Thụy Khuê

Phê bình văn học thế kỷ XX

Phụ Lục

 Hậu Hiện Đại: Thc cht và o tượng

 

Thuyết hậu hiện đại (postmoderne) của Jean-François Lyotard ra đời từ năm 1979, cách đây gần bốn mươi năm, nhưng đối với độc giả Việt Nam, dường như vẫn còn là vấn đề thời thượng. Một đề tài được bàn đến rất nhiều, nhưng thử tìm một chuyên luận giải thích rõ ràng, tường tận không dễ. Có người cho rằng đó là một chủ nghĩa, một trường phái; có người cho đó là một lý thuyết suông. Phần đông những người bênh vực lý thuyết này, thường xem nó như một chủ thuyết văn học mới nhất, vượt xa những trường phái, chủ thuyết văn học cũ như: lãng mạn, siêu thực, hiện sinh, đã lỗi thời. Hậu hiện đại (posmoderne) của Lyotard mặc nhiên biến thành "chủ nghiã hậu hiện đại" (postmodernisme), và thường được coi như một chủ nghiã có khả năng hướng dẫn sáng tạo cho toàn bộ nghệ thuật tân tiến thời này.

Đối với người đọc bình thường, một số câu hỏi được đặt ra: có một thứ "chủ nghĩa hậu hiện đại" thực không? Và nếu có, thì đường hướng sáng tác của chủ nghĩa ấy như thế nào? Những chữ hậu hiện đại nghĩa là gì? Có từ bao giờ? Do ai đề xướng?... Tựu trung, những câu hỏi cơ bản về bất cứ một khái niệm văn học hay triết học nào.

Để trả lời những câu hỏi này, chúng tôi cho rằng cách đơn giản nhất là trình bầy một chân dung hậu hiện đại từ nguồn xuất phát, tức là từ chính thuyết hậu hiện đại của Jean-François Lyotard và so sánh thuyết này với "chủ nghiã hậu hiện đại" được loan truyền trên khắp thế giới; ta sẽ thấy rằng: "chủ nghiã" này đã hoàn toàn thoát khỏi lý thuyết của Lyotard trong cuốn Điều kiện hậu hiện đại (La condition postmoderne). Đây là một nghiệm chứng xác thực về hiện tượng "tác giả đã chết" sau khi tác phẩm ra đời, mà chúng ta đã biết qua lý thuyết văn chương của Maurice Blanchot, trong chương 15.

Trước khi đi vào nội dung hậu hiện đại, có hai vấn đề quan trọng cần giải thích:

- Nguồn gốc danh từ hậu hiện đại.

- Việc dịch một số danh từ trong sách của J.F. Lyotard.

 

Nguồn gốc danh từ

Từ postmoderne xuất hiện trong cuộc tranh luận triết học, năm 1979, cùng với sự ra đời cuốn Điều kiện hậu hiện đại (La condition postmoderne) của Jean-François Lyotard, thật ra, đã được dùng từ trước, trong nhiều lãnh vực khác nhau.

Trước hết, năm 1861, nhà khoa học và triết gia Pháp, Antoine-Augustin Cournot, đã dùng khái niệm hậu lịch sử (post-histoire) trong cuốn Chuyên luận về sự liên kết những ý tưởng cơ bản trong khoa học và sử học (Traité de l'enchaînement des idées fondamentales dans la science et dans l'histoire), Cournot nhắc lại giả thuyết của Hegel về sự hoàn tất lịch sử ở thời điểm hiện đại, để chỉ định những gì xẩy ra sau đó, là hậu lịch sử.

Khoảng 1934, một số tác giả như Arnold J. Toynbee, Oswald Spengler, Alexandre Kojève, G. Benn, Arnold Gehlen... đã lấy lại khái niệm hậu lịch sử này trong các chuyên luận khảo sát lịch sử, triết học, triết lý lịch sử, nghiên cứu thi học của họ.

