Thụy Khuê

Phê bình văn học thế kỷ XX

 

Chương 5: Ngôn ngữ học

 

 

Văn chương khởi đi từ một chữ. Với một chữ hay nhiều chữ, nhà văn, nhà thơ làm nên một câu. Câu là đơn vị nhỏ nhất trong ngôn ngữ thơ văn.

Nhiều câu làm nên một bài thơ, một truyện ngắn hay một truyện dài, tức là một tác phẩm và xác định ngôn ngữ (còn gọi là văn phong, hay phong cách, hay lối viết) của nhà văn nhà thơ.

Nếu ta coi sự khảo sát văn chương là một khoa học, thì đó là khoa giải phẫu chữ, theo hai chiều: đi từ chữ, đến câu, đến bài thơ; rồi ngược lại, đi từ bài thơ, đến câu, và trở về chữ. Hai hành trình này, nhà phê bình phải lập đi, lập lại, nhiều lần, mới có cơ tìm được giá trị của chữ trước, rồi đến câu, đến bài thơ hay tác phẩm.

Phê bình cũ không để ý đến chữ, bởi vì ngôn ngữ học chưa phát triển, nên đã phải dựa vào những yếu tố khác, như tiểu sử, đạo đức, tâm lý, phân tâm,... để giải thích văn bản và đôi khi đi xa, đi lạc ra ngoài tác phẩm.

Sự phê bình đích thực nào cũng phải có chủ đích là nói lên những điều nằm trong chữ nghĩa của nhà văn, tức là những điều có trong tác phẩm, chứ không phải những ý nghĩ chủ quan, mà nhà phê bình ngoại suy và gán cho tác phẩm.

Trong trường hợp phê bình ở Việt Nam, vì chúng ta hầu như không biết rõ lịch sử văn bản và tiểu sử tác giả, thì phê bình hiện đại là một lối thoát, bởi vì người viết phê bình không cần biết những thông tin về đời tư tác giả, về hoàn cảnh tạo nên tác phẩm, vẫn có thể phê bình tác phẩm qua chữ, đôi khi chính những chữ trong tác phẩm sẽ nói lên hoàn cảnh lịch sử, xã hội và con người.

Vì đối tượng của phê bình là chữ, và muốn hiểu chữlịch sử chữ thì phải biết ít nhiều về ngôn ngữ họcbác ngữ học. Phê bình thế kỷ XX đã đạt những bước tiến quan trọng, nhờ sự phát triển hai môn học này: Trường phái Hình thức Nga xây dựng trên những khám phá của ngôn ngữ học. Trường phái phê bình Đức xây dựng trên những khám phá của bác ngữ học.

Tóm lại, không ai có thể chối cãi sự thực hiển nhiên: phê bình hiện đại thế kỷ XX bắt đầu với ngôn ngữ học. Nếu không có sự khám phá ngôn ngữ học của Ferdinand de Sausure thì phê bình không thể có bộ mặt như ngày nay. Để hiểu tại sao ngôn ngữ học lại là nền tảng cho phê bình hiện đại, chúng ta cần biết qua lịch sử và nội dung của ngôn ngữ học hiện đại.

Vì thế, chương 5 này sẽ chia làm hai phần:

Phần I: Đôi dòng về lịch sử ngôn ngữ học và bác ngữ học.

Phần II: Ngôn ngữ học de Saussure.

 

 

I- Đôi dòng về lịch sử ngôn ngữ học và bác ngữ học

 

Trong cuốn Giáo Trình Ngôn Ngữ Học Đại Cương (Cours de Linguistique Générale)[1] Ferdinand de Saussure, cha đẻ ngôn ngữ học hiện đại, nói về lịch sử ngôn ngữ học như sau:

"Khoa học được hình thành xung quanh những dữ kiện của tiếng nói[2] (la langue) đã trải qua ba giai đoạn liên tiếp trước khi nhận biết đối tượng duy nhất và thực thụ của nó.

Người ta đã bắt đầu làm cái mà người ta gọi là "văn phạm". Sự khảo sát này, do người Hy Lạp mở đầu và người Pháp chủ yếu tiếp nối, đã xây dựng trên luận lý học, thiếu cái nhìn khoa học và vô tư về chính tiếng nói: Văn phạm chỉ nhắm vào việc đưa ra những lề luật để phân biệt những hình thức (viết) đúng và những hình thức (viết) sai, đó là một môn học có tính chất quy phạm, rất xa với sự quan sát thuần tuý, vì vậy quan niệm này tất nhiên là hạn hẹp.

Sau đó có sự xuất hiện của bác ngữ học (philologie). Đã có một trường phái "bác ngữ học" ở Alexandrie[3], nhưng từ này được dùng [lại sau này], trước hết, để chỉ khuynh hướng khoa học do Friedrich August Wolf chủ xướng bắt đầu từ năm 1777[4] và còn hiện diện tới ngày nay.

Tiếng nói không phải là đối tượng duy nhất của bác ngữ học, môn học này, trước hết, muốn quy định, giải thích và phê bình văn bản. Sự khảo sát đầu tiên này dẫn tới sự quan tâm đến lịch sử văn học, phong hoá, thể chế,  v.v... Bác ngữ học có một phương pháp riêng là phê bình, dùng cho mọi địa hạt.

Nếu nó đề cập tới những vấn đề ngôn ngữ học, thì chỉ để so sánh những văn bản của các thời kỳ khác nhau, xác định ngôn ngữ đặc biệt của mỗi tác giả, giải mã và giải thích những chữ khắc được viết bằng một thứ tiếng cổ đại, tối nghiã. Chắc chắn những tìm kiếm này đã chuẩn bị cho ngữ học lịch sử: công việc của Ritschl về Plaute có thể gọi là ngôn ngữ học; nhưng trong phạm vi này, phê bình bác ngữ học đã phạm sai lầm trên điểm này: quá nô lệ với chữ viết (langue écrite) mà bỏ qua tiếng nói (langue vivante), ngoài ra, nó bị thời kỳ Hy Lạp và La Tinh chiếm hết địa bàn hoạt động.

Thời kỳ thứ ba, bắt đầu khi người ta khám phá ra rằng: có thể so sánh những tiếng nói với nhau. Và đó là nguồn gốc của "bác ngữ học so sánh" còn gọi là "văn phạm so sánh".

Năm 1816, trong tác phẩm tựa đề "Hệ thống chia động từ trong tiếng Phạn" (Système de la conjugaison du sanscrit), Franz Bopp khảo sát những mối liên hệ giữa tiếng Phạn với tiếng Nhật Nhĩ Man[5], tiếng Hy Lạp, tiếng La Tinh,  v.v... Bopp không phải là người đầu tiên nhận thấy những sự tương tự này và chấp nhận rằng tất cả mọi thứ tiếng cùng phát xuất ở chung một gia đình; điều đó đã được làm trước ông, chủ yếu là nhà Đông phương học người Anh, W. Jones (1746-1794). Nhưng một vài xác định lẻ tẻ chưa đủ để chứng tỏ rằng, năm 1816, người ta đã hiểu đại cương ý nghiã và sự quan trọng của sự thực này.

Vậy Bopp không phải là người có công khám phá ra tiếng Phạn có họ hàng với một số thổ âm ở Âu Châu và Á Châu, nhưng ông đã hiểu rằng những liên hệ giữa những thứ tiếng có họ hàng với nhau có thể là chất liệu để hình thành một ngành khoa học độc lập. Soi sáng một thứ tiếng bằng một thứ tiếng khác, giải thích hình thức của một thứ tiếng bằng một thứ tiếng khác, đó là những điểm, cho tới bấy giờ, chưa ai làm."[6]

Saussure vừa điểm qua những bước đầu của việc khảo sát ngôn ngữ, xác định mối liên hệ giữa ngôn ngữ họcbác ngữ học và đồng thời cho ta thấy, phê bình không thể bỏ qua, hoặc không biết hai ngành học này: Nếu ngôn ngữ học có đối tượng là tiếng nói, thì bác ngữ học có đối tượng là văn bản, bác ngữ học là nguồn cội việc giải thích, phê bình, khảo sát văn bản.

Tự nguồn, các tiếng nói đã có chung một gia đình. Tiếng Phạn là nguồn gốc của tiếng Hy Lạp và La Tinh. Sự kiện "họ hàng" này dẫn đến khoa bác ngữ học so sánh hay văn phạm so sánh, là nguồn cội các khuynh hướng văn học so sánhphê bình so sánh, sau này.

 

 

Từ Văn phạm Port-Royal đến Bác ngữ học

 

Tiền thân của Ngôn ngữ học (Linguistique) là Văn phạm (Grammaire). Văn phạm do người Hy-Lạp khai trương và người Pháp tiếp nối. Thế kỷ XVII, các tu sĩ dòng Dương thân (Janséniste)[7] ở Port-Royal[8], Pháp, đã soạn hai cuốn sách cơ bản:

1- Cuốn Văn phạm tổng quát và hợp lý (Grammaire générale et raisonnée)[9], tìm cách giải thích kèm theo những kiến giải lịch sử và cho thí dụ về sự thành lập một chữ (un mot) và cách xây dựng ngữ điệu (tournure) của một câu (une phrase).

2- Cuốn Luận lý học hay Nghệ thuật suy tưởng (Logique ou Art de penser)[10] áp dụng luận lý học Descartes vào việc phân tích ngôn ngữ.

Hai cuốn sách nền tảng này thường được gọi ngắn gọn là Văn phạm Port-Royal (Grammaire de Port-Royal) và Luận lý Port-Royal (Logique de Port-Royal).

Về khoa văn phạm Port-Royal này, Saussure, như ở trên, đã nhận xét rằng:

"Văn phạm chỉ nhắm vào việc đưa ra những lề luật để phân biệt những hình thức (viết) đúng và những hình thức (viết) sai, đó là một môn học có tính chất quy phạm, rất xa với sự quan sát thuần tuý, vì vậy quan niệm này tất nhiên là hạn hẹp".

Còn về bác ngữ học, từ thời cổ đại, ở Alexandrie đã có trường phái Bác ngữ học, nhưng mãi đến thế kỷ XVIII, người ta mới lại nói đến ngành Bác ngữ học (Philologie), do Friedrich August Wolf đề ra năm 1777, như một khoa học khảo sát văn bản, lịch sử văn chương, phong tục và chế độ... dựa trên phương pháp phê bình.

