, do Cornéus Heim dịch sang tiếng Pháp, Gallimard, Paris, 1988, Folio, 1993, t. 9-11.

[6] Métapsychologie (Siêu tâm lý học), Luân Đôn, 1943, Gallimard, Paris, 1968.

[7] Theo Michel Gribinski trong bài tựa sách Trois Essais sur la théorie sexuelle do Philippe Koeppel dịch sang tiếng Pháp, Gallimard, Paris, 1987, Folio Essais, 1992, t. 9.

[8] Trois essais sur la théorie sexuelle, Folio Essais (1992), t. 76-82.

[9] Trois essais sur la théorie sexuelle, Folio Essais (1992), t. 93-140.

[10] Trois essais sur la théorie sexuelle, Folio Essais (1992), t. 37.

[11] Trois essais sur la théorie sexuelle, note 1, t. 151.

[12] Trois essais sur la théorie sexuelle, nguyên văn bản dịch tiếng Pháp: "Nous avons défini le concept de libido comme une force quantitativement variable permettant de mesurer les processus et les transpositions dans le domaine de l'excitation sexuellet" (t.157-158).

[13]Trois essais sur la théorie sexuelle, t.160.

[14] Métapsychologie (Siêu tâm lý học) 1915, ban dịch do Jean Laplanche và J.B Pontalis điều khiển với J. P. Briand, JP Grossein, Michel Tort, Gallimard (1968), Folio tái bản (1993).

[15] Métapsychologie (Siêu tâm lý học), Folio (1993), t. 9.

[16] Métapsychologie, t. 21.

[17] Métapsychologie, t. 24.

[18] Narcissisme, là sự tự yêu mình, rút từ tên Narcisse, thanh niên rất đẹp trong thần thoại Hy lạp, say mê bóng mình dưới nước, chết vì không nắm được bóng này. Chỗ anh chết, nẩy lên một loại hoa được gọi tên là narcisse.

[19] Métapsychologie, t. 12-25 và 36.

[20] Métapsychologie, t. 45.

[21] Métapsychologie, t. 45-55.

[22] Bản dịch Pháp văn: "La psychanalyse nous a appris que l'essence du processus de refoulement ne consiste pas à supprimer, à anéantir une représentation représentant la pulsion, mais à l'empêcher de devenir consciente. Nous disons alors qu'elle se trouve dans l'état "inconscient" et nous pouvons fournir des preuves solides de ce que, tout étant inconsciente, elle peut produire des effets, dont certains même atteignent finalement la conscience. Tout refoulé demeure nécessairement inconscient, mais nous tenons à poser d'entrée que le refoulé ne recouvre pas tout l'inconscient. L'inconscient a une extension plus large; le refoulé est une partie de l'inconscient.

Comment parvenir à la connaissance de l'inconscient? Naturellement, nous ne le connaissons que comme conscient, une fois qu'il a subi une transposition ou traduction en conscient. Le travail psychanalytique nous permet de faire chaque jour l'expérience de la possibilité d'une telle traduction" (Métapsychologie, t. 65).

[23] Métapsychologie, t. 66-67-70.

[24] Métapsychologie, t. 74, 75, 76.

[25] Métapsychologie, t. 89-93.

[26] Theo Le moi et ça, 1923, do S. Jankélévitch dịch sang tiếng Pháp. Bản điện tử: classiques.uqac.ca

[27] Introduction à la psychanalyse (Phân tâm học nhập môn) do S. Jankélévitch dịch sang tiếng Pháp, Payot 1922, tái bản 1961 và 1998.

[28] Introduction à la Psychanalyse, Phân tâm học nhập môn, Payot, 1998, t. 7.

[29] Introduction à la Psychanalyse, t. 8, t. 9.

[30] Introduction à la Psychanalyse, t. 12.

[31] Introduction à la Psychanalyse, t. 13.

[32]Introduction à la Psychanalyse, t. 25.

[33]Introduction à la Psychanalyse, t. 69.

[34]Introduction à la Psychanalyse, t. 69-71.

[35] Introduction à la Psychanalyse, t. 74.

[36]Introduction à la Psychanalyse t. 75.

[37]Introduction à la Psychanalyse, t. 84-85.

[38] Introduction à la Psychanalyse, t. 87, 89, 90.

[39]Introduction à la Psychanalyse, t. 99.

[40]Introduction à la Psychanalyse, t.100-101.

[41] Introduction à la Psychanalyse, t. 121.

[42]Introduction à la Psychanalyse, t. 125-132.

[43]Introduction à la Psychanalyse, t.138.

[44] Introduction à la Psychanalyse, t. 139.

[45] Introduction à la Psychanalyse, t. 141-142.

[46] Introduction à la Psychanalyse, t. 143.

[47] Introduction à la Psychanalyse, t. 144.

[48] Introduction à la Psychanalyse, t. 151.

[49]Introduction à la Psychanalyse, t. 184-191.

[50]Introduction à la Psychanalyse, t. 192.

