Thụy Khuê Phê bình văn học thế kỷ XX
Chương 12: Phê bình Ý thức
Trong nửa đầu thế kỷ XX, những nhà Hình thức Nga, những nhà Bác ngữ học Đức, đã giữ vai trò khai phá phê bình hiện đại. Tuy nhiên tác phẩm của họ chỉ được truyền bá rộng rãi ở Âu Châu vào khoảng thập niên 1960-1970. Cùng thời điểm đó, ở Âu Châu, xuất hiện một khuynh hướng, báo trước nền phê bình mới: đó là trường phái Ý thức, ở Genève, Thụy Sĩ. Chương 12 này dành cho hai khuôn mặt tiêu biểu của Phê bình Ý thức là Marcel Raymond (1897-1981) và Georges Poulet (1902-1991). Tác phẩm Từ Baudelaire đến Siêu thực (De Baudelaire au surréalisme) của Marcel Raymond in năm 1933, được coi là bộ sách viết về văn học Pháp theo phong cách mới, có giá trị tương đương với công trình của Sainte-Beuve trong thế kỷ XIX, theo phong cách cũ. Marcel Raymond, được coi là "cha đẻ" của trường phái phê bình Ý thức. Geoges Poulet (1902-1991) là đại diện chính thức của nhóm này và được coi là người khai sinh ra "Phê bình mới".
Phê bình Ý ThứcSo hai với trào lưu, tạm gọi là "kinh điển" của những nhà phê bình Hình thức Nga và Bác ngữ học Đức, và phong trào phê bình mới, phát triển từ Roland Barthes về sau, phê bình Ý thức giữ địa vị trung dung, bắc cầu. Phê bình Ý thức là tên chủ thuyết triết học của nhóm và cũng là tên cuốn sách Ý thức phê bình (La Conscience critique) của Georges Poulet, trong đó ông giải thích nguồn cội tư tưởng và giới thiệu những khuôn mặt "chính thức" của nhóm cùng với một số tên tuổi nổi tiếng đương thời như Bachelard, Blanchot, Sartre, Barthes... Phê bình ý thức, phát xuất từ đại học Genève, nhưng những thành viên không hoàn toàn là người Thụy Sĩ, có người Bỉ, người Pháp, họ cũng không tự nhận là một trường phái: Đó là một số giáo sư đại học rất thân nhau, đồng ý với nhau trên một số định hướng về phê bình, rồi quy tụ lại thành một nhóm, gồm: Marcel Raymond, Georges Poulet, Jean Rousset, Albert Béguin, Jean Starobinski... Phê bình Ý thức đặt trọng tâm vào ý thức của người viết và người đọc, tức là quan hệ nội tại giữa người đọc và người viết. Dưới ngòi bút Georges Poulet, phê bình Ý thức chủ trương chống lại phê bình cổ điển, đặc biệt phê bình thực nghiệm (critique positiviste) và ấn tượng (critique impressionniste) vẫn còn giữ địa vị quan trọng trong đời sống văn học Âu Châu nửa đầu thế kỷ XX (xem chương 3, Phê bình cũ - Phê bình mới). Phê bình ý thức nêu cao vai trò của Ý thức trong việc viết và đọc, nhất là việc đọc, vì đó là công việc của nhà phê bình. Xin nhắc lại: Vai trò của người đọc đã được Saussure nói đến từ cuối thế kỷ XX. Đầu thế kỷ XX, Marcel Proust đào sâu, mở rộng vai trò này. Các nhà phê bình, dù dưới dạng nào, tức là dù dựa vào tiểu sử, thực nghiệm, hay ấn tượng, hoặc theo lối phân tích ngữ học như trường phái Nga và Đức, đều nhắc đến việc đọc và khái niệm người đọc, nhưng hầu như họ đều tách rời hai địa hạt: phê bình và tác phẩm. Nhà phê bình đứng ngoài đọc và đánh giá tác phẩm của nhà văn. Phải đến trường phái Ý thức, quan niệm chia hai này mới thực sự bị phá vỡ, và việc đọc được coi là sự đồng hoá hai nhân tố: tác giả và độc giả. Sự hoà đồng giữa người viết và người đọc, được Marcel Proust đề ra đầu tiên và mổ xẻ cặn kẽ trong cuốn Chống Sainte-Beuve (xem chương 3, Phê bình cũ-Phê bình mới). Sách của Proust, tuy in năm 1954, nhưng một số bài tiểu luận trong đó, đã được in tản mạn từ trước, vì vậy, có thể coi như Raymond đã đọc Proust, trước khi đưa ra lý thuyết hoà đồng giữa người viết và người đọc. Trường phái Ý thức, tiếp nối quan điểm hoà đồng giữa người viết và người đọc, khởi đi từ Marcel Proust, chủ trương đạp đổ biên giới giữa độc giả và tác giả, giữa người viết và người phê bình, để tìm đến mối liên lạc bên trong giữa tác phẩm văn học và người đọc, mổ xẻ hành động đọc tìm hiểu cái gì xẩy ra khi một người cầm cuốn sách đọc. Phê bình Ý thức có thể tóm tắt, qua lời Marcel Raymond, là: sự đồng quy của hai ý thức: ý thức người viết và ý thức người đọc.
Marcel Raymond (1897-1981)
Marcel Raymond, người Thụy Sĩ, ông sinh và mất tại Genève (20/12/1897 - 28/11/1981), giảng dậy tại đại học Genève và được coi là người sáng lập trường phái Ý thức. Kinh nghiệm về thời sinh viên ở đại học Sorbonne đưa ông tới những nhận thức cay đắng, đại loại: Sorbonne làm tôi thất vọng. Nhất là cách dạy văn chương Pháp. Là nạn nhân của lối học "Sorbonne mới", chúng tôi được nhồi nhét những dữ kiện, những câu chữ hơi hướng cũ, hoặc những bài giảng văn không dính líu gì đến cái chủ yếu trong tác phẩm. Vượt trên cách dạy văn chương, lịch sử hời hợt ở các giảng đàn, Raymond muốn tìm đến lịch sử đích thực của tư tưởng từ trong lòng văn bản; tìm đến những băn khoăn siêu hình của con người được thể hiện trong tác phẩm văn học. Tác phẩm chủ chốt của Marcel Raymond là cuốn Từ Baudelaire đến Siêu thực (De Baudelaire au surréalisme) do Corréa in năm 1933, Corti in lại năm 1940, được coi là một trong những cuốn sách quan trọng nhất về phê bình và lịch sử văn học, ra đời trước thế chiến. Tác phẩm chia làm ba phần: Quyển I: Thoái trào (Le Reflux): Sau khi nói qua về trường phái Tượng Trưng, ông trình bầy sự thoái trào của thi ca Pháp, từ Baudelaire đến Siêu Thực. Quyển II: Tìm một dòng mới của Pháp (A la recherche d'un nouvel ordre français): Paul Valéry và Paul Claudel được coi là tiêu biểu của dòng mới này. Quyển III: Phiêu lưu và Nổi loạn (L'Aventure et la Révolte): Phân tích hoàn cảnh lịch sử và xã hội đầu thế kỷ XX ở Pháp, phát sinh sự nổi loạn của hai phong trào Đa Đa và Siêu thực. Tác phẩm viết về 80 năm thơ, đưa ra những vấn đề mấu chốt trong sự phát triển thi ca Pháp qua các thời đại, từ lãng mạn, tượng trưng, đến tân tượng trưng, siêu thực. Marcel Raymond cho rằng: Điều quan trọng nhất là phải sáng tạo ra một đường lối phê bình ngược chiều với lối phê bình giáo khoa giáo điều, đừng chú trọng vào tiểu sử tác giả, và phải giảm thiểu tối đa phần lịch sử. Phải tìm ra "thực chất của mỗi nhà thơ, của mỗi bài thơ", bằng phong cách riêng của mình, không bắt chước hay nhái lại người khác. Phủ nhận triết học thực nghiệm của Taine và phê bình tiểu sử