Bác ngữ học, theo Saussure, nếu chú ý đến ngữ học, cũng chỉ là để so sánh văn bản trong các thời kỳ khác nhau, xác định ngôn ngữ đặc biệt của mỗi nhà văn và giải nghiã những mô thức trong các văn bản cổ xưa hoặc tối nghiã.

Công trình của Friedrich Wilhelm Ritschi (1806-1876) viết về Plaute[11] có thể coi là nghiên cứu ngữ học và Ritschi cũng là một trong những người đầu tiên nghiên cứu tiếng La-tinh cổ. Nhưng về phương diện này, bác ngữ học cũng chỉ chuyên chú đến văn bản mà bỏ qua tiếng nói; và hầu như chỉ nghiên cứu mảng ngữ tự cổ La Hy.

Saussure trách bác ngữ học thế kỷ XVIII-XIX mới chỉ quan tâm đến chữ viết mà bỏ qua tiếng nói, nhưng, đối với phê bình, đây là một điều may mắn, bởi chữ viết chính là đối tượng của phê bình. Ngoài ra, vì nước Đức là quê hương của bác ngữ học, cho nên chúng ta sẽ thấy, phát xuất từ nước này những ngòi bút sâu sắc và độc đáo như Erich Auerbach (1892-1957) và Leo Spitzer (1887-1960) trong khuynh hướng phê bình bác ngữ học.

 

 

Bác ngữ học so sánh và văn phạm so sánh

 

Giai đoạn ba, theo Saussure, bắt đầu khi người ta thấy có thể so sánh các ngôn ngữ với nhau. Và đó là nguồn gốc của khoa Bác ngữ học so sánh hay Văn phạm so sánh.

Năm 1816, trong tác phẩm tựa đề Phép chia động từ trong tiếng Phạn (Système de la conjugaison du sanscrit), Franz Bopp nghiên cứu mối liên hệ giữa tiếng Phạn với các thứ tiếng Nhật Nhĩ Man, Hy Lạp và La Tinh. Tiếng Phạn là tiếng Ần độ cổ, có nguồn gốc từ tiếng nói của người Aryens (Aryens tiếng Phạn có nghiã là Quý tộc), giòng giống này có nguồn gốc Ần-Âu, từ thế kỷ XVIII, trước Tây lịch, đã chinh phục vùng Iran và miền bắc Ấn Độ (vùng Ấn Hà) hợp chủng với thổ dân, thành dân tộc Ấn Độ. Tiếng nói của họ là tổ tiên của tiếng Phạn (Sanscrit) và tiếng Pali. Khi Hitler đề cao người Đức thuộc dòng giống Aryens, tức là giòng giống này.

Bopp không phải là người đầu tiên khám phá ra tiếng Phạn là tổ tiên của một số thổ ngữ ở châu Âu và châu Á, nhưng ông nhận ra rằng những tương quan giữa các ngôn ngữ có họ hàng với nhau, có thể là chất liệu cho một nền khoa học riêng.

Theo Saussure, việc so sánh tiếng này với tiếng kia, giải nghiã hình thức tiếng nói của dân tộc này bằng hình thức tiếng nói của dân tộc khác, là điều trước Bopp, chưa ai tìm ra.

Bên cạnh Bopp, còn có những nhà ngữ học nổi tiếng, như:

- Jacob Grimn (1785-1863), xây dựng nền móng nghiên cứu tiếng Nhật Nhĩ Man với bộ sách đồ sộ Văn phạm Nhật Nhĩ Man (Deutsche grammatik) in năm 1822. Jacob Grimn được coi là người xây dựng nền móng Bác ngữ học Đức.

- Wilhelm G. Grimn (1786- 1859), em Jacob Grimn, cùng với anh sưu tầm thần thoại Nhật Nhĩ Man in trong cuốn Truyện thần thoại của trẻ em và gia đình (Contes d'enfants et du foyer).

- Franz Bopp (1791-1867), nhà ngữ học Đức, còn là tác giả cuốn Văn phạm so sánh những tiếng Ấn-Âu (Grammaire comparée des langues Indo-Européennes), (1833-1852), tác phẩm này được coi là nguồn gốc của Ngữ học so sánh.

- August Friedrich Pott (1802-1887), nghiên cứu ngữ nguyên học (étymologie) tức là tìm nguồn gốc của chữ.

- Adalbert Kuhn, nghiên cứu ngữ học và thần thoại so sánh.

Ngoài ra còn có những nhà Ấn độ học như Theodor Benfey và Theodor Aufrecht...

Trong trường phái So sánh, có ba người đặc biệt góp phần rất lớn vào vấn đề nghiên cứu so sánh là:

- Max Muller (1823-1900), học trò của Bopp, quảng bá phương pháp so sánh trong những buổi nói chuyện, sau in thành cuốn Những bài học về khoa ngôn ngữ (Leçons sur la science du langage) (1861).

- Georg Curtius (1820-1885), thày dạy Saussure, tác giả cuốn sách cơ bản Những nguyên tắc từ nguyên Hy Lạp (Principes d'étymologie grecque) (1879) là người đã có công làm cho những nhà Bác ngữ học cổ điển chấp nhận Ngữ học so sánh, ông là một trong những người đầu tiên hoà hợp Văn phạm so sánh với Bác ngữ học cổ điển.

- August Schleicher (1821-1862), chuyên về Văn phạm so sánh, là người đầu tiên muốn tái thiết ngôn ngữ Ấn-Âu nguyên thủy, tác giả cuốn Yếu lược văn phạm so sánh những tiếng Ấn-Nhật Nhĩ Man (Abrégé de grammaire comparée des langues Indo-Germaniques) (1861). Schleicher là người đầu tiên hệ thống hoá kết quả của những nghiên cứu chi tiết. Tác phẩm Yếu lược văn phạm so sánh những tiếng Ấn-Nhật Nhĩ Man của ông, hữu ích trong một thời gian dài, phản ánh toàn bộ diện mạo trường phái so sánh và giai đoạn đầu tiên của nền ngữ học Ấn-Âu.

Nhưng trường phái so sánh, vẫn theo sự phê bình của Saussure, tuy có công khai quang một mảnh đất mầu mới, nhưng vẫn chưa thành lập được một nền ngữ học có tính khoa học. Vì bị giới hạn trong biên giới nghiên cứu ngôn ngữ Ấn-Âu, văn phạm so sánh không tự hỏi những đối chiếu ấy có ăn nhập gì với nhau không và những điều họ khám phá ra có nghiã lý gì không? Bởi chúng hoàn toàn chỉ có tính so sánh mà không mang tính lịch sử.

 

 

Sự ra đời của Ngôn ngữ học hiện đại

 

Saussure cho rằng, chỉ từ khoảng 1870, người ta mới bắt đầu đặt câu hỏi: vậy những tính cách thiết yếu của đời sống ngôn ngữ là gì? Và từ đó người ta mới nhận thấy rằng những điểm tương đồng liên kết các ngôn ngữ lại với nhau, chỉ là một trong những cục diện của hiện tượng ngữ học. Rằng sự so sánh chỉ là một phương tiện, một phương pháp để tái thiết những sự kiện đã xẩy ra.

Theo Saussure, ngôn ngữ học đúng nghiã chỉ thực sự phát sinh từ sự nghiên cứu những thứ tiếng có nguồn gốc La-Tinh do Friedrich Christian Diez mở đầu với cuốn Văn phạm những tiếng Rô-man hay tiếng có gốc La Tinh (Grammaire des langues romanes). Tiếng Rô-man là những tiếng có nguồn gốc La Tinh, gồm tiếng Pháp, Ý, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Lỗ Ma Ni (Roumainie), Sardaigne, Occitan[12] và Catalan[13].

Friedrich Christian Diez (1794-1876) viết bộ sách quan trọng này từ năm 1836 đến 1843, ông là người xây dựng nền móng của ngành ngữ học Rô-man. Đây là tác phẩm chủ yếu đã đưa ngữ học trở về với mục tiêu đích thực của nó.

Saussure coi ngữ học Rô-man và ngữ học Nhật Nhĩ Man (nguồn gốc của tiếng Anh, Đức, Hoà Lan...) là hai khu vực sắc bén của ngữ học.

Sở dĩ những nhà nghiên cứu ngữ học La Tinh và ngữ học Nhật Nhĩ Man đạt được kết quả khả quan vì họ có lợi thế hơn những nhà nghiên cứu ngữ học Ấn-Âu, nhờ chỗ họ biết rõ tiếng La Tinh và những tiếng phát xuất từ tiếng La Tinh và các cách nói khác nhau của từng miền. Tóm lại, việc nghiên cứu ngôn ngữ Rô-man (Ý, Pháp, Tây ban Nha, Bồ Đào Nha...) và Nhật Nhĩ Man (Đức, Anh, Hoà Lan, Bắc Âu...) của các trường phái ngữ học thế kỷ XIX, đã đưa đến những thành tựu đáng kể và đắc dụng hơn việc nghiên cứu ngôn ngữ Ấn-Âu của các trường phái so sánh trước đây.

Nói khác đi, theo Saussure, việc nghiên cứu ngôn ngữ Ấn-Âu, mới chỉ có tính cách so sánh để mà so sánh, chứ chưa dẫn đến kết quả cụ thể, như giải thích cấu trúc và tìm tới gốc gác nguồn cội những tiếng Phạn, Nhật Nhĩ Man, Hy Lạp và La Tinh, tức là chưa phân chất, mổ xẻ chữ, chưa tìm nguồn cội lịch sử của chữ.

Cuối thế kỷ XIX, Whitney (1827-1894) nhà ngữ học Mỹ, tác giả cuốn Cuộc sống của ngôn ngữ (La vie du langage) (1875) đã kích động một khuynh hướng mới, đó là trường phái Tân văn phạm (Néogrammairiens) mà những người đầu xướng đều là Đức, như K. Brugmann, H. Osthoff, W. Braune, E. Sievers, H. Paul, thuộc nhóm Nhật Nhĩ Man học, cùng với Leskien là nhà Slave học[14]. Tân văn phạm cho rằng trường phái so sánh chỉ trình bầy những trạng thái ngôn ngữ khác nhau mà không giải thích và tìm nguyên nhân.