Một mặt khác, cũng năm 1934, nhà phê bình văn học Tây Ban Nha, F. de Onis trong Tuyển tập thi ca Tây Ban Nha và Châu Mỹ La Tinh (Antologia de la poésia espanola e hispanoaméricana) đã dùng danh từ postmoderne để chỉ định sự vượt qua (dépassement) chủ thuyết hiện đại (modernisme) những năm 1905-1914. Nhưng muốn biết sự "vượt qua" này là gì, chúng ta phải trở lại khái niệm chủ thuyết hiện đại trước đã.

Từ hiện đại (moderne) thường dùng trong nghĩa đối lập với truyền thống (tradition). Còn thuật ngữ Thuyết hiện đại hay Thuyết duy tân (Modernisme) chỉ định ba phong trào hoàn toàn khác nhau:

- Về tôn giáo, ModernismePhong trào cải cách tôn giáo nhằm mục đích đổi mới đạo thiên chúa vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, với toàn bộ những lý thuyết và khuynh hướng chủ trương làm mới việc chú giải Thánh Kinh, cải tổ học thuyết xã hội và quản trị giáo hội, sao cho phù hợp với nhu cầu khoa học của thế kỷ XX; đặc biệt cuộc khủng hoảng tôn giáo dưới thời Giáo hoàng Pie X (1903-1914) ở Pháp và ở Ý. Những tư tưởng cải cách này, bị nghị định Lamentabili và sắc lệnh Pascendi của giáo hội kết án nghiêm khắc năm 1907.

- Về văn học, Modernisme (Modernismo) chỉ Trào lưu đổi mới văn học phát xuất từ Châu Mỹ La Tinh năm 1890, của một số nhà văn, nhà thơ, viết tiếng Tây Ban Nha mà người khai phá là Ruben Dario (Nicaragua), muốn thoát khỏi ảnh hưởng Tây Ban Nha, nhưng lại chịu ảnh hưởng các trào lưu Thi Sơn (Parnasse)[1] và Tượng Trưng (Symbolisme) của Pháp.

- Ngoài ra, Modernisme còn chỉ Phong trào đổi mới văn chương nghệ thuật ở Brésil, phát sinh từ São Paulo năm 1922, tìm những chủ đề trong thiên nhiên và văn hóa dân tộc.

Như vậy, chữ Modernisme, nếu coi là một chủ thuyết duy tân, thì nó chỉ có ba nghiã chính thức trên đây. Nhưng khi người ta dùng chữ này như một "chủ nghiã" văn học nghệ thuật, thì nó đã bị xé toạc ra thành trăm, nghìn mảnh khác nhau, mỗi người có một "chủ nghiã hiện đại" của riêng mình, như chúng ta thấy hiện nay trên báo chí sách vở, internet: chữ chủ nghiã hiện đại không còn có nghiã gì cả.

Còn chữ Hậu hiện đại, về văn học, mà chúng ta nói đến ở đây, từ năm 1934, đã được Onis dùng để chỉ phong trào đổi mới văn học Tây Ban Nha-Châu Mỹ La Tinh (1905-1914); chữ này sẽ được J.F. Lyotard dùng lại năm 1979, để chỉ lý thuyết Hậu hiện đại của mình, theo một nghiã mới, hoàn toàn không ăn nhập gì đến phong trào đổi mới văn học ở Tây Ban Nha và Châu Mỹ La-Tinh đầu thế kỷ XX. Lý thuyết của Lyotard, như ta sẽ thấy, cũng không liên hệ gì đến khái niệm Hậu hiện đại của nhóm nhà văn cách tân tại Mỹ, thập niên 1960.

 

 

Hậu hiện đại trong văn học Mỹ, thập niên 60

 

Trong những năm 60, thế kỷ XX, một số nhà phê bình Mỹ dùng nhóm từ "Hậu hiện đại" để chỉ những tác gia sinh vào khoảng thập niên 30, thế hệ sau Hemingway, Faulkner, Caldwell... chủ trương cách tân tiểu thuyết với những đặc điểm: phi lý, châm biếm, huyền ảo, truyện không cốt truyện, không tình tiết, giọng văn mới lạ, có chất quái dị, kinh hoàng như John Barth, Donald Berthelme, Robert Coover, William Gass, John Hawkes, Kurt Vonnegut,  v.v...