của Sainte-Beuve, Marcel Raymond đi từ tư tưởng chủ yếu: chỉ có sự giao tiếp riêng tư và sâu kín giữa nhà phê bình và nghệ sĩ mới đưa tới những nhận định giá trị. Tư tưởng này đã thấy ở Marcel Proust. Marcel Raymond còn chịu ảnh hưởng bác ngữ học Đức, chủ yếu Gundulf và Spitzer, ông chú ý đến tất cả sắc thái của chữ nghiã, tác phẩm của ông thể hiện một công trình suy ngẫm lâu dài về bản chất thi ca, soi rạng ba phần tư thế kỷ thơ Pháp bằng hai cách: đặt những câu hỏi siêu hình và đi vào vùng sâu của cá thể. Dùng lối phân tích "vòng bác ngữ", đi từ chi tiết đến tổng thể của Spitzer, Marcel Raymond lần dở từng đoạn, từng phần của văn bản để thâm nhập vào cấu trúc bên trong của tác phẩm, trình bầy quan niệm, đường hướng, triết lý thi ca của mỗi nghệ sĩ. Khi bàn về Rousseau, Raymond cho rằng "Ý thức về mình nơi Rousseau là ý thức của người đọc". Georges Poulet khi bàn đến khái niệm "ý thức người đọc" của Marcel Raymond, đã viết trong cuốn Ý thức phê bình (La conscience critique) như sau: "Raymond cho rằng: "Ý thức về mình nơi Rousseau là ý thức của người đọc". Mà ý thức của người đọc -tất nhiên cũng là ý thức của người đọc-kiểu mẫu (liseur-type) tức là nhà phê bình- có cái nét đặc thù là nó phải hoà đồng với một ý thức khác (ý thức của người viết). Người phê bình là kẻ dám tự biến đổi để trở nên một người khác: hắn chấp nhận sống một kinh nghiệm tinh thần khác với mình (...) Vậy hành động đọc quan trọng hơn những gì thoạt thấy: Nó dẫn ta, không những đến một thế giới khác, mà còn đưa ta vào một bản ngã, một hữu thể khác. Đọc hay phê bình, là bỏ tất cả những thói quen, những khát vọng, những tín điều của mình. Trước tiên phải lột trần, dốc sạch (mình) cho trống, (tựa như việc Descartes khuyếch đại cái nghi ngờ) nhưng không phải là để trực giác sự tồn tại của mình, như trong khái niệm Cogito của Descartes (tôi suy tưởng vậy tôi hiện hữu), mà ngược lại là để thấy sự hiện hữu và thấy tư tưởng của người khác"[1]. Lời trên đây của Georges Poulet chứng tỏ ông vừa diễn lại ý của Marcel Ramond, vừa đưa ra một định nghĩa sâu xa về hành động đọc. Và ông nhấn mạnh: "Phê bình của Raymond phải được định nghiã tiên thiên như một sự ý thức được ý thức" (la critique de Raymond doit se définir primordialement comme une prise de conscience de la conscience)[2]. Câu này chính là định nghiã hành động phê bình của Poulet. Poulet nhận định rằng: bằng cách lý giải văn bản từ chi tiết đến tổng thể, Raymond đã tạo ra cái gọi là phê bình hợp tác (critique participatrice), thiết lập mối tương quan giữa tác phẩm và người đọc. Giải thích khái niệm phê bình hợp tác của mình, Marcel Raymond viết: "Dĩ nhiên trí tuệ (l'esprit) cảm thấy nhu cầu cần phải thấy lại được mình trong toàn thể đối tượng [nghiên cứu], trí tuệ cố gắng thích hợp với toàn bộ đối tượng bằng cách phỏng tạo lại nó trong mình, tái sinh lại nó một lần nữa theo cá thể của mình"[3]. Lời trên đây của Raymond diễn tả một sự hoà đồng tuyệt đối giữa trí tuệ nhà phê bình và đối tượng nghiên cứu, tức là tác phẩm. Một sự hoà đồng như vậy giữa người viết và nhà phê bình, trường phái ý thức gọi là phê bình đồng nhất hoá (critique de l'identification), và họ tự nhận phê bình của họ là phê bình đồng nhất hoá. Phê bình đồng nhất hoá, tuy phát sinh từ ý thức Cogito của Descartes, nhưng lại chối bỏ ý thức rõ ràng (conscience claire) của Descartes: "Tôi suy tưởng vậy tôi hiện hữu" (je pense donc je suis), tức là: tôi biết là có tôi vì tôi đang suy nghĩ. Đối với Descartes, có ý thức, tức là phân biệt được cái gì là mình, cái gì không phải là mình. Marcel Raymond phản bác rằng: "Trong khi ý thức của người trí thức rời xa sự vật và đào sâu thế giới dưới cái nhìn của y bằng một sự trừu tượng tăng tiến, nhà thơ, do đòi hỏi của tình cảm, đi hướng ngược lại, tiến về việc tóm bắt hay linh cảm cái đám mây mù, phi lý - mà cuộc đời là như thế- hiện ra, ngoài sự hiểu biết của người trí thức"[4]. Tóm lại, theo Raymond, nếu nhà trí thức dùng ý thức minh bạch để tự biết mình, thì nhà thơ đi ngược lại hành trình này: nhà thơ tiến vào đám mây mù, phi lý của cuộc đời, đám mây mù ấy, nhà trí thức không thể vô được. Poulet nhấn mạnh: "Không chỉ những nhà thơ được Raymond yêu mến, mà chính nhà phê bình cũng theo chân họ cùng tiến về phiá mây mù. Điều đó chưa thấy ai nói trong văn chương Pháp (...) Ở đây, với Raymond, hiện ra thứ phê bình dường như cố tình quay lưng lại với sự sáng sủa. [Nhà phê bình] phóng sâu vào những cảnh trí quen thuộc, rạng tỏ trên bề mặt, để lục soát thám hiểm những chiều sâu"[5] Tóm lại, nhà phê bình ý thức phải xuyên qua những cảnh trí quen thuộc của lối phê bình cũ, phải quay lại vùng mây mù, tức là vùng ý thức của tác giả, nhập vào ý thức của tác giả, để thám hiểm chiều sâu của tác phẩm. Tất cả những lập luận về ý thức hoà đồng giữa người viết và người đọc, của Raymond và Poulet vừa trình bày sơ lược trên đây, quả là mới lạ, nhưng chỉ cần một ngọn gió cũng có thể lay chuyển tất cả. Jean-Paul Sartre cho rằng: Anh không thể đột nhập "vào trong" một "ý thức", vì ý thức không có "trong, ngoài". Chính sự từ chối là một thể chất (substance) đã khiến ý thức là ý thức. Ví dụ anh cứ thử vào "ý thức" (của người ta) mà xem, thì anh sẽ như bị rơi vào cơn lốc, nó thổi bật anh ra ngoài.[6] Lời Sartre, thường phũ phàng nhưng chính xác, nhắc chúng ta không thể xem lý thuyết phê bình ý thức như một vấn đề đã giải quyết xong, mà ngược lại, còn nhiều vấn đề phải bàn lại, đồng thời buộc ta phải thận trọng với bất cứ lý thuyết nào. Phê bình của Marcel Raymond, có giá trị ở chỗ đã tìm về nguồn cội tư tưởng của một tác phẩm, của một trường phái văn học, của hành động viết cũng như hành động đọc, đào sâu mối tương quan giữa nhà văn, ngôn ngữ, và thời đại phát sinh ra tác phẩm trong toàn bộ những nét đặc trưng của nó, đặc biệt vấn đề tác phẩm đã tiếp nhận những ảnh hưởng nào và chính nó đã gây ảnh hưởng ra sao đối với những người cùng thời hoặc thế hệ sau. Còn sự nhập vào ý thức của tác giả nhà phê bình có thể làm được hay không, lại là một việc khác, bản thân người phê bình cũng phải suy nghiệm lại.