Đến đây Saussure xuất hiện như một thiên tài trẻ tuổi:

Năm 1878, ở tuổi 21, đang còn là sinh viên tại đại học Leipzig, Sausure viết cuốn Luận trình về hệ thống nguyên thủy của nguyên âm trong những tiếng Ấn-Âu (Mémoire sur le système primitif des voyelles dans les langues Indo-Européennes) (nxb Leipsick, 1879), tác phẩm sẽ được coi như ngọn đuốc soi đường cho nhóm Tân văn phạm và mở đầu cho khoa ngôn ngữ học hiện đại.

Nhờ những nhà Tân văn phạm, người ta không còn coi tiếng nói như một cơ quan tự phát mà là một sản phẩm của trí tuệ cộng đồng của những nhóm ngôn ngữ[15].

Từ đây tiếng nói sẽ được các nhà ngôn ngữ học đưa lên bàn mổ để khảo sát. Sự giảo nghiệm này sẽ dẫn đến những kết quả không ngờ, có thể áp dụng vào việc nghiên cứu phê bình, và đưa ngôn ngữ học lên địa vị hàng đầu trong thế kỷ XX mà Ferdinand de Saussure là người khai sáng.

 

 

II- Ngôn ngữ học Saussure

 

Ferdinand de Saussure (26/11/1857-22/2/1913), nhà ngữ học Thụy Sĩ, sinh trong một danh gia có truyền thống khoa học ở Genève, với những nhà vạn vật, vật lý và địa lý nổi tiếng từ thế kỷ XVIII. Cha là nhà côn trùng học Henri de Saussure và mẹ là bà Louise de Pourtalès. Đầu thế kỷ XIX, một người duy nhất trong gia đình, Albertine-Andrienne de Saussure, bà cô của Ferdinand, rời khoa học chuyển sang văn chương. Hai thế hệ sau, Ferdinand de Saussure chọn ngữ học.

Từ nhỏ Saussure đã chịu ảnh hưởng ngữ học của ông ngoại và của nhà ngữ học Pictet.

Năm 1870, 13 tuổi, vào học viện Martine, lúc đó, Saussure đã thạo các thứ tiếng: Pháp, Đức, Anh và La Tinh, và được giáo sư Millenet hướng dẫn học tiếng Hy Lạp.

Năm 1872, 15, tuổi, Saussure hoàn thành luận văn Lược khảo về những tiếng nói (Essai sur les langues). Năm 1873, vào trường Gymnase, và năm sau bắt đầu học tiếng Phạn.

Năm 1875, 19 tuổi, tuân theo truyền thống gia đình, Saussure theo học môn Lý Hoá tại đại học khoa học, nhưng vẫn tiếp tục các lớp triết học, lịch sử nghệ thuật, bác ngữ học và ngữ học so sánh tại đại học văn khoa.

Năm 1876, được cha mẹ chấp thuận cho sang Đức học ngôn ngữ tại đại học Leipzig từ năm 1876 đến năm 1880. Berlin và Leipzig là trung tâm của triết học và bác ngữ học lúc bấy giờ. Saussure đi Berlin thường xuyên trong thời gian này.

Sự tiến đạt của Saussure thực lạ thường: Tháng 12/1878, 21 tuổi, ông cho in cuốn Luận trình về hệ thống nguyên thủy của nguyên âm trong những tiếng Ấn-Âu[16] được giới nghiên cứu coi là "cuốn sách về ngữ học lịch sử hay nhất từ trước đến giờ".

Năm 22 tuổi, một nhà thông thái hỏi: anh có bà con gì với nhà ngữ học lừng danh Ferdinand de Saussure không?

Tháng 2/1880, 23 tuổi, Sausure trình luận án tiến sĩ Về việc dùng thuộc cách không hạn chế trong tiếng Phạn (De l'emploi du génitif absolu en sanskrit)[17], nội dung khảo cứu việc dùng chữ "của" trong tiếng Phạn.

Mùa thu 1880, Saussure sang Paris, dự thính giáo sư Michel Bréal từ tháng 2/1881, học tiếng Iran với giáo sư Darmestermer, tiếng Phạn với giáo sư Bergaigne và bác ngữ học La Tinh với giáo sư Louis Harvet tại trường Cao Đẳng Thực Hành (Ecole Pratique des Hautes Etudes), là một định chế giáo dục đại học không có trường sở, dạy ở Sorbonne. Trong những giờ học, Saussure thường được các thầy mời lên giảng thay.

Ngày 30/10/1881, giáo sư Bréal nhường chỗ cho học trò: ở tuổi 24, Saussure được chọn làm giảng viên, dạy tiếng Gô-tích (tiếng Nhật Nhĩ Man miền Đông, của người Wisigoths) và tiếng Nhật Nhĩ Man miền bắc (tiếng Bắc Âu).

Saussure dạy học ở Pháp trong chín năm. Số học trò tổng cộng là 112 người, con số khá lớn, vì đây là lần đầu tiên ngữ học lịch sử và ngữ học so sánh được giảng dạy ở Paris.

Ngoài việc dạy ở Sorbonne, Saussure còn quán xuyến Hội Ngôn Ngữ Học (La Société de Linguistique)[18].

Antoine Meillet, học trò của ông, đã dạy thay thầy niên khoá 1889-1890, khi ông bị bệnh phải nghỉ, viết về ông như sau:

"F. de Saussure, đúng là một vị thầy thực thụ: muốn làm thầy, không phải chỉ đứng ra đọc trước cử tọa một bài giảng đúng đắn và thức thời là đủ, mà còn phải có một học thuyết và một phương pháp và phải trình bày khoa này với giọng riêng. Những điều sinh viên học được ở ông có giá trị phổ quát, rèn luyện tinh thần, giúp họ chuẩn bị để làm việc. Những công thức và những định nghiã ông đưa ra, trụ lại trong trí nhớ như những mẫu mực hướng đạo. Ông làm cho sinh viên yêu mến và cảm nhận được khoa ông giảng dạy. Với đầu óc thi nhân, ông đem vào bài giảng những hình ảnh không thể nào quên được."[19]

Năm 1891, Saussure trở về Thụy Sĩ, nhận chức giáo sư với giảng đàn, dạy tiếng Phạn và tiếng Ấn-Âu tại đại học Genève.

Trong 21 năm (1891-1913) mỗi năm ông dạy một khoá đầy đủ về tiếng Phạn, ngoài các môn khác như ngôn ngữ học đại cương, tiếng Gô-tích, tiếng Lituanie và một số tiếng khác.

Ba năm sau khi trở về Genève, Saussure tham dự lần chót hội nghị Đông phương học 1894, với bài thuyết trình về nhóm ngôn ngữ Ấn-Âu: tiếng Lettonie và tiếng Lituanie, rồi từ đó hầu như không xuất hiện nữa, ông thu mình trong nghiên cứu, thỉnh thoảng ngỏ lời với vài bạn thân, nhưng giữ im lặng hoàn toàn với công chúng khoa học thế giới cho tới khi mất[20].

Ngoài tác phẩm đầu tiên in năm 1879, và bản luận án tiến sĩ, ông còn để lại một số bài viết in trong Sưu tập những công bố khoa học (Recueil des publications scientifiques).

Năm 1906, giáo sư Joseph Wertheimer về hưu (Wertheimer là người đã dạy Saussure thời trẻ và ông không thích), ngày 8/12/1906, Saussure lên thay thế, chủ trì đại học văn khoa và khoa học xã hội; ông cải tổ chương trình, thêm giờ và thêm môn về ngữ học. Từ nay, ông có đủ thẩm quyền và phương tiện để phát triển những ý kiến riêng của mình trên giảng đàn, và ông đã có loạt bài giảng quan trọng trong ba niên khoá (1906-1907), (1908-1909) và (1910-1911).

Học trò thấy những khám phá độc đáo này của thầy không thể để cho mai một, mà phải được quảng bá rộng rãi đến mọi người; nên sau khi ông mất, Charles Bally và Albert Séchehaye đã thu thập ba loạt bài giảng này, với sự cộng tác của Albert Riedlinger, in thành tác phẩm Giáo trình ngôn ngữ học đại cương (Cours de linguistique générale), xuất bản lần đầu năm 1916.

Giáo trình ngôn ngữ học đại cương là cuốn sách cơ bản đầu tiên về ngữ học, với tác phẩm này, Saussure trở thành cha đẻ của nền ngữ học hiện đại. Tuy nhiên, cũng như trường hợp Aristote với cuốn Thi học (Poétique), sách này, Saussure không viết ra mà do học trò ghi lại.

Bally và Séchehaye kể những khó khăn của họ trong bài tựa ấn bản đầu tiên: Khi họ được bà Saussure giao cho hồ sơ những ghi chép của ông, và được các sinh viên cho mượn tập vở của họ, Charles Bally và Albert Séchehaye, là học trò cũ, không trực tiếp được nghe những bài giảng này vì họ đã đi làm, hết sức hy vọng có thể tổng hợp để dàn dựng lại giáo trình dễ dàng. Nhưng họ đã vô cùng thất vọng vì Saussure đã hủy dần những bản nháp phác thảo viết vội những điều ông giảng. Trong ngăn kéo bàn viết của ông, chỉ còn lại vài phác họa những bài viết cũ, tuy có giá trị nhưng không thể làm gì được. Vì vậy, họ đã phải hoàn toàn dựa trên những cours do sinh viên ghi, nhờ những tập vở này, họ đã làm việc cật lực bằng phương pháp so sánh: dùng giáo trình thứ ba (1910-1911) làm mẫu. Mỗi bài học, mỗi chi tiết trong một bài, đều phải so sánh tất cả các văn bản của sinh viên với nhau, để rút ra ý chính của thầy. Và sau đó làm công việc tổng hợp và chuyển từ lời nói sang văn viết[21].

 

 

Tác phẩm Giáo trình ngôn ngữ học đại cương

 

Giáo trình ngôn ngữ học đại cương (Cours de linguistique générale) có năm phần chính:

1- Nhập đề: định nghiã một số khái niệm chính, với phụ bản về âm vị học (phonologie).

2- Những nguyên tắc đại cương: nêu ra và định nghiã những yếu tố chính của tiếng nói: ký hiệu (signe), chữ (signifiant) và nghiã (signifié).

3- Ngữ học đồng đại (Linguistique synchronique) hay Ngữ tĩnh học (Linguistique statique), hay Ngữ học mô tả (Linguistique descriptive): khảo sát tiếng nói trong một giai đoạn ổn định. Khoảng thời gian này không nhất thiết là ngắn hay dài: Có khi chỉ trong vài năm, ngôn ngữ đã có những thay đổi đáng kể, có khi cả hàng chục có khi hàng trăm năm, ngôn ngữ vẫn không mấy thay đổi. Phần này nghiên cứu đến nguồn cội các ý nghiã của ngôn ngữ.