John Hawkes (1925- 1998) cho rằng kẻ thù đích thực của tiểu thuyết là: tình tiết, nhân vật và đề tài. Để chống lại lối viết hiện thực, ông đưa ra một hình thức tiểu thuyết độc đáo, dựa trên hai yếu tố: châm biếm và kinh hoàng.

Trong cuốn Kẻ ăn thịt người (The cannibal) (1949) Hawkes khắc họa hình ảnh một nước Đức quái đản trong tưởng tượng, (từ trước thế chiến thứ nhất đến cuối thế chiến thứ hai) với những nhân vật dị kỳ, phế thải, một thế giới dã man, tàn bạo, "ăn thịt người", thế giới của ác mộng mà hiện thực không còn chỗ đứng. Trong cuốn Nhiếp ảnh gia và người mẫu (Whistlejacket tạm dịch theo tựa tiếng Pháp Le photographe et ses modèles) (1988), ông tả một họa sĩ, muốn vẽ cho thật chính xác, sống động bức tranh ngựa, đã mổ ngựa để giảo nghiệm cơ thể; muốn vẽ chân dung hai mẹ con, bèn tìm cách mổ moi (trộm) xác một người mẹ chết vì sinh nở. Tác phẩm của ông toát ra một thứ ngôn ngữ văn chương lạ kỳ, rùng rợn, mê sảng, một không khí ngụ ngôn thi ca khốc liệt.

William Gass (sinh năm 1924), cho rằng: tiếng nói theo ta khắp nơi, cả trong sinh hoạt thầm kín của nhục dục và giấc ngủ; ngôn ngữ là hồng tâm của tim người. Ông đã sáng tạo những cách viết, những giọng điệu đặc biệt trong những truyện ngắn lạ kỳ đầy hoang tưởng và tác phẩm The Tunnel (1995), sau gần 30 năm làm việc cật lực, với chủ đề khám phá đường hầm của tội ác.

Robert Coover (sinh 1932), dùng thủ pháp xáo trộn lịch sử, kể lại và di chuyển việc xử tử Rosenberg, thời cao điểm chiến tranh lạnh của phong trào Mac Carthy. Phác họa một chân dung Nixon đầy nọc độc. Nghi ngờ tất cả những lập luận chính thống. Coover bẻ tréo thực tại "chính thức" để tạo ra một thực tại khác với cảm quan độc đáo của mình.

Kurt Vonnegut (1922-2007) đặt những câu hỏi ngược đời: Tại sao chúng ta lại ở trên trái đất này? Ta có thể làm gì được ở đây? Ta biết gì về thế giới này? Trinh thám giả tưởng là đất dụng võ của ông, ông thích so sánh trái đất với những hành tinh khác để tìm hiểu cõi "vũ trụ buồn" của chúng ta. Cố tình pha trộn châm biếm với ngây thơ giả vờ, Vonnegut tưởng tượng ra một xã hội mà những người cầm quyền là những nhà bác học và quần chúng trở nên "vô dụng". Ông tạo ra những tình tiết ly kỳ giữa các thiên thể như hành tinh Tralfamadore, dùng những gì mà trái đất gọi là di tích lịch sử như Vạn lý trường thành để gửi thông điệp. Để giễu cợt "tương lai nhân loại", ông đặt những câu hỏi lẩn thẩn như "người để làm gì?", "làm sao yêu được đám người vô dụng?"

John Barth (sinh 1930), nhận thấy tất cả đều đã "nói rồi", đều đã múc sạch, để tránh lập lại, ông đề xướng nền "văn chương cạn kiệt", coi sự đạp đổ văn chương như một phương cách sáng tạo tân kỳ và sống động. Đập phá những ngõ cụt của văn chương hiện đại và sự sói mòn của các hình thức kể chuyện, ông đưa ra cách viết mới, chủ yếu dựa trên hai yếu tố: chế giễu và cợt nhả. Cuốn Giles, đứa bé dê (Giles goat boy), 1966, trình bầy một sườn truyện chính (nếu có thể gọi là truyện) nằm ngổn ngang giữa những thư từ, bài tựa, bài viết... Người đọc được biết: sở dĩ có những linh tinh, bừa bãi này là do "lỗi" của tác giả: một cái máy tính "điên"; nhưng rồi độc giả cũng mò mẫm hiểu được "câu chuyện": một vị giáo sư-văn sĩ tên là J.B, giống hệt hai chữ John Barth viết tắt, được giao nhiệm vụ viết lại chuyện đấng cứu thế: George Giles-đứa bé dê, nửa người nửa thú; mẹ người, cha máy tính. Giles, đứa bé dê, dày 700 trang, nhái lại tất cả các giọng điệu ngôn ngữ, tất cả các cách kể chuyện và còn sáng chế ra một cái máy tính khổng lồ "điên", nuốt tất cả các nhân vật.