Georges Poulet (1902-1991)
Georges Poulet, nhà phê bình Bỉ, viết tiếng Pháp, sinh tại Chênée (Liège), ngày 29/11/1902, và mất tại Bruxelles ngày 31/12/1991. Tốt nghiệp đại học Liège, ông giảng dạy tại nhiều đại học trên thế giới: từ Edimbourg đến Baltimore (1952), rồi Zurich (1956), từ năm 1968, ông dạy đại học Nice. Năm 22 tuổi, trình luận án tựa đề: Những liên hệ giữa những nhận vật trong tiểu thuyết của Balzac (Les relations entre les personnages dans le roman Balzacien). Năm 25 tuổi, in cuốn tiểu thuyết duy nhất tựa đề Con gà đẻ trứng vàng (La Poule aux oeurs d’or). Sự nghiệp phê bình của Poulet thực sự khởi đầu năm 1949, với tập I, bộ sách Nghiên cứu thời gian của con người ((Études sur le temps humain). Georges Poulet coi Marcel Raymond như một người bạn, một người cha của trường phái ý thức. Khi được nhận chức giáo sư danh dự tại đại học Genève, trong thư gửi Marcel Raymond, Poulet viết: "Đúng là tôi thấy mình có liên hệ chặt chẽ với đại học Genève, vì đó là trường của anh, nhờ anh (...) mà một trường phái phê bình đã phát sinh tại đây, và có thể nói, mỗi ngày tôi đều cảm thấy mình hân hạnh và sung sướng đã có phần đóng góp".[7] Từ bộ Nghiên cứu thời gian của con người (Études sur le temps humain) (1949-1968), 4 tập, đến bộ Tư tưởng trung gian (La pensée intermédiaire) (1985-1989), 3 tập, Poulet đã viết trên 20 tác phẩm, bao quát các lãnh vực rộng lớn của văn chương, viết về nhiều tác giả không kém gì Sainte-Beuve trong thế kỷ XIX, và ông đã có ảnh hưởng lớn đến nền phê bình mới. Tác phẩm tổng quát và đúc kết tư tưởng và phương pháp phê bình ý thức của ông là cuốn Ý thức phê bình (La conscience critique), in năm 1971.
Tác phẩm Ý thức phê bình (La conscience critique)Tác phẩm Ý thức Phê bình (La Conscience critique) trình bày nội dung của phê bình Ý thức. Điểm đầu tiên được Poulet đề cập đến trong phần lý thuyết, cũng là điểm cơ bản của phương pháp này, là sự đồng quy của hai ý thức: ý thức người viết và ý thức người đọc. Sau đó, ông khoanh tròn địa hạt của phê bình ý thức: Phê bình ý thức, hiểu theo nghiã rộng, bao gồm tất cả những hướng phê bình tìm cách khảo sát thực thể viết và thực thể đọc như hai hiện tượng, hoặc dính chùm, hoặc tách rời. Như vậy, tất cả những cách tìm tòi đi sâu vào khía cạnh viết và đọc, đều là phê bình ý thức. Nói khác đi, theo Poulet, phê bình ý thức, hiểu theo nghiã rộng, là phê bình hiện tượng luận, tức là nhà phê bình khảo sát hiện tượng viết và hiện tượng đọc bằng phương pháp của triết học hiện tượng. Phê bình ý thức, vẫn theo Poulet, không phải bây giờ mới có mà đã xuất hiện từ thời lãng mạn: ở Đức trong phê bình lãng mạn và tiền lãng mạn của Bodmer và anh em Schelgel. Ở Anh với Coleridge, Hazlitt. Tại Pháp với Mme de Staël (1766-1817). Theo ông, ý thức phê bình của bà de Staël, bắt nguồn từ ý thức thán phục (admiration), tức là một tình cảm rất riêng tư kết nối người viết với người đọc: đặc biệt là sự thán phục J.J. Rousseau. Những thán phục, ca ngợi của bà về tác giả này hay tác giả kia, đối với chúng ta ngày nay, có thể là ngây thơ, lỗi thời, nhưng điểm cốt yếu là sự thán phục ấy đã dẫn bà đắm mình trong tác phẩm. Bà thán phục và ca tụng cái mà bà đã khám phá ra ở người khác, cái ấy đã thấm sâu vào tâm hồn bà và nó trở thành một nhận thức, một hiện hữu. Đến đây, Georges Poulet giới thiệu khái niệm đã được Raymond nói đến là Cogito, khái niệm này sẽ trở thành nòng cốt của ông trong phê bình.
* CogitoPoulet viết: "Như thế, điểm đầu tiên hiện ra, ngay trang nhất, trong tác phẩm của de Staël, có thể gọi là cái Cogito phê bình. Không phải: "Tôi phán đoán, vậy tôi hiện hữu (non pas je juge, donc je suis), bởi đây không phải là sự phán đoán thuần lý, mà là "tôi thán phục, vậy tôi hiện hữu" (j'admire, donc je suis) nghĩa là tôi tự khám phá ra tôi trong tình cảm thán phục (người khác) mà tôi cảm nhận được"[8] Và từ nay Cogito trở thành yếu tố chính trong phê bình của Georges Poulet. Chữ Cogito lấy từ công thức nổi tiếng của Descartes: cogito, ergo sum (je pense, donc je suis - tôi suy tư, vậy tôi hiện hữu), ngụ ý: tôi không chắc điều gì hết, nhưng tôi biết chắc là có tôi bởi vì tôi đang suy nghĩ. Hành động suy nghĩ xác định sự hiện hữu của tôi. Poulet thay mệnh đề "je pense, donc je suis" của Descartes bằng mệnh đề: "j'admire, donc je suis" (tôi thán phục, vậy tôi hiện hữu) để áp dụng cho bà de Staël: Tôi thán phục tác phẩm mà tôi đang đọc, điều đó chứng tỏ tôi đang sống, tôi đang có mặt ở đây, vậy tôi hiện hữu. Hành động đọc, hành động phê bình của bà de Staël, theo Poulet, là hành động tiên khởi, là kinh nghiệm đầu tiên về ý thức phê bình như một ý thức về sự hiện hữu. Ông viết tiếp: "Đó là phê bình của de Staël, một lối phê bình ích kỷ nhất và vô vụ lợi nhất, đưa đến sự tìm biết sâu xa chính mình, trong say đắm, đem cái tôi của mình hoà nhập với cái tôi của người khác. Phê bình của bà de Staël chính là sự tác hợp giữa thiên tài phê bình và thiên tài nhà văn. Nó đặt nền móng cho một tư thế tương đồng giữa bản thể của mình và bản thể của kẻ mà mình thán phục"[9].
* Sự thấu minhKhái niệm thứ nhì trong phê bình của Poulet là sự thấu minh (transparence), tức là sự thông suốt, giữa người viết và người đọc. Ông viết: "Theo đuổi huyền thoại Rousseau (và Julie), Mme de Staël mơ đến một tình trạng thấu minh lẫn nhau (transparence réciproque) giữa những thực thể: chồng vợ, bạn bè, người yêu, tác giả, độc giả, cùng có với nhau sự giao hưởng tâm hồn trong động tác yêu thương. Và đó là hạnh phúc (...) Sự hoà hợp giữa những tâm hồn qua văn chương cũng giống như một cuộc hôn nhân hạnh phúc"[10]. Poulet cho rằng bà de Staël là một trong những tâm hồn đầu tiên ở Âu Châu đã cảm thấu và làm cho người khác thấu cảm nỗi buồn trong thơ; và nếu bà là người đã thấu cảm được nỗi buồn trong thơ người khác thì bà cũng sẽ là người đầu tiên thấu cảm được nỗi đau của chính mình. Ông viết tiếp: "Thực thể nào ý thức được nỗi đau của mình -những nỗi đau- thì cũng ý thức được chiều sâu của mỗi hạn kỳ đau đớn, ý thức được chúng nối tiếp nhau, hết khúc đoạn này đến khúc đoạn khác, tạo thành dây xích dài nối hiện hữu với định mệnh"[11]. Và ông nhấn mạnh thêm một lần nữa về sự thấu minh tương cảm: "Hiểu một tư tưởng mà mình yêu thích, một tác phẩm mà mình đã tha thiết khâm phục, không chỉ là gắn bó vào những nổi trôi biến động mà tác phẩm mang lại, mà còn phải làm hiện ra trong tư tưởng của mình, sự bội phân những nổi trôi biến động đó như một toàn bộ nhất quán. Chữ nhất quán có hai nghiã, bởi vì nó vừa là cái nhất quán trong ý thức của người viết mở ra cho mình khi mình cầm cuốn sách lên đọc, vừa là cái nhất quán trong ý thức của mình với những cảm thức khác nhau, khi mình lặn vào tác phẩm của người khác"[12].