4- Ngữ học lịch đại (Linguistique diachronique) còn gọi là Ngữ động học (Linguistique évolutive), hay Ngữ học so sánh (Linguistique comparative): khảo sát sự biến đổi của ngôn ngữ qua các thời đại. Phần này có ảnh hưởng trong văn học so sánh và phê bình so sánh.

5- Ngữ học điạ lý (Linguistique géographique): khảo sác các vùng tiếng nói khác nhau.

 

Nội dung sự khảo sát cũng chia làm hai phần:

1- Ngữ học chức năng (Linguistique fonctionnelle), tìm hiểu tác dụng của tiếng nói.

2- Ngữ học cấu trúc (Linguistique structurale), tìm hiểu cấu trúc của tiếng nói.

Chúng tôi không có tham vọng trình bày toàn bộ học thuyết của Saussure, mà chỉ giới thiệu những lý thuyết chính có ích cho phê bình văn học, đặc biệt quan điểm ngữ học lưỡng phân, đã trở thành ngọn đuốc soi đường cho ngữ học và phê bình văn học trong thế kỷ XX.

 

Gọi là ngữ học lưỡng phân vì phương pháp Saussure chủ yếu đặt trên sự chia đôi và đối đầu giữa hai yếu tố để phân tích và so sánh. Những cặp phạm trù đối đẳng chính là:

Tiếng nói/lời nói; chữ/nghiã; đồng đại/lịch đại; kết hợp/lựa chọn; hình thức/bản chất...

Chia đôi để đối chiếu và đào sâu hơn các khái niệm, làm bật ra những ánh sáng mới.

Về mặt ngôn từ, Saussure phân biệt rõ ba yếu tố:

Languetiếng nói (như tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Việt...).

Langagengôn ngữ, bao gồm nhiều cách diễn đạt khác nhau (như ngôn ngữ loài chim, ngôn ngữ điện tử, ngôn ngữ con người, ngôn ngữ nhà văn...)

Parolelời nói (như lời anh Năm, chị Bảy).

Tiếng Pháp và tiếng Việt phân biệt khá rõ ba yếu tố này.

Nhưng theo Saussure, các tiếng khác đôi khi không phân biệt rõ như vậy: Tiếng Đức chữ sprache có nghĩa là tiếng (langue) và ngôn ngữ (langage), chữ rede có nghiã là lời nói (parole) nhưng còn thêm nghiã diễn văn, phát biểu (discours). Tiếng La Tinh, sermo có nghiã là ngôn ngữ (langage) và lời nói (parole), còn lingua để chỉ tiếng nói... Và ông giải thích: Sở dĩ có sự lộn xộn này, vì người ta dùng một chữ (un mot) để chỉ một điều, một vật, một sự kiện (une chose), đôi khi chữ ấy không phủ hết được cái điều, cái vật, cái dữ kiện mà nó chỉ định[22], cho nên khi chuyển một chữ từ tiếng nước này sang tiếng nước kia, có thể gặp khó khăn[23].

Nhiều chỗ dịch languengôn ngữ dịch như vậy cũng không hoàn toàn sai, nhưng có thể gây hiểu lầm, bởi theo Saussure, ba yếu tố: tiếng nói, ngôn ngữ, lời nói, hoàn toàn khác nhau, và ông đã xác định địa hạt của ngôn ngữ học là tiếng nói, chứ không phải ngôn ngữ chung chung và cũng không phải là lời nói, thuộc điạ hạt cá nhân, hay chữ viết, thuộc điạ hạt văn chương. Tuy nhiên, Saussure cũng không loại lời nóichữ viết ra khỏi lãnh vực ngôn ngữ học, như ta sẽ thấy ở dưới.

 

 

Định nghiã Ngôn ngữ học

 

Saussure định nghiã ngôn ngữ học như sau:

"Chất liệu (la matière) của ngôn ngữ học, trước tiên, là tất cả những cách biểu hiện của ngôn ngữ loài người, từ các dân tộc bán khai đến các nước văn minh, từ thời cổ đại, cổ điển, đến lúc suy tàn, và còn phải kể đến, trong mỗi thời kỳ, không chỉ "ngôn ngữ đúng", "ngôn ngữ đẹp" mà tất cả các cách phát biểu. Chưa hết, ngôn ngữ thường luôn luôn thoát khỏi mọi khảo sát, vậy nhà ngôn ngữ học còn phải để ý đến những văn bản viết, bởi vì chỉ có chúng mới cho biết những thổ âm, thổ ngữ (idiome)[24] đã dùng trong quá khứ hoặc trong những vùng xa xôi.

Ngôn ngữ học sẽ có ba nhiệm vụ:

a- Mô tả và vẽ lại (tiến trình) lịch sử[25] của tất cả những tiếng nói có thể biết được, điều này cũng có nghiã là mô tả lịch sử những tộc ngữ (familles de langues)[26] và nếu có thể, tái thiết những tiếng mẹ (tiếng gốc) của mỗi tộc ngữ.

b- Tìm ra sức mạnh thường trực và phổ quát ở mỗi thứ tiếng, và đưa ra những quy luật chung mà những hiện tượng riêng của lịch sử có thể quy về.

c- Giới hạn và xác định công việc nghiên cứu của mình.[27]

Ngôn ngữ học, vì vậy, không những chỉ có ích cho sử học, bác ngữ học, và tất cả những ai phải tiếp cận với vấn đề ngôn ngữ. Hiển nhiên, nó cũng không chỉ là đối tượng của một số người, bởi nó có khả năng đóng góp vào kiến thức tổng quát của mọi người, vì ngôn ngữ là yếu tố quan trọng nhất trong đời sống.

 

 

Định nghiã Ký hiệu học

 

Saussure, tiên đoán và định danh Ký hiệu học (Sémiologie) như sau:

"Ta có thể quan niệm một nền khoa học khảo sát đời sống của những ký hiệu (signes) trong lòng đời sống xã hội; nó là một phần của tâm lý học xã hội, vậy nó ở trong địa hạt tâm lý học tổng quát, ta gọi nó là ký hiệu học (tiếng Hy Lạp là Sẽmeion "Signe"). Môn học này dạy cho ta biết những ký hiệu vốn là gì? Bị những lề luật nào chi phối? Vì chưa có môn hoc này, nên ta không thể nói nó sẽ như thế nào, nhưng nó có quyền hiện hữu, chỗ của nó đã được xác định trước. Ngữ học chỉ là một phần của khoa học tổng quát này, những định luật mà ký hiệu học tìm ra, sẽ áp dụng được cho ngữ học, và như thế, ngữ học sẽ gắn bó với một phạm vi được quy định rõ trong toàn bộ những sự kiện con người.

Nhà tâm lý sẽ qui định địa vị chính xác của ký hiệu học. Nhiệm vụ của nhà ngữ học là xác định cái gì làm cho tiếng nói trở thành một hệ thống đặc biệt trong toàn bộ những sự kiện ký hiệu học (...) Nếu đây là lần đầu tiên ta có thể chỉ định cho ngôn ngữ học một chỗ đứng trong những ngành khoa học là bởi vì ta đã liên kết nó với ký hiệu học"[28].

Khi Saussure giảng cho học trò những lời trên đây, môn ký hiệu học chưa có. Hjelmslev sẽ tiếp nối, xây dựng những viên gạch đầu tiên cho ký hiệu học, và ngành này sẽ phát triển mạnh mẽ đặc biệt trong lãnh vực phê bình văn học hơn nửa thế kỷ sau, qua những tên tuổi như Umberto Eco, Roland Barthes.

Như vậy, Saussure, từ đầu thế kỷ XX đã đề xướng một nền ký hiệu học tương lai, khoa này bao trùm lên tất cả những thể loại ký hiệu của đời sống, trong đó tiếng nói là một loại ký hiệu.

 

 

Đối tượng của Ngôn ngữ học

 

Đối tượng cụ thể và toàn diện của ngôn ngữ học là gì? Theo Saussure, rất khó trả lời.

Khi ta nghe thấy một âm (un son) như tiếng nữ[29], thì có một số vấn đề khác nhau hiện ra, tùy theo ta xét âm này theo kiểu nào: về mặt âm thanh, về mặt ý nghiã, hay về nguồn gốc chữ Hán... Với độ nhìn nào, thì âm nữ cũng có hai khiá cạnh:

- Nếu chỉ có âm nữ không mà chưa có bộ máy phát âm, thì nó không thành tiếng.

- Nếu chỉ có bộ máy phát âm thôi, mà không có âm nữ, thì cũng không có tiếng.

Vậy không thể tách rời âm với bộ máy phát âm trong miệng. Cả hai hợp lại mới thành được một tiếng.

Bây giờ, giả sử có tiếng nữ rồi. Vậy tiếng nữ này đã là ngôn ngữ chưa?

Chưa, vì nó chỉ là dụng cụ của tư tưởng, nó không thể đứng vững một mình như một thực thể độc lập.

Nói tóm lại, âm (là một hỗn hợp phức tạp giữa bộ máy nghe và nói) lại phải kết hợp với ý tưởng (là một hỗn hợp phức tạp khác giữa bộ máy sinh lý và tâm thần) mới thành một tiếng. Nhưng tiếng nữ này, lại còn phải kết hợp với một hệ thống nữa là tiếng nói của một vùng đã được quy định với những quy phạm riêng (ở đây là tiếng Việt), thì lúc đó nó mới thực thụ trở thành ngôn ngữ của loài người.

 

Vậy tiếng nói là gì? Tiếng nói là một thành phần của ngôn ngữ loài người, nhưng ta không thể đồng hoá tiếng nói với ngôn ngữ, dù nó là thành phần xác định và chính yếu của ngôn ngữ.

"Tiếng nói vừa là một sản phẩm xã hội của khả năng ngôn ngữ, vừa là toàn bộ quy ước cần thiết, được toàn thể xã hội chập nhận, cho phép những cá nhân thực hành khả năng này".

"Tiếng nói, tự nó đã là một toàn thể, và có nguyên tắc phân loại". Khi ta cho nó chỗ đứng hàng đầu trong những hoạt động ngôn ngữ, là ta đã công nhận nó là một toàn bộ hoàn chỉnh, không chịu sự phân loại nào khác nữa.