[51]Introduction à la Psychanalyse, t. 193.

[52]Introduction à la Psychanalyse, t. 194.

[53]Nguyên văn tiếng Pháp: "Automatisme psychique pur par lequel on se propose d'exprimer, soit verbalement, soit par écrit, soit de toute autre manière, le fonctionnement réel de la pensée. Dictée de la pensée, en l'absence de tout contrôle exercé par la raison, en dehors de toute préoccupation esthétique ou morale" (André Breton, Manifeste du surréalisme, Folio Esais (1985), t. 36.

[54] Qu'est-ce que la littérature (Văn chương là gì?) Gallimard (1948), Folio Essais (1993), t. 138-140, 183-193.

[55] Sartre, L'être et le Néant (Hữu thể và vô thể), Gallimard (1943), Tel Gallimard (1976), chương II, t. 82-90.

[56]L'être et le Néant, t. 83.

[57] L'être et le néant, t. 83, 84, 85.

[58] L'être et le néant, t. 85.

[59]L'être et le néant, t. 84.

[60] L'être et le Néant, t. 88.

[61] La création littéraire et le rêve éveillé do Marie Bonaparte và Mme E. Marty dịch sang tiếng Pháp, Paris Gallimard, 1933. Bản điện tử: classiques.uqac.ca.

[62] Le délire et les rêves dans la Gradiva de W.Jensen (Cơn mê sảng và những giấc mơ trong cuốn Gradiva của Jensen) bản dịch tiếng Pháp của Paule Arbex và Rose-Marie Zertlin, in cùng với truyện Gradiva, Fantaisie pompéienne (Gradiva, tưởng tượng ở Pompéi), bản dịch của Jean Bellemin-Noel, Gallimard (1986), Essais Folio (2015).

[63] Pontalie, bài tựa Người con gái (La jeune fille), in trong Le délire et les rêves dans la Gradiva de W.Jensen, Essais Folio (2015), t. 23.

[64] Le délire et les rêves dans la Gradiva de W.Jensen (Cơn mê sảng và những giấc mơ trong Gradiva của Jensen), Folio Essais (1991) và (2015), t. 190.

[65] Le délire et les rêves dans la Gradiva de W.Jensen, t. 191.

[66] Do Marie Bonaparte và Mme E. Marty dịch sang tiếng Pháp (1933). Bản điện tử: classiques.uqac.ca

[67] Do Marie Bonaparte và Mme Marty dịch sang tiếng Pháp, 1933, bản điện tử: classiques.uqac.ca

[68]Thần Định Mệnh, tiếng Hy Lạp gọi là Moires, tiếng La-Tinh gọi là Parques.

[69] Dịch theo bản điện tử: classiques.uqac.ca

[70] Tác phẩm Vật tổ và Cấm kỵ (Totem et Tabou) (1912) do Jankélévitch dịch sang tiếng Pháp (1951), đã đưa Freud lên địa vị một nhà nhân chủng học. Freud tìm thấy: bộ lạc ăn thịt người xưa nhất còn sống ở Châu Úc đã cấm chuyện loạn luân. Sự cấm kỵ này liên quan đến khái niệm vật tổ. Vật tổ là biểu tượng được thờ phụng trong các bộ lạc nguyên thủy, là nguyên mẫu đầu tiên. Từ thời sơ khai, con người đã bị cấm không được giao hợp với người cùng trong một hệ thống vật tổ. Như vậy, về khái niệm nguyên mẫu, Freud có con đường khác Jung.

 

[71]Câu này Nguyễn Văn Trung trích trong Kinh Thi Việt Nam, nhưng không ghi rõ số trang, và bản nào, chúng tôi tìm lại bản in năm 1950 của nxb Liên Hiệp, thì thấy ở trang 172-173. Còn bản Kinh Thi Việt Nam, in lại trong cuốn Nguyễn Bách Khoa Khoa Học Văn Chương, Nxb Văn Hoá Thông Tin (2003), ở trang 183, đã bỏ câu này: "Cái óc Việt Nam... tả sự vật bằng cái giống"; Nhưng giữ lại câu sau viết về Hồ Xuân Hương: "Không có cái giả thuyết cho rằng cái não trạng ấy..." khiến độc giả không thể hiểu cái não trạng ấy là gì. Cách cắt như vậy, rất có hại cho văn bản và cho những người nghiên cứu.

[72] Nguyễn Văn Trung, Lược khảo văn học, tập 3, Nghiên cứu và phê bình văn học, Nam Sơn (1968) t. 162-165.

[73] Thụy Khuê, Nói chuyện với Hoàng Xuân Hãn và Tạ Trọng Hiệp, Văn Nghệ, California (2002) t. 240.

[74] Trần Đình Sử, Đỗ Lai Thúy và bút pháp của ham muốn, in trong tập sách cùng tên, nxb Tri Thức, Hà Nội, 2009, t. 7-8.

 

 


© 1984-2016 Thụy Khuê