* Trí nhớ, quá khứ và kỷ niệmVấn đề thứ ba trong phê bình Ý thức, theo Poulet là vai trò của trí nhớ, quá khứ và kỷ niệm: "Hiểu một tiểu thuyết gia, một nhà thơ, một nghệ sĩ, một triết gia, có nghiã là nối [người ấy] vào cái tôi hôm nay của mình, để ghi lại trong trí nhớ, trước tiên những kinh nghiệm sống của một người khác được chuyển tải đến mình, và thứ đến là những kinh nghiệm mà sự chuyển tải này sinh ra hoặc gợi lại trong ta"[13]. Như vậy, đọc có hai chặng: chặng một, là nhớ những gì mình đang đọc, và chặng hai, là nhớ những kỷ niệm mà sự đọc này gợi lại trong ta. Trong cả hai chặng này, trí nhớ là yếu tố chủ chốt: Trí nhớ khắc ghi những gì xẩy ra khi ta đang đọc và trí nhớ còn tồn ghi những gì ta đã đọc trong quá khứ, và quá khứ đi đôi với kỷ niệm. Ông viết: "Tóm lại, để thấu triệt một tác giả, chỉ biết tác giả thôi thì chưa đủ, mà còn phải tự biết mình, biết soi mình trong tác giả đó, phải lần đi lần lại, từng giai đoạn, tìm thấy toàn bộ những cảm thức mà tác giả đem lại cho ta. Việc biết một tác giả không chỉ ngừng lại ở sự thán phục riêng tư tác giả đó, mà còn phải nhờ kỷ niệm, dẫn ta tìm lại những chuỗi cảm thức khác nhau đã đến với mình suốt hành trình đọc trong quá khứ"[14]. Theo Poulet, bà de Staël đã nhìn thấy mối tương quan này khi bà viết: "Người Hy Lạp sống với tương lai, người La Mã, giống chúng ta, có cái nhìn về quá khứ". Bà còn viết: "Tuy người Hy Lạp vinh danh người chết... nhưng sự u uẩn, những nuối tiếc mẫn cảm lâu dài không có trong bản chất của họ, mà "những chuỗi dài kỷ niệm" lại được tàng trữ trong trong tim người phụ nữ"[15]. Poulet nhận định tiếp: "Một cách đọc mới vừa xuất hiện. Người phê bình không còn đứng ngoài để phê phán một tác phẩm, như một đối tượng khách quan nữa, mà nhà phê bình sẽ phải hoà mình vào tác phẩm, góp phần vào chuyển động chủ quan mà tác phẩm biểu lộ và chuyển tải". Trở lại vai trò tiên phong của bà de Staël, Poulet viết tiếp: "Bà de Staël có thể là nhà phê bình đầu tiên đã có cái ý tưởng lớn và mới này trong văn học, là phát lộ con người bên trong, làm nó hiện lại trong ý thức phê bình với những nét đặc trưng của nó trong chiều dầy quá khứ. Một nền văn chương không có quá khứ, không có kỷ niệm, theo bà de Staël, không phải là văn chương đích thực"[16].
* Thời gian và khoảnh khắcVấn đề thứ tư trong phê bình Poulet là vai trò quan trọng của thời gian và khoảnh khắc. Ông viết: "Nhờ ký ức qua những khoảnh khắc khác nhau của một đoạn đời, mà tôi phân biệt được tình cảm khâm phục của tôi đối với một tác giả. Tôi ý thức được tôi, trong dòng lịch sử, trên cái nền kính bái những điều đáng khâm phục. (...) Tôi không chỉ là một kẻ, qua dòng thời gian, thấy mình đã ý thức được tác phẩm này hay tác phẩm khác. Mà tôi còn là kẻ, đã nắm bắt được tác phẩm như sự biểu hiện ý thức của một kẻ khác, cũng đang đi như tôi trong dòng thời gian"[17]. Tóm lại: cogito, thấu minh, ký ức, và khoảnh khắc là những yếu tố chính trong phê bình Ý thức của Georges Poulet.
Trong bài viết về Baudelaire (1821-1867) mà ông xem là người kế nghiệp de Staël trong dòng phê bình ý thức, Poulet nhận định: "Baudelaire là một người bị ý thức bản thân ám ảnh. Đối với Baudelaire, trò chiếu gương, tức là đem hình ảnh chính bản thân mình ra trình bày với mình, được nhân lên đến độ chóng mặt, như một thể nghiệm chết chóc ma quái. Cái ý thức về mình ở Baudelaire là "ý thức tội lỗi". Vì vậy sự hoà mình trong tư tưởng người khác đối với ông, phải được hiểu như một sự cắt đứt cái vòng địa ngục ấy, như một hành động giải thoát. Cho nên, nếu nhà thơ dạo trong công chúng, tiếp xúc với ý thức phát tán của công chúng cũng chỉ là để gỡ bỏ cái ý thức bản thân, luôn luôn ám ảnh mình. Sự quên mình đối với Baudelaire có một giá trị vừa đạo đức vừa trị liệu"[18]. Với Marcel Proust, người thứ ba mà Poulet xếp vào hàng tiên phong trong phê bình ý thức, Poulet viết: "Qua cuốn Chống Sainte-Beuve (Contre Sainte-Beuve) chúng ta được biết tiểu thuyết của Proust bắt nguồn từ một dự trình nghiên cứu văn học. Sự tìm kiếm không ngừng khoảng thời gian đã mất, với những nhân vật, những luận đề, những cảnh sắc, với vô vàn biến thiên tâm lý, tất cả những thứ đó, bây giờ chúng ta mới biết là chúng khởi đi từ một suy nghĩ về phê bình - như Combray trong chén trà. Giống như câu chuyện của nhân vật chính, một người trẻ tuổi cảm thấy mình có thiên bẩm nhà văn, tự hỏi phải làm sao để hoàn thành tác phẩm mà anh mơ ước, như thế cuốn "Chống Sainte-Beuve" là ý thức của một nhà phê bình tương lai, về những gì mà anh ta cho là phương pháp phê bình hay nhất. (...) Nói cách khác, Proust, trước khi có hành động sáng tạo, đã có một suy nghĩ về sáng tạo, về cái gì hình thành nên sáng tạo, về nguồn gốc, về bản chất, và cứu cánh của sáng tạo"[19]. Câu chót trong đoạn Poulet nhận xét trên đây về Proust, rất đáng cho những người sáng tác lưu ý. Bởi nó đưa người viết trở về khởi điểm của sáng tạo: nên khám phá ra hành động viết, trước khi bắt tay vào việc viết. Tức là phải hiểu viết là gì trước khi viết văn. Chưa hết, Poulet viết tiếp: "Hành động viết đòi hỏi một sự khám phá văn chương trước và sự khám phá này dựa trên một hành động khác, đó là hành động đọc (...) Marcel Proust là một người đọc, một người phê bình, trước khi sáng tác (...) Hành động phê bình, ở Proust, không phải là thứ nhì mà là thứ nhất, nó là bước đầu tiên của tư tưởng, trước khi phiêu lưu trong một lãnh vực lớn, phải vượt qua bước đầu quyết định (...) Cùng thời điểm với Mallarmé, và trước Du Bos, trước Sartre, Marcel Proust là một trong những người đã đặt câu hỏi chủ yếu: Văn chương là gì?"