Còn ngôn ngữ là gì?

"Ngôn ngữ, nhìn toàn bộ, có nhiều hình thức, rời rạc và dị biệt nhau, chênh vênh giữa nhiều điạ hạt: vật lý, sinh lý, tâm thần. Ngôn ngữ thuộc địa hạt cá nhân và xã hội, không thể xếp vào bất cứ thể loại nào trong những sinh hoạt của con người, bởi vì người ta không biết làm thế nào để phân biệt tính thuần nhất (son unité) của nó".

Và Saussure xác định: đối tượng của ngôn ngữ học là tiếng nói.[30]

 

 

Phân tích hành trình của lời nói

 

Sau khi đã giới hạn phạm vi của ngôn ngữ học là tiếng nói rồi. Saussure phân tích hành trình của lời nói, tức là tiếng nói của một cá nhân gửi đến một cá nhân khác. Ông thiết lập lại vòng vận chuyển của lời nói, để tìm hiểu xem trong sự vận chuyển này, những yếu tố nào có phận sự gì trong việc cấu thành một lời nói.

Ví dụ: Hai người A và B nói chuyện với nhau.

Điểm khởi hành câu chuyện đi từ trong óc của một người, ví dụ A.

1- Tiếng nói khởi hành từ A: A là kẻ đã tích lũy trong đầu một số dữ kiện của ý thức, còn gọi là những ý niệm (concept), nghiã là: A có một hay nhiều ý muốn nói ra.

A phải liên kết những ý niệm này với những hình ảnh có âm hưởng (images acoustiques) tương ứng, để phát biểu. Tức là: A phải tìm tiếng, hay lời để nói nó ra.

Sở dĩ gọi là hình ảnh có âm hưởng, bởi vì, ta chỉ cần "nghe" trong đầu âm thanh mẹ, mà không cần nói ra tiếng, là ta đã hình dung ra hình ảnh mẹ trong đầu rồi. Cái hình ảnh mẹ trong đầu ta chính là hình ảnh có âm hưởng.

Đó là khâu thứ nhất, tức là khâu liên kết ý với lời ở trong óc, khâu này hoàn toàn thuộc địa hạt tâm thần (psychique) tức tâm trí và thần kinh.

2- Tiếp đến khâu thứ nhì: óc A truyền cho cơ quan phát âm lệnh "nói" cái hình ảnh có âm hưởng (tức là tiếng hay lời) ấy ra: khâu này thuộc điạ hạt sinh lý.

3- Khâu thứ ba: những làn sóng truyền âm thanh từ miệng A đến tai B: là hiện tượng hoàn toàn vật lý.

Tại B, tiến trình ngược lại: hình ảnh có âm hưởng (tiếng, lời) mà tai B vừa nhận, sẽ được chuyển lên óc, là một tiến trình sinh lý.

- Óc B phải nối kết cái hình ảnh có âm hưởng (âm, lời) vừa nhận được ấy, với cái ý niệm tương ứng. Tức là, óc B phải giải mã cái tiếng, lời vừa nhận được từ A thành ý, đó là một hiện tượng tâm thần.

- Nếu B trả lời A, thì mạch nói lại truyền đi theo con đường cũ, hướng ngược lại.

 

Sự khảo sát vận trình này, cho ta thấy rõ cơ quan nào trách nhiệm việc gì trong sự sản xuất một lời nói. Kết quả cho phép rút ra ba yếu tố chính:

1- Phần tâm thần (trách nhiệm ý niệmhình ảnh, tức là ý lời).

2- Phần vật lý (trách nhiệm việc phát sóng: truyền âm thanh từ người nói đến người nghe).

3- Phần sinh lý (trách nhiệm việc phát âm và việc nghe).

Nói một cách cụ thể hơn:

Nếu muốn tìm một tiếng để chỉ cái cây, thì trước tiên ta phải có ý niệm về cây trong đầu, rồi mới phối hợp ý niệm cây với cái hình ảnh có âm hưởng (tức là âm thanh của tiếng cây trong tiếng Việt, âm thanh của arbre trong tiếng Pháp) rồi truyền cái âm cây hay arbre ấy đến tai người nghe.[31]

Vậy tiếng nói là sản phẩm hỗn hợp của ba thành phần: tâm thần, sinh lývật lý.

 

 

Phân biệt ký hiệu, chữ nghiã

 

Từ sự phân tích hành trình của lời nói trên đây, Saussure mới định danh ba thành phần chính của tiếng nói, là ký hiệu (signe), chữ (signifiant) và nghiã (signifié).

Như trên đã nói: A có một số ý niệm (concept) trong đầu muốn diễn tả, A phải liên kết những ý niệm này với những hình ảnh có âm hưởng (images acoustiques) tương ứng để làm thành một lời phát biểu. Giai đoạn liên kết này có những điểm đáng chú ý sau đây:

1- Ký hiệu ngôn ngữ phối hợp, không phải một sự vật với một tên gọi của nó, mà một ý niệm với một hình ảnh có âm hưởng.

Ý niệm, hoàn toàn trừu tượng vì nó ở trong đầu, (như ý niệm cây), nhưng hình ảnh có âm hưởng (âm cây) không phải là vật chất, mà có dấu ấn tâm thần. Ta nhận ra dấu ấn tâm thần này, khi phát âm, ví dụ: Trời ơi! Thì cái âm trời ơi, này, tự nó đã có ý thống thiết, tức là nó đã có một "linh hồn" riêng, nó không phải là hiện tượng thuần vật lý. Hoặc ta không cần mở miệng, vẫn có thể "đọc" thơ Nguyễn Du trong đầu. Vậy cái âm trời ơi! hay câu Kiều đọc thầm, không chỉ là những "xác âm", nó không thuần túy vật chất mà nó có tâm thần của ta trong đó.

Trong đời sống hàng ngày, ta không để ý hoặc không biết rằng, tự nguồn, ký hiệu ngôn ngữ là sự phối hợp một ý niệm với một hình ảnh có âm hưởng, mà ta chỉ biết tiếng cây hay chữ cây, và coi đó là ký hiệu ngôn ngữ mà thôi[32].

2- Hình ảnh có âm hưởng (image acoustique), tức là âm cây, sẽ được Saussure gọi là signifiant (cái biểu thị) nghiã là âm cây biểu thị cho thực thể cây trước mắt ta.

3- Còn ý niệm cây Saussure gọi là signifié (cái được biểu thị) tức là thực thể cây trước mắt ta.

Sở dĩ Saussure dùng hai chữ signifiantsignifié, là ông muốn cho dễ hiểu, vì hai chữ này trong tiếng Pháp rất dễ hiểu, nhưng khi dịch sang tiếng Việt, thành cái biểu thịcái được biểu thị thì trở nên lủng củng và khó hiểu.

Là kẻ ngoại đạo đối với ngữ học, chúng tôi xin dịch một cách nôm na: signifiantchữ hay tiếng (trong lời nói thì signifiantâm, hay tiếng, trong chữ viết, signifiantchữ) và xin dịch signifiénghiã. Hai từ chữnghiã này, tiếng Việt đã có sẵn, dễ hiểu với tất cả mọi người, còn nếu trực dịch là cái biểu thịcái được biểu thị thì chẳng ai hiểu gì cả. 

Vậy, với âm "cây", thì: cái câycái được biểu thị, tức là nghiã (signifié); và hình ảnh có âm hưởng hay cái biểu thị, chữ (signifiant) cây trong văn viết và là tiếng cây, trong lời nói.

 

Tóm lại, ký hiệu ngôn ngữ không nối kết một sự vật với tên gọi của nó mà nối kết một ý niệm với một hình ảnh có âm hưởng. Hình ảnh có âm hưởng này (hay tiếng) không chỉ là một âm thanh cụ thể, thuộc phạm vi vật chất, mà nó còn mang dấu ấn tâm thần, gánh cả cảm thức của con người. Bởi vậy, không cần mở môi, động lưỡi, phát âm, ta cũng vẫn "nói chuyện" được với chính mình, ta vẫn hát thầm một bài hát... Vì mỗi tiếng là một hình ảnh có âm hưởng[33].

Sư phân biệt ký hiệu, chữnghiã này, là một trong những khám phá cơ bản của Saussure, sẽ được áp dụng trong tất cả mọi nghành khoa học liên quan đến tiếng nói và văn viết.

 

 

Phân biệt tiếng nói với lời nói chữ viết

 

Nói là một hành động để giao tiếp, Saussure phân biệt:

Lời nói (la parole) là một hành động cá nhân, diễn tả tư tưởng ý chí và trí thông minh của người nói trong quy ước ngôn ngữ mà đương sự lựa chọn.

Tiếng nói (la langue) là một hành động cộng đồng. Tiếng nói là một hệ thống ký hiệu để diễn tả tư tưởng, nó có thể so sánh với chữ viết (một hệ thống ký hiệu khác), hoặc với hệ thống chữ Braille của người mù, hoặc với các loại dấu hiệu khác như nốt nhạc, tốc-ký,  v.v... nhưng tiếng nói quan trọng hơn cả.

Nhiệm vụ của nhà ngữ học là phải xác định xem cái gì đã khiến cho tiếng nói trở thành một hệ thống đặc biệt trong toàn bộ các hệ thống dấu hiệu khác nhau của đời sống con người. Tiếng nói hiện diện trong cộng đồng như một tổng thể các dấu vết của mỗi khối óc cá nhân góp lại, dự trữ như một bộ từ điển được in ra nhiều bản cho mỗi cá nhân một cuốn để dùng.

Chữ viết (l'écriture) dùng để ghi tiếng nói.

Nhưng tiếng nói (la langue) và chữ viết (l'écriture) là hai hệ thống ký hiệu khác nhau.

Có hai loại chữ viết:

- Hệ thống biểu hình (Système idéographique), dùng một thứ ký hiệu (có thể là hình vẽ) để biểu dương sự vật (như chữ Hán, chữ Nôm, chữ Nhật,  v.v...).

- Hệ thống biểu âm (Système phonétique), dùng ký hiệu để ghi lại cái âm phát ra từ một tiếng (như chữ Pháp, chữ Quốc ngữ, chữ Ý,  v.v...)[34].