 

Tính cách tân kỳ còn phát triển mạnh mẽ trong ngành kiến trúc hậu hiện đại những năm 60-70, tạo ra những công trình lạ lùng như nhà kính lộ thiên giữa sân bảo tàng viện Louvre, hoặc đôi khi kỳ cục như trung tâm văn hóa Pompidou ở Paris, vượt ra ngoài tất cả những khuôn khổ trường phái kiến trúc đã có. Ngày nay những công trình kiến trúc này đã trở thành "cổ điển", vì người ta nhìn mãi quen mắt. Kiến trúc hiện tại tiếp tục con đường khám phá này và có những kiệt tác về mỹ thuật cũng như về sự phục vụ tiện nghi tối tân của đời sống.

Nếu muốn nói đến một trường phái hậu hiện đại trong văn học, thì phải kể và chỉ nên kể những nhà văn hậu hiện đại Mỹ, với lối viết mới lạ, dị kỳ vừa nói ở trên.

Như ta sẽ thấy ở dưới, Jean-François Lyotard không dùng chữ hậu hiện đại của Mỹ. Đó chỉ là sự trùng tên, và sự kiện này là một trong những lý do khiến sau này người ta cố tình gán gép lý thuyết của Lyotard với những tác gia hậu hiện đại Mỹ, để lập ra một "trường phái văn học" đầu Ngô mình Sở gọi là "chủ nghĩa hậu hiện đại", và đưa vào "chủ nghĩa" này, tên những nhà văn nổi tiếng của thế hệ trước, có tính chất đặc dị khá cao trong tác phẩm, mà các tác gia hậu hiện đại Mỹ đã chịu ảnh hưởng, như: James Joyce (1882-1941), Franz Kafka (1883-1924), Samuel Beckett (1906-1989), Jorge-Luis Borges (1899-1986), Alain Robbe-Grillet (1922-2008), Gabriel Garcia-Marquez (1927-2014),  v.v...

Bài này khảo sát lý thuyết Hậu hiện đại của Jean-François Lyotard.

 

 

Việc dịch các từ: récit, grand récit, métarécit, petit récit

Tác phẩm của Lyotard dựa trên một số danh từ chủ chốt, nếu không nắm vững nội dung sử dụng của tác giả thì khó có thể đi xa hơn trong việc hiểu, đặc biệt những chữ récit, métarécit, grand récit, petit récit.

Récit, tiếng Pháp nghĩa là lời kể miệng hoặc viết về những dữ kiện thực hay tưởng tượng (relation écrite ou orale de faits réels ou imaginaires). Như vậy, récit chỉ toàn bộ những điều viết hoặc nói về bất cứ vấn đề gì. Récit bao gồm tất cả mọi thể loại văn bản và phát biểu. Récit có thể là một câu văn, một lời nói, một câu chuyện kể, một câu thơ, một truyện ngắn, một truyện dài, một tiểu luận, một huyền thoại, một cổ tích, một lập thuyết triết học... và đó là nghĩa mà Lyotard sử dụng. Một chữ như vậy, không có trong tiếng Việt.

Récit thường được dịch sang tiếng Việt là tự sự, và métarécit, grand récit được dịch là đại tự sự, siêu truyện, vv... chính sự dịch này đã làm cho độc giả không thể hiểu nổi lý thuyết của Lyotard, bởi vì tự sự, trong tiếng Việt, nghiã hẹp quá, và Lyotard hầu như không dùng đến nghiã đó, còn đại tự sự, siêu truyện thì không có nghiã gì cả.