[20] Nhưng theo Poulet: "Người thầy đích thực của phê bình hiện đại là Montaigne (...) Montaigne [1533-1592] là người đầu tiên có ý tìm trong tư tưởng người khác một vật thể mà ông có thể nhắm tới và đạt được. Có thể nói phê bình ngày nay bắt chước đường lối ấy. Nó tìm cách "soi gương đời mình trong đời người khác", nó "lẻn vào" những cuộc đời xa lạ bằng trí tưởng tượng"[21]. Phải đến những dòng gần cuối sách, mới thấy được cái Cogito của Georges Poulet: "Tôi đã đọc các triết gia, nhất là những tác giả suy nghĩ đến ý nghĩa của chữ Cogito. Hầu hết các triết gia hiện đại, từ Montaigne đến Husserl [1859-1938] đều xây dựng một nền suy tưởng dựa trên ý thức (...) Họ luôn luôn mô tả điểm khởi đầu của lý luận, bằng một động tác bất di bất dịch: tâm trí nổi lên từ khoảng trống để có ngay trực giác tức khắc về mình. Như vậy, mỗi suy nghĩ triết học đối với tôi hình như đều xuất phát từ giây phút ấy, giây phút đầu tiên của ý thức, tức là lúc mà cái tôi -và qua cái tôi, thế giới- hiện ra. Sự vận hành, mà tư tưởng mô tả như thế, dường như mỗi lần, đều có một điểm đi và một điểm đến, và tư tưởng -trong khi di chuyển giữa hai điểm đó- được thành hình. Nhưng điều đáng chú ý là sự vận hành tinh thần này, không chỉ dành riêng cho triết học. Mà tất cả mọi loại văn bản: tiểu luận, tiểu thuyết, thơ, đều có điểm khởi hành như thế; tất cả mọi phát ngôn có tổ chức đều nẩy sinh từ cái ý thức ban đầu để tiến đến những điểm tới. Như vậy, không có sự khác biệt sâu xa giữa một văn bản văn chương và văn bản triết học. Văn chương có thể là triết học và triết học có thể là văn chương; và bất cứ ở trang nào tôi đang đọc, tôi cũng thấy ở mỗi dòng cái hành trình tư tưởng ấy, ngay từ đầu. Làm sao mà tôi đã bỏ qua điểm tối quan trọng này? Tác phẩm luôn luôn bắt đầu bằng một sự Cogito hoá (cogitation), và phê bình lấy tác phẩm làm đối tượng nghiên cứu, cũng phải có một khởi điểm như thế. Trước đây, tôi cứ tưởng nhà văn thả mình trong dòng hỗn loạn của đời sống tâm linh. Bây giờ tôi mới hiểu rằng, phẩm chất cơ bản của nhà văn là trong mỗi khoảnh khắc phải đi đến tận cùng nhiệm vụ của mình, tức là đi lại từ đầu, từ con số không, và phía nhà phê bình cũng vậy, cũng phải đi từ con số không, tức là phải biết xoá mình đi, ngay từ đầu. Vậy có thể nói mà không sợ sai rằng: nhà văn bắt đầu bằng sự xây dựng cái Cogito của mình và nhà phê bình tìm thấy điểm khởi hành trên cái Cogito của người khác (...) Tất cả bắt đầu từ: Tôi suy tư, tôi hiện hữu (Je pense, je suis). Với tôi, sự khám phá này quan trọng vô cùng: Phê bình là sự nhái lại hai lần một hành động tư tưởng. Nó không tùy thuộc vào cái cao hứng thất thường. Việc bắt đầu lại từ trong sâu thẳm của mình, cái Cogito của một nhà văn hay một triết gia, tức là phải tìm lại cách cảm giác và cách suy nghĩ của họ, tìm hiểu cách ấy đã phát sinh và hình thành như thế nào, đã gặp những trở ngại gì, việc ấy cũng là khám phá lại ý nghĩa một cuộc đời đã được xây dựng nên từ ý thức rút ra ở chính cuộc đời đó"[22]. Tóm lại, trong cuốn La conscience critique, Georges Poulet đã lấy ý thức phê bình của mình chiếu vào ý thức phê bình của người khác để tạo ra tác phẩm, một tác phẩm có chủ đích phê bình các nhà phê bình. Văn bản phê bình, dưới ngòi bút của Poulet, trở thành tấm gương hội tụ và phản ảnh văn chương, và nó có thể bội phân nhiều lần, mỗi lần nẩy sinh một tác phẩm mới. Ông trình bày gần 20 quan điểm phê bình khác nhau, từ bà de Staël, Baudelaire, Marcel Proust, Marcel Raymond... đến Gaston Bachelard, Jean-Paul Sartre, Roland Barthes, mỗi người có một ý thức phê bình khác nhau, đôi khi hoàn toàn đối lập nhau: Phê bình Bachelard dựa trên tưởng tượng, không màng đến ý thức. Sartre chối bỏ hoàn toàn lập luận: phê bình là nhập vào bên trong ý thức của người khác, bởi theo ông ý thức chẳng có bên trong bên ngoài, và có muốn nhập vào cũng bị đẩy ra. Với tác giả nào, Poulet cũng gắng tìm cho được cái Cogito của họ. Poulet tìm ra cái Cogito của người khác đồng thời xác định cái Cogito của chính mình. Như thế phê bình ý thức là sự hoà tan giữa triết học và văn chương, trên con đường truy tìm Cogito, hay tư tưởng chủ yếu dựa trên ý thức của người viết. Một định nghiã như thế có thể bao trùm lên hầu hết các nhà phê bình trong nửa sau thế kỷ XX. Ý thức phê bình là một thành công của Poulet, bởi vì không những ông bộc lộ được hết những tư tưởng chủ yếu của mình về phê bình mà còn tìm ra được cái sườn chính trong tư tưởng phê bình của mỗi tác giả, mà ông gọi là cái Cogito của họ. Bây giờ chúng ta thử xem Cogito phê bình của Goerges Poulet là gì, khi ông phê bình một nhà văn, trong bộ sách đồ sộ Nghiên cứu thời gian của con người (Etudes sur le temps humain) của ông.