 

 

Ý nghiã của ngôn ngữ hay Tiếng nói là sự kết hợp âmý

 

Theo Saussure, để thấy rằng tiếng nói chỉ là một hệ thống ý nghiã thuần tuý (un système de valeurs pures)[35] ta chỉ cần xét hai yếu tố chủ động trong sự vận hành của tiếng nói là: ý tưởngâm thanh.

Tư tưởng hoặc ý tưởng của chúng ta, thực ra chỉ là một khối rối rắm, vô định hình, phải dùng tiếng nói để diễn tả. Các triết gia và các nhà ngữ học đều đồng ý với nhau rằng, nếu không có ký hiệu ngôn ngữ thì chúng ta không có khả năng phân biệt rõ hai ý tưởng với nhau. Tư tưởng, tự thân, là một đám mây mù không biên giới. Không hề có thứ ý tưởng tiền chế, và cũng không có gì phân biệt giữa các ý tưởng với nhau, nếu không có tiếng nói.

Đối diện với thực thể tư tưởng rối rắm và vô định hình này, thì thực thể âm thanh, có khá hơn không? Cũng không nốt. Bởi vì âm thanh cũng vô định hình (không cố định và không cứng rắn), nó có một bản chất dễ uốn nắn và có khả năng tự phân, để cung cấp những tiếng (hay chữ) khác nhau mà ý tưởng cần[36].

Ký hiệu ngôn ngữ là sự kết hợp âm thanh với ý tưởng, trong một chuyển động có tính cách vật lý, sinh lý và tâm thần.

Vậy, tư tưởng là một mớ hỗn độn, khi muốn nói ra, nó bắt buộc phải rõ ràng, chính xác, bằng cách tự biến đổi, tự cắt mình thành những ý tưởng-âm thanh (tức là tiếng), và mỗi ý tưởng-âm thanh này phải là: một ý ngụ trong một âm, hay một âm trở thành ký hiệu của một ý, theo Saussure:

"Tư tưởng, hỗn độn tự bản chất, bắt buộc phải làm cho minh bạch bằng cách tự phân. Ở đây không có sự vật chất hoá tư tưởng, cũng không có sự tư tưởng hoá âm thanh, mà là một hiện tượng có thể coi là bí mật: khối "tư tưởng-âm thanh" tự phân và tiếng nói tự hình thành giữa hai khối vô định hình [tư tưởng và âm thanh]. Ta có thể so sánh hiện tượng này với sư tiếp xúc của không khí với mặt nước: nếu áp lực không khí thay đổi, mặt nước tự phân thành những tầng khác nhau, tức là sóng. Chính những làn sóng này cho chúng ta một ý niệm về sự phối hợp, hay giao hợp giữa tư tưởng và âm thanh"[37].

Câu quan trọng này cho thấy Saussure đã mổ xẻ tới nguồn cội của tiếng nói, để chứng minh rằng tiếng nói là kết quả của cuộc "giao hợp" giữa hai thực thể vô định hình là tư tưởngâm thanh, vì thế, tiếng nói không thể là một cái gì cụ thể như thể chất/bản chất (substance) mà chỉ là một hình thức (forme), một quy ước.

"Tiếng nói còn có thể ví như một tờ giấy mà mặt trái là âm thanh và mặt phải là ý tưởng, ta không thể cắt mặt phải mà không đụng đến mặt trái, cũng như trong tiếng nói ta không thể tách riêng âm thanh với tư tưởng, và tư tưởng với âm thanh".

"Ngôn ngữ học hoạt động trên một vùng đất giáp giới mà những yếu tố của hai tổ chức giao nhau. Sự giao thoa này sinh ra một hình thức, chứ không phải một thể chất/bản chất (cettte combinaison produit une forme, non une substance)".

"Không những hai địa hạt [âm và ý] liên kết nhau qua sự kiện ngôn ngữ đều hỗn độn và vô định hình mà sự chọn lựa cái âm nào để đi với cái ý nào cũng hoàn toàn bất kỳ".

"Tính bất kỳ của ký hiệu làm cho chúng ta hiểu rõ hơn tại sao thực thể xã hội có thể một mình tạo ra hệ thống ngôn ngữ: bởi vì tập thể cần thiết cho việc thành lập những ý nghiã nằm trong tập quán và sự thoả thuận của mọi người; cá nhân một mình không thể quy định được gì cả"[38].

Ngữ học nghiên cứu vùng đất mà hai thực thể âmý hòa trộn với nhau để tạo ra một sản phẩm là tiếng nói.

Kết luận: trong tiếng nói không thể tách rời âm thanh ý tưởng. Âmý là những thành tố cơ bản của tiếng nói, theo sự quy định của xã hội, và có sự gắn bó hữu cơ giữa tâm thần và thể xác con người.

Vì vậy, Saussure nhắc lại một lần nũa: Tiếng nói là một hình thức chứ không phải là một thể chất/bản chất (la langue est une forme, et non une substance)[39]

Trong ngữ học Saussure, có hai chữ quan trọng là matièresubstance, bình thường hai chữ này thường bị coi là giống nhau và dịch là chất liệu (Cao Xuân Hạo dịch substance là chất liệu). Nhưng thực ra, chúng không hoàn toàn giống nhau: matière có nghiã là thực thể cấu thành những vật thể (réalité constitutive des corps), tức là chất liệu. Còn substance, ngoài nghiã giống matièrechất liệu làm nên một vật gì (matière dont quelque chose est formée) còn có nghiã nữa là: cái chính yếu trong một công trình, một động tác... (ce qu'il y a d'essentiel dans un ouvrage, dans un acte...) và trong nghiã này substance nên dịch là thể chất hay bản chất, có lẽ bản chất rõ hơn, đó cũng là nghiã được dùng trong ngữ học Saussure, nhất là ở câu nói hết sức quan trọng: "tiếng nói là một hình thức chứ không phải một bản chất" vừa nhắc đến ở trên.

 

 

Tính cách bất kỳ và khác biệt của tiếng nói

 

Tính chất thứ nhất của tiếng nói là bất kỳ.

Mối liên lạc giữa chữ (signifiant) và nghiã (signifié) rất bất kỳ (arbitraire).

Chữ arbitraire thường được dịch là võ đoán (Hoàng Tuệ, Cao Xuân Hạo...) nhưng trong ngữ học Saussure, nó có nghiã là bất kỳ. Saussure giải thích; Tại sao gọi là bất kỳ, bởi vì chẳng có gì liên lạc giữa ý niệm người chị (cùng cha mẹ với mình) với chữ soeur mà nó biểu dương[40].

Cũng chẳng có gì liên lạc giữa chữ "t" và âm "tê" của chữ này.

Cũng chẳng có gì liên lạc ý niệm bố (người sinh ra mình) với tiếng bố, để gọi người cha.

Mỗi chữ, mỗi nguyên âm, mỗi phụ âm, là một khác biệt: Một người có thể viết chữ t theo nhiều cách khác nhau[41].

Nói tóm lại, ta có thể gọi cái bàncái ghế, cũng chẳng sao.

Nhưng tính cách bất kỳ này, không cho phép ta tự do, muốn nói lung tung thế nào cũng được, như gọi mẹ là cha, cha là mẹ,  v.v... Mà ta phải tuân theo các quy phạm mà cộng đồng đã định trong tiếng Việt. Đó là tính chất cộng đồng và xã hội của tiếng nói.

Tính chất thứ nhì là khác biệt (différentiel).

Sự khác biệt là cũng là một tính chất cơ bản: trong tiếng nói không có cái gì giống cái gì, tức là ta không được trùng âm, và cũng không được trùng ý.

Điều quan trọng trong tiếng (nói) không phải là âm, mà là những âm khác nhau, cho phép ta phân biệt tiếng này với tiếng kia, bởi mỗi tiếng có một nghiã.

Về ý cũng vậy: đối với một ngữ đoạn hay một câu, ta cũng phải xây dựng một câu không trùng hợp với câu khác.

Vậy bất kỳkhác biệt là hai tính chất liên đới của tiếng nói[42].

 

 

Lựa chọnkết hợp

Theo Saussure, cơ cấu tiếng nói dựa trên hai quan hệ chính, được gọi là liên hệ ngữ đoạn (les solidatités syntagmatiques) và liên hệ kết hợp (les solidarités associatives)[43]. Để cho dễ hiểu hơn, Roman Jakobson đổi thành lựa chọn (sélection) và kết hợp (combinaison).

Hai liên hệ này là gì?

1- Liên hệ ngữ đoạn hay lựa chọn: ví dụ ta có một ý niệm về người cha muốn diễn tả ra, vậy việc đầu tiên hết là phải chọn trong kho "từ điển" ở trong óc ta, một chữ liên quan tới ý niệm người cha này: cha, bố, thầy, ông bô, ông già, ông cụ... chữ nào thích hợp nhất với tinh thần của câu nói, hay câu văn ta đang định viết. Ví dụ, ta có thể nói: cha Nguyễn Du là Nguyễn Nghiễm, nhưng không thể nói: ông bô Nguyễn Du là Nguyễn Nghiễm hay ông già Nguyễn Du là Nguyễn Nghiễm,  v.v... Chữ cha ở đây vừa là yếu tố được lựa chọn, vừa là đơn vị chữ có ý nghiã cơ bản, tức là syntagme của câu: Cha Nguyễn Du là Nguyễn Nghiễm.

2- Liên hệ kết hợp: Bây giờ ta đã chọn xong các chữ đễ diễn tả ý nghĩ ở trên rồi, nhưng lại phải nói hay viết, theo một trật tự nào đó, chứ không thể nói lung tung, ví dụ, không thể nói: Nguyễn Nghiễm là Nguyễn Du cha; Nguyễn Du là cha Nguyễn Nghiễm; Nguyễn Nghiễm Nguyễn Du là cha, v.v...

Lê Văn Lý trong cuốn Tiếng Việt (Le parler vietnamien), chứng minh nhóm từ "sao-nó-bảo-không-đến" có thể có tới 40 nghiã khác nhau tùy cách kết hợp trật tự chữ.

Vậy nói hay viết là phải:

a- Lựa chọn trong những tiếng đồng chủng loại (paradigme), chữ nào thích hợp.

b- Kết hợp thành một câu có cú pháp (syntagme) trong thứ tiếng mà mình dùng.

Một thí dụ nữa: nếu muốn nói câu tôi đi học, trước tiên phải lựa chọn ba tiếng: tôi, đihọc, trong toàn bộ các tiếng đồng chủng loại như (tôi, ta...), (đi, chạy,...), (học, tập...).