Trước hết, tự sự là gì?

Đào Duy Anh ghi: Tự sự là lối văn cốt bầy tỏ sự thực, cũng gọi là văn truyện ký (genre narratif).

Nguyễn Văn Khôn ghi:

1/Kể đầu đuôi việc gì.

2/Lối văn thuật sự thật.

Vậy tự sự chỉ có nghiã là truyện kể, không chuyên chở toàn bộ ý nghiã của chữ récit, nên không thể dùng để chỉ tất cả các nghiã của Lyotard trong các chữ: récit, métarécit, grand récit, petit récit, nhất là nghiã "lý thuyết triết học" là nghĩa mà Lyotard sử dụng nhiều nhất.

Chúng tôi đề nghị dịch récitvăn bản, để có thể bao gồm tất cả mọi thể loại như chữ récit, nhưng dịch như vậy, là ta đã đánh mất nghĩa nói trong chữ récit: bởi vì văn chương truyền khẩu cũng là récit. Vì vậy, chúng tôi sẽ dùng cả hai chữ: văn bản récit. Khi nào văn cảnh cho phép tìm đúng những chữ thích hợp để dịch récit, chúng tôi sẽ dịch bằng những chữ này. Lyotard dùng métarécit, để chỉ những lập thuyết lớn, như hệ tư tưởng thời Ánh sáng, hệ thống triết học Hegel, hệ thống triết học Karl Marx. Vì vậy grand récit, métarécit sẽ được dịch là siêu văn bản, hay lý thuyết lớn... nhưng không phải là cách dịch duy nhất, đôi khi Lyotard còn dùng métarécit, métadiscours trong nghĩa mỉa mai, châm biếm, chúng tôi sẽ tìm chữ khác tương ứng, tùy ngữ cảnh. Còn chữ petit récit, chỉ tất cả những cách lập ngôn ngắn, hoặc cực ngắn như: chữ, câu, lời, đoạn,... chúng tôi tạm dịch là văn bản nhỏ để đối chiếu với văn bản lớn (grand récit) hoặc vi văn bản để đối chiếu với siêu văn bản.

Mục đích của Lyotard là trình bầy tính cách áp đặt của các siêu văn bản trên các vi văn bản, các tư tưởng "lớn" trên các tư tưởng "nhỏ", nói nôm na là tình trạng cá lớn nuốt cá bé trong sinh hoạt tri thức của con người. Hậu hiện đại xây dựng trên sự đánh đổ những bất công này.

Légitime cũng là chữ hay được dùng trong lập thuyết Lyotard. Ông cho rằng những chế độ văn hóa và tư tưởng từ xưa đến nay, tranh nhau địa vị légitime, tức là tranh nhau cái thẩm quyền, cái địa vị chính đáng, chính thống, chủ yếu. Ví dụ những siêu văn bản như triết thuyết của Hegel hoặc triết học Mác-xít đã từng giữ địa vị chính thống, trong đời sống tư tưởng Tây phương nhiều thế kỷ. Chúng ta có thể kể thêm hệ tư tưởng Nho giáo cũng đã ảnh hưởng đời sống tinh thần Đông phương từ Khổng Tử đến ngày nay.

Jeux de langage thuật ngôn ngữ hay trò ngôn ngữ. Chữ của nhà triết ngữ học Wittgenstein để chỉ những quy tắc khác nhau trong cách lập ngôn. Ví dụ những kiểu nói, viết như: hỏi, kêu, tán thán, cầu khẩn, van lậy, xác định, phủ định, vv... đều có những luật lệ đặt câu khác nhau; y hệt như trò chơi cờ, có các phép: cờ tướng, cờ thí, cờ gánh, cờ hùm, cờ người... khác nhau, mỗi trò có bao nhiêu quân cờ, cách di chuyển như thế nào, sắp đặt quân cờ ra sao, vv... thuật ngôn ngữ hay trò ngôn ngữ cũng vậy.