Tác phẩm Nghiên cứu thời gian của con người (Etudes sur le temps humain)
Cuốn Nghiên cứu thời gian của con người (Etudes sur le temps humain) tập 1, in năm 1949, khởi hành sự nghiệp của Poulet, được giới phê bình nồng nhiệt đón nhận như một biến cố mới lạ. Người ta để ý đến khía cạnh thời gian trong văn chương, được đưa ra lần đầu tiên. Thời gian ở đây được hiểu theo nghiã hiện sinh, tức là hoàn toàn mới lạ đối với thời đó. Thời gian của Poulet chính là thời gian tính (temporalité) trong triết học Heidegger (1889-1976), tức là cơ cấu của Dasein, khác với thời gian của sự vật trong triết học cổ điển hay thời gian theo nghiã thông thường. Nói vắn tắt: Da là hiện diện, sein là hiện hữu, theo Heidegger: bản chất của con người là tự "ném mình" về phía trước: nó đang ở hiện tại mà đã ném mình về tương lai, và cả về phía sau lưng nó nữa. Khả năng này được Heidegger gọi là Thời gian tính (Temporalité). Vậy chính con người tạo nên thời gian. Poulet dùng chữ thời gian, khi thì theo nghiã triết học Heidegger, khi thì theo nghiã cổ điển, để đo lường sự dồn dập (hay mật độ) các biến cố xẩy ra trong một khoảnh khắc, và coi đó như nguồn ánh sáng mới, mà ông dùng để chiếu vào Racine, Diderot, Rousseau, Flaubert, ... Ở đây, cá thể nhà phê bình đã lần từng khoảnh khắc để khám phá một cá thể khác, là nhà văn, cha đẻ của tác phẩm. Curtius, một trong những nhà phê bình chủ chốt của nhóm Bác ngữ học Đức, đã từng xác định: trong văn chương quá khứ luôn luôn hiện diện, mặc thời gian chia cắt, quá khứ vẫn giao thoa với hiện tại: L'Odyssée của Homère sống lại trong tác phẩm của Eschyle, Dante, Joyce... Sự huyền bí Tây Ban Nha nhập vào T.S. Eliot. Ngay cả những cách diễn đạt, như thể loại, vần, đoạn, hình thức, chủ đề, phương pháp, nhân vật cũng "sống lại trong nhau" như vậy. Thế giới xưa không ngừng xâm nhập vào thế giới nay, vậy cần gì phải chia cắt hai thế giới này. Dưới bề mặt chia cách sâu xa giữa hai thế giới, là sự tiếp nối liên tục. Từ ảnh hưởng Curtius, Poulet chứng minh rằng quá khứ không hề cắt đứt với hiện tại mà còn nằm trong hiện tại: qua André Gide (1869-1951) người đọc thấy lại Montaigne; Diderot (1713-1784) báo trước Bergson[23]... Poulet khám phá ra đằng sau cái khách quan của tác phẩm, tác giả luôn luôn tìm đến cái bên trong của con người và thấy nó trong hành động sáng tạo. Trong cuốn Nghiên cứu thời gian của con người, tập 2, hay Khoảng cách nội tại (La distance intérieure) in năm 1952, Poulet tiếp tục khảo sát các nhà văn từ một chiều kích khác mà ông gọi là khoảng cách nội tại. Đây là một thứ không gian vừa là trung tâm vừa là dìa ngoài của tư tưởng. Một loại khoảng cách từ ta tới ta. Poulet giải thích: tư tưởng của tôi là một không gian có những ý tưởng của tôi; những ý tưởng này đến rồi đi, có cái biến mất. Vậy tư tưởng của tôi không chỉ là tổng cộng những ý tưởng mà còn bao gồm toàn thể các khoảng cách nội tại chia rẽ các ý tưởng ấy hoặc nối liền chúng lại với nhau. Áp dụng vào nhà văn, cái mà Poulet gọi là "khoảng cách nội tại" chính là khoảng cách giữa tư duy sáng tạo với cuộc đời thoát thai từ sáng tạo. Trong cuốn Nghiên cứu thời gian của con người, tập 3, hay Điểm xuất phát (Le point de départ), in năm 1964, Poulet tìm điểm xuất phát, trách nhiệm văn cách của 9 tác gia hiện đại: Whitman, Bernanos, Char, Supervielle, Éluard, Perse, Reverdy, Ungaretty, Sartre. Điểm xuất phát này sẽ được ông xác định là cái Cogito của nhà văn. Trong cuốn Nghiên cứu thời gian của con người, tập 4, hay Đo khoảnh khắc (Mesure de l'instant) in năm 1968, Poulet đề nghị: "Phải sáng chế ra một "đơn vị khoảnh khắc" vì chiều kích của khoảnh khắc luôn luôn thay đổi". Theo ông, khoảnh khắc đu đưa giữa cái không và cái có, nó có thể co lại thành một điểm hay dãn ra đến vô cùng. Khoảnh khắc sẽ trở thành yếu tố thứ nhì sau cogito, trong hành trình của nhà văn. Poulet viết: "Đơn vị khoảnh khắc đi từ cái không đến cái toàn thể, từ cực co đến cực dãn. Giống như trong dạng thức sinh vật học của sự phân liệt, khoảnh khắc có thể tự đơm đầy và cũng có thể, vì mật độ quá lớn, tự bùng vỡ, sinh ra một quần thể đồng loại; trong một lúc nó vừa là nó, lại vừa là cái khác; đang là hiện tại, mà đã tương lai. Phải chăng đó là khoảnh khắc của Proust -trái ngược với những gì mà ta tưởng- phân chia cái bây giờ và cái mai sau, trong một khoảnh khắc đang bắt đầu và đã chấm dứt. Proust gọi đó là một khoảnh khắc nhân đôi, ở giữa thời gian. Và phải chăng đó cũng là trường hợp của khoảnh khắc hạnh phúc (và bất hạnh) ở Julien Green, luôn luôn đặt ở đầu một thời đoạn và chấm dứt ở ngưỡng cửa một thời đoạn vừa mới bắt đầu? Khoảng khắc biểu dương cái hữu hạn và cái vô hạn. Có ai biết làm sao sáng chế ra được một đơn vị khoảnh khắc?"[24]
Lối phê bình của Poulet là phê bình chủ đề, và chủ đề ở đây là khoảnh khắc (instant). Cái khoảnh khắc này không phải là chủ đề của tác phẩm được phân tích mà là chủ đề mà Poulet đưa ra và coi là nền tảng mà nhà văn dựa vào, và ông đã "cắt" nó ra để tìm hiểu nhà văn; tương tự như Spitzer "cắt" ra một chữ hay Auerbach "cắt" một đoạn văn để phân tích toàn bộ tác phẩm. Nhưng Poulet chỉ giống hai bậc thày này ở chỗ "cắt" thời gian ra từng khoảnh khắc mà thôi. Sau đó, Poulet làm gì? Chúng ta thử xem cách ông phân tích Mme de Staël trong cuốn Etudes sur le temps humain, tập 4. Trước tiên, Poulet đưa chủ đề thời gian của ông vào tác phẩm của de Staël bằng cách trích dẫn hai câu văn của Germaine (sau này sẽ trở thành nhà văn Mme de Staël) trong hai bối cảnh khác nhau: 1- "Chỉ có vinh quang mới giúp ta thoát được thời gian" (La gloire seule nous affranchit du temps) (trích trong vở kịch Sapho). 2- "Em đặt ở anh tất cả kỳ vọng, tất cả tương lai của em" (J'ai placé sur vous toutes mes espérences, tout mon avenir) (lời Germaine de Staël nói với người yêu). Để ông xác định: trong óc người con gái tên Germaine lúc đầu, vinh quang, hạnh phúc, chưa phân biệt rõ ràng, nàng tưởng vinh quang (hay hạnh phúc) giúp nàng thoát khỏi được thời gian. Và Poulet kết luận về Germaine de Staël như sau: "Nàng ném trí tưởng tượng, ném sức sống nhiệt tình, lòng tham vọng, khả năng yêu đương vào một thời gian chưa đến và gọi nó với tất cả mong ước của nàng"[25]. Đó cách ông đưa chủ đề thời gian của ông vào tác phẩm của de Staël. Tiếp đó, ông tìm thêm ba câu văn khác của de Staël, rút trong ba bối cảnh khác nhau, nhưng đều có chữ thời gian, khoảnh khắc hay ý niệm chỉ thời gian, khoảnh khắc: 1- "[Sự đam mê bỏng cháy] coi thường tất cả những gì thuộc về tương lai và chạy theo mỗi khoảnh khắc như duy nhất có". 2 - "Không có gì đau đớn cho bằng giây phút sau khi xúc động". 3- "Sự hưởng thụ [khoái lạc] chỉ tồn tại trong khoảnh khắc..." Từ ba câu này, Poulet rút ra một nhận định khác về de Staël: "Trước nhất, ta phải hình dung ra diện mạo một con người chưa sống, gần như chưa có quá khứ, mở mắt tỉnh dậy giữa một hiện hữu hãy còn trong tương lai, và chờ đợi cái gì sẽ đến. (...) Hiện hữu ở ngoài mình, đó là điều mà Germaine de Staël ước muốn, tức là sống ở bên ngoài hiện tại, để xô đẩy dòng đời, buộc nó phải đi nhanh lên để nhượng chỗ cho tương lai. Ý tưởng ở đây không chỉ hướng về tương lai, tương lai không đơn thuần là giới hạn gán cho tất cả sinh hoạt tâm thần, là mục đích nhắm tới, là khoảnh khắc đạt đích mong mỏi. Khoảnh khắc này, khả dĩ, còn phải cận kề và gặp lúc ý tưởng nóng lòng thúc giục nó hiện ra. Sự vội vã sống này là dấu ấn sớm nhất về tính khí của bà de Staël."[26] Poulet đã dựa vào ba câu văn trong có những chữ: tương lai, khoảnh khắc (câu 1), giây phút (câu 2) và khoảnh khắc (câu 3), để rút ra nhận định: người con gái tên Germaine, sau trở thành nhà văn de Staël, là con người có tính khí sống vội vã. Cách viết này khá tiêu biểu trong phê bình của Poulet, và ta thấy lại trong nhiều nhà "phê bình mới" khác: lời văn hàm súc, cô đọng gần như khó hiểu, ý tưởng cao siêu, khiến người đọc bình thường dễ bị lạc trong khối tư duy trừu tượng.