Việc thứ nhì là kết hợp hay sắp xếp các tiếng đã chọn theo một trình tự đúng với quy ước ngôn ngữ đã có (ở đây là cú pháp tiếng Việt), để làm thành câu tôi đi học, chứ không thể nói: học đi tôi hay học tôi đi...

Hai liên hệ căn bản này sẽ là nền tảng cho sự khảo sát ngôn ngữ thơ, một thứ ngôn ngữ đảo ngược các quy ước, trật tự thông thường của lời nói và văn viết, để tạo nên những lối nói, những hình ảnh đặc dị, khác thường.

 

 

Người nóingười nghe

 

Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp, Saussure nhấn mạnh đến hai tác nhân chính trong sự hình thành ngôn ngữ là người nóingười nghe.

Ngôn ngữ chỉ hiện diện và tồn tại khi có hai thực thể: người nóingười nghe.

Áp dụng vào văn chương, quy ước này sẽ trở thành: tác phẩm chỉ hiện hữu khi có người viếtngười đọc. Vai trò của người đọc, trở thành bất khả trong văn học: Một văn bản viết, nếu chưa có người đọc, chưa phải là cuốn sách. Nó chỉ trở thành sách khi có người đọc. Sự khám phá này sẽ trở thành nền móng cho nhiều lý thuyết văn học về việc viết và việc đọc sau này.

 

Vai trò của giọng nói

 

Nhưng trong cách phát biểu, giọng nói cũng đóng một vai trò quan trọng: ví dụ cùng một tiếng đánh, nhưng chúng mang ý nghiã khác nhau qua cách phát âm, qua cách đặt câu, qua cá tính người phát biểu, qua bối cảnh vây quanh phát biểu, vv...

Ví dụ, khi người mẹ nói: "đừng đánh em, con!", chữ đánh này khác với chữ đánh trong mệnh lệnh: "đánh chết nó đi!"

Saussure đưa ra định thức: Tiếng nói nào cũng gồm thâu nội dung và cách diễn tả (Toute langue est à la fois expression et contenu).

Jakobson ghi lại sự kiện một diễn viên Nga kể: "Trong cuộc tuyển lựa diễn viên, một đạo diễn bắt tôi phải rút ra 40 tín hiệu khác nhau khi nói hai chữ: chiều nay".

Khám phá của Saussure giải thích sự quan trọng của cách phát âm; của giọng điệu trong cách viết của nhà văn, trong cách trình diễn của nghệ sĩ, cách bài bố của đạo diễn... Cùng một cốt truyện nhưng phim của đạo diễn này khác hẳn phim của đạo diễn kia. Cùng một bài thơ, nhưng giọng đọc của diễn viên này khác hẳn giọng ngâm của diễn viên kia, v.v...

Giọng của nhà văn, của nghệ sĩ, sau này, sẽ trở thành những chủ đề khác nhau trong văn học, được các nhà phê bình mở rộng và viết thành lý thuyết.

 

 

Tiếng nói là hình thức

 

Định thức quan trọng mà Saussure đưa ra là: tiếng nói là một hình thức chứ không phải là một thể chất/bản chất (la langue est une forme, et non une substance), hay: "Sự giao thoa này [giữa âm và ý] sinh ra một hình thức chứ không phải một thể chất/bản chất" (cette combinaison [de la pensée et du son] produit une forme, non une substance)[44].

Câu này đã được ông giải thích cặn kẽ trong Giáo trình, trang 157, mà chúng tôi đã trình bầy ở trên. Nhưng trên thực tế có nghiã gì?

Ví dụ: hai chữ lingerie hay humour trong tiếng Pháp, không thể dịch ra tiếng Việt.

Bởi vì nếu dịch lingeriequần áo lót, thì chỉ đúng có một phần, vì lingerie bao gồm tất cả những vật dụng phụ tùng mềm mại và âu yếm bao quanh thân thể người phụ nữ trong khuê phòng mà người ngoài không thể thấy, nó gói trọn nữ tính kín đáo của người đàn bà. Trong chữ quần áo lót, không có nghiã này.

Chữ humour cũng không thể dịch là u mặc hay dỉ dỏm: U mặc có âm u gợi ý u ám, trái với bản chất của humour, và dí dỏm không nói lên được tính chất thâm thúy ẩn trong humour.

Ngược lại, những tiếng ủa hay khan (như trà khan giọng tình) trong tiếng Việt, cũng không thể dịch sang tiếng Pháp.

Sở dĩ có hiện tượng này, là vì, như Saussure đã nói: người ta dùng một ký hiệu (chữ) để chỉ một sự vật (chose), nhưng cái chữ này chỉ là một hình thức, một quy ước xã hội, rất bất kỳ, vì thế nó không có khả năng bao trùm lên hết ý nghiã của sự vật, nói khác đi, mỗi tiếng của một nước chỉ tiêu biểu cho một phần của sự vật mà nó diễn tả.

tiếng nói chỉ là một hình thức diễn đạt, và mỗi dân tộc có một hình thức diễn đạt sự vật khác nhau, lại có các âm, ý khác nhau, có lối nhìn khác nhau, đối với cùng một sự kiện, một vấn đề. Chưa kể những yếu tố như sở thích, văn hoá, phong tục, cũng ảnh hưởng đến tiếng nói.

Nếu tiếng nói là thể chất/bản chất, tất nhiên nó đã nói được cái cốt yếu của sự vật mà nó diễn tả, và như vậy, thì bất cứ tiếng, chữ nào trong tiếng Pháp cũng có thể dịch ra tiếng Việt và ngược lại.

Nhận xét này đưa đến kết luận: ký hiệu ngôn ngữ của một thứ tiếng chỉ là một hình thức diễn đạt thực thể, nó không bao trùm lên toàn bộ bản chất của thực thể. Nói khác đi, tiếng nói không biểu dương được toàn bộ bản chất tiềm ẩn mọi sắc thái của thực thể mà nó muốn diễn đạt. Đó là cái khó khăn ta thấy hàng ngày trong việc dịch thuật.

Tóm lại, có bốn điểm cơ bản trong Giáo trình ngữ học đại cương của Saussure cần được lưu lại như những định thức bất biến:

- Tiếng nói là hình thức chứ không phải bản chất.

- Tiếng nói là sự kết hợp âm (signifiant) ý (signifié).

- Âm và ý không thể tách rời.

- Tiếng nói nào cũng gồm thâu nội dunggiọng nói (cách diễn tả).

Bốn định thức này sẽ được áp dụng trong nghiên cứu văn học và dịch thuật.

 

Ảnh hưởng của Saussure

 

Saussure là người đầu tiên định vị tiếng nói như một tổ chức có hệ thống và dùng phương pháp nội tại để tìm hiểu và giải thích tiếng nói. Qua những học trò của ông như Meillet, Gramont, Vendryes, Benveniste, Martinet...  Saussure có ảnh hưởng hiển nhiên đến hầu hết các nhà ngôn ngữ học Pháp.

Tư tưởng của Saussure được S. Karcevskij (học ông ở Genève từ 1905), năm 1917 trở về Nga, giảng dạy ở đại học, đồng thời thông tin cho những nhà ngữ học trẻ như Jakobson, Trubeckof biết và trình bầy ở Viện Khoa Học Mạc Tư Khoa,

Tuy nhiên, tại Pháp, mãi tới năm 1960, ngữ học Saussure mới được khảo sát, hệ thống hoá và quảng bá rộng rãi, lúc đó, nó như dòng suối ngầm hiện lên mặt đất, dội ảnh hưởng quan trọng trên những ngành khoa học nhân văn, đặc biệt nghiên cứu văn học.

Hai nhà ngữ học có công nhất trong việc quảng bá tư tưởng của Saussure là nhà ngữ học Đan Mạch Louis Hjelmslev và nhà ngôn ngữ cấu trúc Nga Roman Jakobson.

Louis Hjelmslev (1899-1965) là người duy nhất nối tiếp và hoàn tất nền ngữ học Saussure.

Sinh trưởng tại Đan Mạch là nước có truyền thống ngữ học, nhưng chính Hjelmslev cho biết những ngày sống ở Paris (1926-1927), gần Meillet và Vendryès (học trò Saussure), đã nẩy sinh "cuộc đời khoa học thứ nhì" của ông, khiến đời ông trở thành một dự trình duy nhất, mà giai đoạn từ 1928 đến 1943, là thời kỳ sáng tạo lớn. Lúc đầu ông chỉ tính soạn một cuốn sách về cú pháp Ấn-Âu, trên nguyên tắc thuần lý của văn phạm tổng quát.[45] Nhưng chịu ảnh hưởng phương pháp nội tại của Saussure, Hjelmslev đã tìm ra cách phát âm từng chữ, làm sáng tỏ nhiều vấn đề. Hjelmslev xây dựng Câu lạc bộ ngữ học Copenhague, năm 1931, và tạo ra môn Giải luận học (Glossématique), đào sâu những lập thuyết cơ bản của Saussure, đặc biệt trên hai chủ đề chính: Tiếng nói là hình thức không phải là bản chất Âm và ý không thể tách rời. Hai cuốn sách quan trọng của Hjelmslev là: Tổng luận về một lý thuyết ngôn ngữ - Cấu trúc nền tảng của ngôn ngữ (Les prolégomènes à une théorie du langage - La structure fondamentale du langage) (1943), Paris, Minuit, 2000 và Ngôn ngữ (Le langage) (1963) Paris, Minuit (1966).

Cuốn Tổng luận xây dựng lý thuyết ngôn ngữ, trên những điều đã thu thập được từ trước đến nay về ngữ học, chính là một tri thức luận về khoa học nhân văn, vì, qua ngôn ngữ, ta có thể thấy tất cả các cách phát biểu của con người. Cuốn Ngôn ngữ giải thích văn phạm lịch sử, dẫn đến các vấn đề: Họ hàng trong ngữ học, cấu trúc và cách dùng tiếng nói, sự thành lập các ký hiệu, phân chia những tộc ngữ, xếp loại ngôn ngữ theo những khuôn mẫu điển hình khác nhau.

Tóm lại, ngôn ngữ học lưỡng phân của Saussure được Hjelmslev mở rộng và hoàn chỉnh. Về ký hiệu học, Saussure mới thông báo như một dữ kiện tương lai, sẽ được Hjelmslev xây dựng những nền móng đầu tiên.