 

 

Hành trình tư tưởng của Jean-François Lyotard (1924-1998)

 

Jean-François Lyotard sinh ngày 10/8/1924 tại Versailles mất ngày 21/4/1998 tại Paris. Đậu thạc sĩ (agrégé) triết học năm 1950, sau đó ông dạy trung học ở Constantine (Algérie) từ 1950 đến 1952. Trở thành trợ giáo tại Sorbonne năm 1959 và giảng viên đại học Paris X (Nanterre) năm 1966. Từ 1973, ông làm giáo sư ở Paris VIII và dạy một số đại học ở Mỹ. Trong khoảng thời gian 1984-1986, Lyotard kế vị Jacques Derrida trong ghế chủ tịch Viện triết học quốc tế (Président du collège international de philosophie) do Derrida sáng lập và làm chủ tịch từ 1983.

Ngay từ 1954, Lyotard đã gia nhập nhóm Chủ nghiã Xã hội hay dã man (Socialisme ou barbarie) do Lefort và Castoriadis và nhóm Đệ Tứ Quốc Tế thành lập năm 1949. Năm 1964, nhóm này tan rã, Lyotard cùng các chiến hữu xây dựng nhóm Quyền lực thợ thuyền (Pouvoir ouvrier) hoạt động đến 1966. Tại đại học Nanterre, 1968, Lyotard lúc đó là giảng viên, đã thúc đẩy Phong trào "22 Tháng Ba" (Mouvement du 22 Mars), là phong trào sinh viên nổi dạy chống sự "độc tài" của De Gaulle, khởi đầu cho cuộc "cách mạng văn hóa" mùa xuân năm 1968, tại Pháp, đưa đến sự từ chức của De Gaulle ngày 28/4/1969.

Là tác giả 34 tác phẩm triết học và văn học nhưng Lyotard không có chỗ đứng tương đương như Jurgens Habermas trong triết học hiện thời. Sách triết của ông không được giới hàn lâm chú ý. Điều kiện hậu hiện đại (La condition postmoderne) là cuốn sách đã làm ông nổi tiếng khắp thế giới, nhưng ít được độc giả chuyên môn Pháp quan tâm, sách do nhà Minuit (một nhà xuất bản phát hành số lượng giới hạn) in lần đầu năm 1979, hơn hai mươi năm sau, 2003 mới tái bản.

Những tác phẩm chính của Lyotard gồm có: Hiện tượng luận (La phénoménologie) (1954), Diễn ngôn, hình tượng (Discours, figure) (1971), Phiêu lưu từ Marx và Freud (Dérive à partir de Marx et Freud) (1973), Điều tiết nhục dục (Economie libidinale) (1974), Điều kiện hậu hiện đại (La condition postmoderne) (1979) và Bất đồng (Le différend) (1983).

Thời kỳ đầu, Lyotard chịu ảnh hưởng triết học Husserl và Merleau-Ponty, ông viết Hiện tượng luận (La phénoménologie) 1954. Gần 20 năm sau, trong cuốn Diễn ngôn, Hình tượng (Discours, Figure), 1971, Lyotard muốn vượt qua giới hạn của hiện tượng luận; ông dựa trên lý thuyết của Freud về những ham muốn không ý thức được trong vô thức của con người, để thiết lập một thứ "thẩm mỹ mang tính chất hình tượng" (beauté figurale) với những đặc tính: rời rạc, gián đoạn, không nối kết (non lié), man dại (sauvage) tiềm ẩn trong nghệ thuật hiện đại. Sau đó, ông phê phán triết học mác-xít và phân tâm học trong Lạc hướng từ Marx và Freud (Dérive à partir de Marx et Freud) (1973). Năm sau, trong cuốn Điều tiết nhục dục (Economie libidinale) (1974) ông dựa vào phân tâm của Freud về vấn đề tinh lực nhục dục (énergie libidinale) để đề xướng một thứ "siêu hình học tinh lực" (métaphysique énergétique). Rồi ông đề xướng thuyết Mỹ học hình tượng (Beauté figurale) để phân tích tác phẩm một số họa sĩ đương đại như Duchamp, Newman, Asami, Monory,  v.v... Đó là thời kỳ Lyotard còn gắn bó với triết học truyền thống, dùng cách biện luận trong các "siêu văn bản" của các triết gia mà năm năm sau, trong thuyết Hậu hiện đại (1979) ông sẽ đả phá hết mực.