Lối viết trên dẫn ta đến những nhận xét sau đây: 1- Trước hết nhà phê bình chọn một chủ đề, ở đây là thời gian, đúng hơn là khoảnh khắc, hiểu theo nghiã triết học Heidegger, nghiã là con người tự phóng mình về phiá trước và cũng tự quay lại phía sau. (Nói khác đi: khi ta đang ngồi (hiện tại), ta đứng dậy, tức là ta đã "phóng mình" về phiá trước (tương lai). Mọi chuyển động của ta đều có tính cách "phóng mình" về "tương lai", mọi suy nghĩ của ta đều cốt yếu phóng mình về trước, hoặc về sau (tương lai hay quá khứ), vì vậy Heidegger cho rằng con người "làm nên" thời gian). 2- Sau đó Poulet cố ý tìm những câu, chữ liên quan đến thời gian, khoảnh khắc, quá khứ, kỷ niệm... trong thư từ hay tác phẩm của bà de Staël, rồi góp lại, để chứng minh rằng: de Staël là một con người "như vậy đấy" tức là một người luôn luôn "phóng mình về phiá trước", đợi những gì "sắp tới", nhưng ông nói một cách triết học: de Staël chọn sự hiện hữu ở ngoài mình, nghiã là bà đứng ra ngoài cuộc đời hiện hữu để "giật dây" cho cuộc sống của bà chạy mau hơn, cho tương lai của bà đến sớm hơn dự định. Và ông "nhận định": đó chính là tính khí "sống vội" của de Staël, từ thời trẻ. Tóm lại, theo Poulet, de Staël "tôn thờ tương lai", sống vì tương lai, nhưng lại "phá hoại tương lai", vì sự "sống vội" của mình. Và cuối cùng ông kết luận: De Staël có khiếu đớn đau (le don de souffrir), cái khiếu này thường của đàn bà hơn là của đàn ông; và tác phẩm của bà toát ra một sự nuối tiếc (le regret) khôn nguôi[27]. Tựu trung, những nhận xét có tính cách triết lý trên đây của Poulet, có thể cao siêu thật đấy, nhưng không giúp gì cho việc đọc và hiểu de Staël. Bởi vì, nếu nhà phê bình chỉ đưa ra những nhận xét đại loại như: de Staël là người, nên bà có "tính khí" phóng mình ra ngoài (theo định nghiã "người" của Heidegger) thì thực là vô bổ, tuy có thấy lạ. Đọc Lamartine, Poulet thấy ở thơ Lamartine: "trở thành thơ của kỷ niệm và nuối tiếc. Sự nuối tiếc này..."[28]. Vì nhà phê bình dùng phương pháp: lấy một số chữ trong tác phẩm có liên quan với chủ đề mà ông đã định sẵn (ở đây là chủ đề thời gian), để chứng minh cho quan niệm nhân sinh của ông, nên ông dễ bị dẫn đến ngõ cụt: hoặc chỉ viết nên những chân dung văn học na ná giống nhau vì hợp với chủ đề của ông, mà không đưa ra được những nét đặc thù thực sự của nhà văn đang khảo sát. Với lối viết này, nhà phê bình có thể tạo ra một văn bản cao siêu, có tính triết lý, nhưng đôi khi không ăn nhằm gì tới cấu trúc văn phong và tư tưởng của tác giả. Tuy nhiên, trường phái phê bình Ý thức đã làm được một việc cơ bản: Trở về với triết học Descartes (1586-1650), tìm lại "sự thực" đầu tiên: Cogito, Je pense, donc je suis - Tôi suy tư, vậy tôi hiện hữu, để đi đến một hiện hữu hiển nhiên khác, hiện hữu phê bình: tôi thán phục, vậy tôi hiện hữu. Georges Poulet kết luận cuốn Ý thức phê bình bằng một xác định: "Phê bình nào cũng khởi thuỷ và cốt yếu là một sự phê bình của ý thức"[29]. Mà phê bình Ý thức, theo Marcel Raymond, là sự nhập đồng giữa ý thức của người viết với ý thức của người đọc. Nhưng Sartre có lý hơn khi cho rằng: ta không thể "xuyên vào" ý thức của người khác, vì ý thức không phải là một thể chất (substance) để có thể xâm nhập vào. Vậy câu kết luận của Poulet, chỉ nên hiểu trong nghiã thực tiễn: tức là nhà phê bình phải dùng ý thức của mình để nhận định tác phẩm văn học; trong nghiã này, ý thức (conscience) đồng nghiã với nhận thức (perception) tức là biết rõ; nói khác đi, nhà phê bình chỉ có thể hiểu tác phẩm sau khi đã khảo sát kỹ càng. Chữ Ý thức của Georges Poulet nằm trong nghiã đó.
Georges Poulet và sự khai sinh phê bình mới
Trong cuốn Ý thức phê bình, Poulet trình bầy nội dung phương pháp luận của ông bằng cách xây dựng chân dung của những nhà phê bình được ông xếp vào "khuynh hướng ý thức", đó là: Madame de Staël, Baudelaire, Proust, nhóm N.R.F[30], Charles Du Bos, Marcel Raymond, Albert Béguin, Jean Rousset, Gaëtan Picon, Georges Blin, Gaston Bachelard, Jean-Pierre Richard, Maurice Blanchot, Jean Starobinski, Jean-Paul Sartre và Roland Barthes. Dòng đầu tiên trong bài Tựa, Poulet xác định ý nghĩa việc đọc theo quan điểm của Raymond, như sau: "Hành động đọc (mà mọi tư tưởng phê bình đích thực quy tụ vào) tiềm ẩn sự trùng hợp giữa hai ý thức: ý thức của người viết và ý thức của người đọc"[31]. Tiếp đó, ông nhắc đến mối tương quan giữa phê bình mới và tiểu thuyết mới: "Người ta nói đến "phê bình mới" cũng như người nói đến "tiểu thuyết mới". Có tiểu thuyết mới của Michel Butor, Alain Robbe-Grillet, Nathalie Sarraute, Claude Simon thì cũng có phê bình mới của Gaston Bachelard, Marcel Raymond, Maurice Blanchot, Jean Rousset, Jean-Pierre Richard và Jean Starobinski. Hai phong trào này quy tụ những cá tính khác nhau nhưng cùng quan tâm đến một số vấn đề tương đồng. Riêng về phía những nhà phê bình mới, họ gặp nhau vì cùng khai thác những hiện tượng của ý thức: Mỗi người (phê bình) cố gắng sống lại và nghĩ lại những kinh nghiệm và những tư tưởng mà người khác (nhà văn) đã sống và đã nghĩ."[32] Có mấy điểm đáng chú ý trong đoạn văn trên: Dù Poulet có dùng chữ "người ta nói đến", nhưng người đọc vẫn có cảm tưởng chính ông đã xác định: phê bình mới "đi đôi" với tiểu thuyết mới. Điều này không sai. Nhưng khi ông xếp những triết gia phê bình như Gaston Bachelard, Maurice Blanchot vào loại những nhà phê bình mới, thì có phần gượng ép. Ngoài những tên tuổi được coi là chính thức trong nhóm phê bình Ý thức, như: Marcel Raymond, Jean Rousset, Albert Béguin, Jean Starobinski, Poulet còn xếp tên một số người khác, đặc biệt trong đó có Jean-Paul Sartre; ở đây có sự ngộ nhận, bởi Sartre quan niệm rằng hai ý thức (của người đọc và người viết) không thể xuyên vào nhau được. Cuối cùng, ta chỉ có thể chấp nhận: ý thức phê bình ở Poulet được xây dựng trên ý thức hiện hữu. Và nếu Poulet có gặp Sartre ở một điểm, thì chính là điểm đó, cũng là điểm căn bản của triết học hiện sinh. Còn nhãn hiệu "phê bình mới" thực ra, có thể áp dụng cho tất cả mọi người không theo đường lối phê bình cũ của Sainte-Beuve, ở Pháp, kể từ Marcel Proust. Nhưng người ta không thể gọi những người như