Claude Lévi-Strauss (1908-2009), cha đẻ nhân chủng học cấu trúc ở Pháp, liên kết cấu trúc ngôn ngữ với cấu trúc gia đìnhcấu trúc xã hội, trong những bộ lạc xưa nhất còn sống ở Phi Châu, từ đó suy ra cấu trúc toàn bộ xã hội con người. Roman Jakobson (1896-1982) kết hợp ngôn ngữ học Saussure với cấu trúc luận của Lévi-Strauss, để giải thích bài thơ Mèo (Les Chats) của Baudelaire, mở đầu cho khuynh hướng ngôn ngữ học cấu trúc trên toàn cầu.

Ngôn ngữ học Saussure ảnh hưởng trực tiếp đến trường phái Hình Thức Nga.

Trong toàn bộ nội dung phê bình văn học thế kỷ XX, ngữ học Sausure đã đi sâu vào mọi ngả. Mỗi người học được ở ông, một khái niệm, một phương pháp, một cách suy luận. Chỉ cần vài từ của ông, cũng đủ làm đề tài cho một bài luận văn, một cuốn sách, một điểm tựa để sáng tạo một lý thuyết mới.


 

[1] Ferdinand de Saussure, Cours de linguistique générale (Giáo trình ngôn ngữ học đại cương), Bibliothèque Scientifique Payot, 1972, Paris.

[2] Chúng tôi dịch: languetiếng nói (như tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Việt), langagengôn ngữ, bao gồm nhiều cách diễn đạt khác nhau (như ngôn ngữ loài vật, ngôn ngữ máy móc, ngôn ngữ con người, ngôn ngữ nhà văn,...) và dịch parolelời nói (như lời anh Năm, lời chị Tám). Saussure phân biệt rõ ba điạ hạt này. Nhưng trong đời sống hàng ngày, người ta thường dùng lẫn lộn những chữ này, không chỉ trong tiếng Việt mà cả các tiếng nước khác cũng vậy.

[3]Alexendrie, hải cảng ở bắc Ai Cập, do đại đế Alexandre (336-323 trước TC) xây. Trong thời kỳ dòng Ptolémées (Hy-Lạp) trị vì Ai Cập sau khi Alexandre mất, Alexendrie là trung tâm văn học nghệ thuật ở phương Đông và là một trong những cái nôi chính của nền văn minh Hy Lạp.

[4] Sách Giáo trình ngôn ngữ học đại cương của de Saussure ghi rằng: Friedrich August Wolf, năm 1777, đã mở đầu cho môn bác ngữ học này. Nhưng năm đó, Wolf mới 18 tuổi, chưa có công trình gì. Các học trò khác của Saussure, có người ghi: "F. A. Wolf, năm 1777, lúc còn là sinh viên, đã mong được gọi là nhà bác ngữ học". Thực ra, trong đơn xin vào đại học Gottingen, Wolf ghi tên học ban philologie (bác ngữ học) nhưng vị khoa trưởng từ chối vì chưa có "ban" này, và sửa lại theo tên truyền thống théologie (thần học). Nhưng Wolf cứng đầu, cứ tiếp tục tranh đấu và cuối cùng môn philologie được đưa vào danh sách của đại học. Saussure dựa vào chi tiết này để xác định sự hiện diện của môn bác ngữ học từ năm 1777, nhờ Wolf. (Cours de linguistique générale, chú thích số 23, t. 410).

[5] Nhật Nhĩ Man (Germanie, Deutsche) là vùng nước Đức xưa (chúng tôi dùng tiếng Nhật Nhĩ Man để phân biệt với tiếng Đức bây giờ). Tiếng Nhật Nhĩ Man là nguồn gốc của tiếng Anh, tiếng Đức, tiếng Hoà Lan, tiếng Frisesland (quần đảo ở Bắc hải thuộc Hoà Lan và Đức) và các tiếng Bắc Âu.

[6] Cours de linguistique générale, Bibliothèque Scientifique Payot, 1972, Paris, t. 13-14.

[7] Dương thân (Jansénisme) là tên gọi học thuyết của Jansénius trong cuốn Augustinus (1640) và cũng là tên phong trào tôn giáo, phát triển trong thế kỷ XVII và XVIII, ở Pháp, Port-Royal là trụ sở chính.

[8] Port-Royal tức Port-Royal-des-Champs, nữ tu viện xây năm 1204, còn dấu vết ở thung lũng La Chevreuse, thuộc Yvelines, phía Nam Paris.

[9] Văn phạm tổng quát và hợp lý (Grammaire générale et raisonnée) và Nghệ thuật nói (Art de parler) của Antoine Arnauld (1612-1694) và Claude Lancelot (1616-1695), in năm 1660.

[10] Luận lý học hay nghệ thuật suy tưởng (Logique ou Art de penser) của Antoine Arnauld và Pierre Nicole (1625-1695), in năm 1662.

[11]Plaute (254-184, trước Tây lịch) tên La-Tinh là Maccius hay Maccus Plautus, thi sĩ hài hước La-Tinh.

[12] Occitan là những thổ âm ở miền Nam nước Pháp thời trung cổ, gồm các vùng Limousin, Auvergne, Gascogne, Laguedoc và Provence.

[13] Catalan là tiếng romane nói ở Catalogne, quần đảo Baléares và Roussillon, cực nam nước Pháp.

[14] Tiếng Slave là nguồn gốc các tiếng Nga, Serbe, Croate, Lituanien, Tchèque, Polonais...

[15] Theo Giáo Trình Ngôn Ngữ Học Đại Cương, t. 14-19.

[16] Luận trình về hệ thống nguyên thủy của nguyên âm trong những tiếng Ấn-Âu (Mémoire sur le système primitif des voyelles dans les langues Indo-Européennes) nxb Leipsick, đề in 1879.

[17] Imprimerie Jules-Guillaume Fick, Genève, 1881.

[18] Theo Ghi chú tiểu sử và bình luận về Saussure (Notes biographiques et critiques sur F. de Saussure), in trong Giáo trình ngôn ngữ học đại cương, t. 319-389.

[19] Giáo trình ngôn ngữ học đại cương, t. 336, note II.

[20] Theo Tuillio de Mauro, tựa sách Giáo Trình Ngôn Ngữ Học Đại Cương, t. II.

[21] Viết theo Ghi chú tiểu sử và bình luận về Saussure (Notes biographiques et critiques sur F. de Saussure), in trong Giáo trình ngôn ngữ học đại cương, t. 319- 389.

[22] Giáo trình ngôn ngữ học đại cương, t. 31.

[23] Việt Nam có một nền ngôn ngữ học khá vững so với phê bình văn học, nhờ những nhà ngữ học du học ở Nga. Tuy nhiên vẫn có một số khó khăn trong sự dịch các từ, và sự trình bày vấn đề. Chúng tôi có đọc sách của nhà ngữ học nổi tiểng Cao Xuân Hạo, thì xin thú thực là không hiểu gì cả. Bởi ông quá nệ vào từ Hán-Việt, nên tất cả những chữ có thể dùng tiếng Việt mà không sợ thiếu chính xác, có khi còn rõ nghiã hơn, đều được ông dịch bằng từ Hán-Việt, thí dụ chữ langue của Saussure, thay vì dịch là tiếng ông dịch là ngôn ngữ, gây hiểu lầm với langage (là ngôn ngữ, như ngôn ngữ loài người, ngôn ngữ loài vật,...). Hay chữ sujet parlant của Saussure, chỉ có nghiã là người nói, nhưng ông dịch là người bản ngữ, rất khó hiểu. Hay cặp năng biểu/sở biểu, cũng khó đoán nghiã là gì. Đọc Saussure, Hjelmslev, Jakobson dễ hiểu hơn, vì những nhà bác học này dùng rất ít từ chuyên môn, và khi đưa ra một từ nào, bao giờ họ cũng định nghiã trước.

[24] Idiome là thổ âm, thổ ngữ, quốc ngữ, là tiếng nói của một dân tộc, một nước, hay một vùng. Chúng tôi dùng chữ thổ âm hay thổ ngữ, vì hai chữ này bao trùm lên cả thời kỳ con người chưa có quốc gia.

[25] Chữ lịch sử của Saussure ở đây có nghiã là lịch đại (diachronie) tức là tiến trình ngôn ngữ theo thời gian.

[26] Trương Văn Chình và Nguyễn Hiến Lê dịch languetộc ngữ, gây một sự hiểu lầm khác về tiếng nói, bởi tộc ngữ là famille de langues, dùng để chỉ một họ ngôn ngữ có chung mẹ (nguồn).

[27] Giáo trình ngôn ngữ học đại cương, t. 20.

[28] Giáo trình ngôn ngữ học đại cương, t. 33.

[29] Saussure lấy ví dụ âm nu, trong tiếng Pháp. Chúng tôi lấy tiếng nữ trong tiếng Việt. Tiếng Pháp thường đa âm, tiếng Việt luôn luôn đơn âm.

[30] Giáo trình ngôn ngữ học đại cương, t. 23-24-25.

[31] Giáo trình ngôn ngữ học đại cương, t. 23-30.

[32] Giáo trình ngôn ngữ học đại cương t. 99.

[33] Giáo trình ngôn ngữ học đại cương, t. 98-99.

[34] Giáo trình ngôn ngữ học đại cương, t. 36-50.

[35] Chữ valeur Sausure dùng trong nghiã ngôn ngữ học là ý nghiã, hơi khác nghiã thông thường là giá trị.

[36] Giáo trình ngôn ngữ học đại cương, t. 155.

[37] Giáo trình ngôn ngữ học đại cương, t. 156.

[38] Giáo trình ngôn ngữ học đại cương, t. 157.

[39] Giáo trình ngôn ngữ học đại cương, t. 169.

[40] Giáo trình ngôn ngữ học đại cương, t. 101.

[41] Giáo trình ngôn ngữ học đại cương, t. 165.

[42] Giáo trình ngôn ngữ học đại cương, t. 163.

[43] Giáo trình ngôn ngữ học đại cương, t. 170-175.

[44] Giáo trình ngôn ngữ học đại cương t. 169 và 157

[45] Theo Julien Greimas, bài tựa cuốn Ngôn ngữ (Le langage) (1963) Paris; Minuit, (1966),  Folio Essais, t. 9.

 

 


© 1984-2016 Thụy Khuê