Từ năm 1975, Lyotard đổi hướng, đột nhiên ông bỏ hẳn triết lý nhục dục, bởi vì, sau này chính ông thổ lộ, nó không cho phép ông đặt vấn đề với sự bất công, không cho phép ông điều tra về thân phận tri thức, chất vấn tính chính đáng của các lý thuyết lớn (grands récits).

Chịu ảnh hưởng nhà triết ngữ học Anh gốc Áo Wittgenstein, Lyotard quay sang nghiên cứu những récits (văn bản) và những jeux de langage (thuật ngôn ngữ, trò ngôn ngữ) -mà số lượng hằng hà, không thể liệt kê, tổng kết được- để có thể kéo chúng vào một đơn vị duy nhất dưới sự "điều khiển" của một thứ siêu ngôn ngữ (métalangue) hoặc siêu lý thuyết (métarécit) có tính cách toàn diện. Lyotard cho rằng nếu chấp nhận uy quyền của siêu văn bản là chấp nhận "sự khủng bố của tư biện" (la terreur spéculative) của lập luận thuần lý và ông cho đó là sự "bất công tuyệt đối". Hậu hiện đại chống lại những bất công ấy, chống sự "độc tài" của các lý thuyết trong các văn bản lớn (grands récits), siêu văn bản (métarécits), chủ trương bảo tồn và phát huy tính chất đa dạng của các thuật ngôn ngữ trong các văn bản nhỏ (petits récits) tức vi văn bản.

Hai cuốn sách tiêu biểu cho lập thuyết này, cũng là hai tác phẩm chính của Lyotard là Điều kiện hậu hiện đại (La condition postmoderne) (1979) và Bất đồng (Le différend) (1983). Chúng tôi sẽ giới thiệu với độc giả nội dung hai cuốn sách này.

 

 

Thuyết hậu hiện đại của Jean-François Lyotard

 

Lý thuyết hậu hiện đại của Lyotard nẩy mầm từ cuộc "cách mạng văn hóa" (phát xuất từ phong trào hippies ở Mỹ) đạt đỉnh cao tại Pháp mùa xuân 1968, mà Lyotard là một trong những giáo sư cùng với sinh viên, đã đóng góp tích cực, với mục đích đánh đổ tất cả những gì gọi là cổ hủ, cũ kỹ, có tính cách áp đặt, trong hệ thống chính trị quan liêu và giáo dục hàn lâm của Pháp dưới thời hai Tổng thống De Gaulle và Georges Pompidou. Khuynh hướng này sẽ mở rộng thành cuộc cách mạng toàn diện xã hội Pháp đương thời. Vì vậy, trọng tâm của lý thuyết hậu hiện đại này gắn bó với hoàn cảnh lịch sử đặc biệt của Pháp thập niên 1970-1980. Tác giả đã dành một phần quan trọng để đả phá nền giáo dục hàn lâm tại Pháp, chỉ có mục đích đào tạo ra những thành phần tinh hoa, để quản trị xã hội và phục vụ giai cấp lãnh đạo.

Trong không khí "cách mạng văn hoá", đòi tự do, tiến bộ và cần phải sản xuất ra "cái mới", cho nên người ta tìm cách sáng chế những chủ đề tân kỳ, những chữ tân tạo, để chứng minh tất cả những gì thuộc "chế độ cũ" đều đã quá đát, "phản tiến bộ". Từ bối cảnh ấy, cuốn Điều kiện hậu hiện đại (La condition postmoderne) của Lyotard ra đời, do nhà xuất bản Minuit, in tại Paris, 1979. Đây là một cuốn sách triết học bàn về thân phận tri thức (condition du savoir) thời nay, thời mà khoa học và tin học đã nắm "chủ quyền tuyệt đối" trên mọi lãnh vực thông tin và tri thức (savoir) trở thành một món hàng thương mại.

 Cuốn Điều kiện hậu hiện đại, dựng trên chủ đích này và mở rộng thành một lý thuyết, để:

- Đả phá sự phát triển của tin học, làm tha hoá số phận của tri thức, đưa đến tình trạng chỉ những gì số hoá được mới sống còn, những gì không số hoá được sẽ bị sa thải.