Sartre, Bachelard, Blanchot... là những nhà "phê bình mới", bởi vì họ không mới, không cũ, và cũng không theo một chủ trương thời thượng nào, thậm chí tên của Sartre còn không được người ta ghi nhận trong những mục, sách, nói về phê bình. Cũng như người ta không thể gọi Bakhtin, Spitzer, Auerbach là nhà "phê bình mới" bởi những gì họ khám phá ra trong địa hạt phê bình, chẳng những không có tính cách tân kỳ, mà còn có phần "cổ điển" nữa. Vậy, tên gọi phê bình mới, như lời Poulet nói ở trên, đi đôi với tiểu thuyết mới, chỉ thích hợp cho dòng phê bình xuất hiện nửa sau thế kỷ XX thuộc thế hệ Roland Barthes, chủ yếu những môn đệ của ông như Gérard Genette, Kristeva... với những tính chất chủ chốt sau đây: - Nhà phê bình mới, tự xác nhận là những nhà sáng tác, coi văn bản phê bình cũng là một văn bản sáng tác; đối với họ, phê bình có địa vị ngang hàng với sáng tác. - Vì cũng "sáng tác" nên nhà phê bình mới cần phải làm như nhà sáng tác: chăm sóc lối viết và tìm một chủ đề. - Ngôn ngữ phê bình mới sẽ được Roland Barthes gọi là siêu ngữ. - Phê bình mới thường hay chuyên chở tư tưởng triết học. Như ta đã biết, sự dùng tư tưởng triết học để giải thích văn bản, đã bị những nhà hình thức Nga bác bỏ, vì họ cho rằng triết học, cũng như tâm lý, tiểu sử, vv... là những yếu tố ngoài văn chương. Quyết định này ở đầu thế kỷ XX, thực ra chỉ có chủ đích đả kích kín đáo nền phê bình mác-xít đang thịnh hành và được tôn vinh, thời đó. Còn việc triết học trở lại trong phê bình, khoảng giữa thế kỷ XX, liên quan đến sự xuất hiện của các triết gia phê bình, thập niên 1930-1940, ở Pháp, như Bachelard, Sartre, Blanchot... và chính trường phái phê bình Ý thức, cũng khởi đi từ triết học Descartes. Vì ảnh hưởng những nhà phê bình triết gia trên đây, và chính bản thân những nhà phê bình mới cũng cố gắng làm sao cho văn bản phê bình của mình trở thành một văn bản "cao hơn", "đứng trên" văn bản của nhà văn mà họ phê bình, cho nên trong phê bình mới xuất hiện nhiều chủ đề tân kỳ, và phê bình mới còn được gọi là phê bình chủ đề (critique thématique), Phê bình chủ đề ảnh hưởng trực tiếp từ Georges Poulet: thay vì tìm tòi trực tiếp tư tưởng hay chủ đề của tác giả được nghiên cứu, thì nhà phê bình đề xuất một chủ đề trước, rồi tìm những câu văn của tác giả phù hợp với chủ đề mà mình đưa ra, để chứng minh cho chủ đề ấy. Việc làm này, khi đẩy tới mức triệt để, có thể xem như nhà phê bình đã dùng tác phẩm mà mình nghiên cứu để chứng minh cho một quan điểm xã hội, triết học, của mình; với những tên sách rất lạ như Mắt sống (L'oeil vivant) của Starobinski, Mặt trời đen (Soleil noir) của Kristeva, vv... Phê bình mới, vì vậy, có những ưu điểm và nhược điểm sau đây: Đưa ra những khám phá tân kỳ, những thuật ngữ tân tạo, nhưng văn bản phê bình có thể đi rất xa đối với tác phẩm được phê bình, bởi vì văn bản phê bình tự coi là "sáng tạo" hay "cộng tác" giữa người viết và người đọc. Sự cộng tác này, do Marcel Raymond đề xướng (1933), từ ảnh hưởng của Marcel Proust, với chủ ý đề cao vai trò của người đọc (đã có từ Saussure), và khuyến khích người phê bình phải đào sâu vào tác phẩm, phải sống với tác phẩm như sống với chính mình. Vai trò của người viết và người đọc sẽ được Sartre phân tích bằng hiện tượng luận trong cuốn Văn chương là gì ? (1948), và các tác giả khác tiếp nối, như Maurice Blanchot, trong Không gian văn chương (1955), Roland Barthes, trong S/Z (1972), Umberto Eco, trong Vai trò của người đọc (1979)... đều phân tích cặn kẽ vai trò của người viết và người đọc, theo những hướng đi khác nhau. Nhưng tất cả những tác giả này, đều không được người ta đọc kỹ, nên có những người, chập chững theo đòi "phê bình mới" lại hiểu lầm rằng "đọc trong sáng tạo" có nghiã là nhà phê bình có quyền muốn đọc thế nào thì đọc, có thể "sáng tác" thêm, tức là tạo ra những ý nghiã không có trong văn bản. Hiện tượng này đưa đến những bài phê bình, đôi khi chữ nghiã rất hay, nhưng không liên quan gì đến tác phẩm khảo sát; hoặc ở trình độ thấp hơn, là sự ba hoa, đánh bóng chữ, phô trương những nông cạn của người phê bình, khiến bài viết của họ hoàn toàn đi ra ngoài nội dung tác phẩm đề cập. [1] Georges Poulet, Ý thức phê bình (La conscience critique) José Cortie, in lần thứ ba (1986), t. 103-104. [2] Georges Poulet, La conscience critique, t. 109. [3] Marcel Raymond, Nhà chiêm tinh Hugo (Hugo mage), Génies de France, Baconnière, 1942, t. 162. [4] Marcel Raymond, Từ Baudelaire đến siêu thực (De Baudelaire au surréalisme), Corti (1940), t. 354. [5] Georges Poulet, La conscience critique, t. 116. [6] Sartre, Situations I (Tình thế I), Gallimard (1947), Folio Essais (1993), t. 30. [7] Marcel Raymond-Georges Poulet, Correspondance (Trao đổi) (1950-1977), Corti, (1981). [8] La conscience critique, t. 16. [9] La conscience critique, t. 16. [10] La conscience critique, t. 17-18. [11] La conscience critique, t. 20. [12] La conscience critique, t. 21. [13] La conscience critique, t. 21. [14] La conscience critique, t. 21. [15] La conscience critique, t. 23-24. [16] La conscience critique, t. 23. [17] La conscience critique, t. 22. [18] La conscience critique, t. 29. [19] La conscience critique, t. 49. [20] La conscience critique, t. 50. [21] La conscience critique, t. 301. [22] La conscience critique, t. 307. [23] Henri Bergson (1859-1941), triết gia Pháp, chủ trương trực giác là phương tiện duy nhất để nhận biết thời gian và cuộc đời. [24] Etudes sur le temps humain, tập 4, Plon (1964), Pocket (1990), Avant-propos, t. 12-13. [25] Etudes sur le temps humain, tập 4, t. 193. [26]Etudes sur le temps humain, tập 4, t. 194. [27] Etudes sur le temps humain, tập 4, t. 195, 207. [28] Etudes sur le temps humain, tập 4, t. 214. [29] Nguyên văn: "Toute critique est initialement et fondamentalement une critique de la conscience". Trích La conscience critique, t. 314. [30] NRF là La Nouvelle Revue Française, tuyển tập văn chương Pháp, nguyệt san xuất hiện trong khoảng 1920-1935, về phê bình có những ngòi bút chính: Albert Thibaudet, Jacques Rivière, Du Bos, Raymond Fernandez. [31] La conscience critique, t. 9. [32] La conscience critique, t. 9.
|