- Đả phá lập luận khoa học, tự coi mình là chính thống, là chủ thể phán xét đúng, sai.

- Đả phá triết học Tây phương từ Thượng cổ đến ngày nay, chủ yếu là những siêu lý thuyết (métatrécit), như triết học Platon, triết học Hégel, triết học Descates... đã áp đặt quyền chính thống của tư tưởng lên sinh hoạt tri thức của mọi thế hệ, ngay từ trong học đường.

- Đòi hỏi sự bình đẳng giữa siêu văn bản (métarécit) và vi văn bản (petit récit): cái lớn, cái nhỏ trong văn chương và tư tưởng đều có quyền sống như nhau.

- Biện hộ cho mọi quyền phát biểu, kể cả quyền ngộ luận (nói sai).

Cuốn Bất đồng, đi sâu vào địa hạt ngôn ngữ, đưa ra một số đề nghị thực sự tân kỳ:

- Tìm ra tính chất bất đồng của ngôn ngữ.

- Đề xuất những đặc ngôn (idiome) mà nội dung chứa đựng sự bất đồng. Sau này, những đặc ngôn của Lyotard sẽ được người ta đưa vào "chủ nghiã hậu hiện đại", coi như lối sáng tác mẫu mực của "chủ nghiã hậu hiện đại" và được người Việt hiểu là truyện thật ngắn.

- Cho rằng cuốn Bất đồng là cuốn sách sau cùng được in ra, và tiên đoán một thứ "sách" mới cho tương lai trong thế kỷ XXI: "sách" sẽ là một cuốn phim, một mảng tin, một cuộc phỏng vấn, trên truyền thanh, truyền hình, màn ảnh...

Lý thuyết của Lyotard không phát triển được ở Pháp. Chữ hậu hiện đại rất ít được nói đến, đôi khi chỉ được dùng trong ngoặc với nghiã mỉa mai.

Ngược lại, thuyết hậu hiện đại của Lyotard, sau khi ra đời khoảng mười năm, được quảng bá ở Mỹ, rồi trở thành hiện tượng phổ biến toàn cầu, nhờ ảnh hưởng rộng lớn của tiếng Mỹ và tin học trên toàn thế giới.

Lập luận của Lyotard, thoát thai từ nền tảng triết học của Nietzsche (chống lại những giá trị phổ quát, đòi hỏi sự hiện hữu của những giá trị cá nhân), dựa trên hai điểm: Một mặt gắn liền với luận cứ của Hegel về sự hoàn tất lịch sử ở thời hiện đại và mặt kia với sự suy tàn của những tư tưởng hướng về một tương lai giải phóng con người. Nói cách khác, Lyotard muốn đả phá những ý thức hệ (trong quá khứ và hiện tại) có tham vọng giải phóng con người.

Theo Lyotard, chúng ta đang sống trong thời hậu hiện đại, thời mà tất cả những lý thuyết có từ thời Ánh sáng[2] đều đã bị đổ vỡ và xã hội tin học đã biến đổi vận mệnh của tri thức. Cuốn sách của ông có tiểu tựa: Báo cáo về tình hình tri thức (Rapport sur le savoir); tất nhiên là tình hình trí thức trong xã hội hiện hành, thập niên 1970-1980.

Theo ông, tri thức trước đây, ở thế kỷ Ánh sáng cũng như dưới thời Mác-xít, được hiểu như một sứ điệp truyền bá tư tưởng giải phóng con người, hoặc như một lý tưởng bất vụ lợi. Tri thức bây giờ, ở thời đại tin học này, đã trở thành món hàng tiêu dùng, buôn bán, cung cấp lợi nhuận như những hàng hóa khác, nó đã thoát khỏi bản quyền của con người.

Lập luận này gặp sự đồng cảm nơi triết gia Đức Jurgens Habermas, trong bài tham luận Hiện đại: một dự trình dang dở (La modernité: Un projet inachevé) (1980); sau Habermas mở rộng thành những chuyên luận trong khuôn khổ đọc lại triết học, từ Nietzsche: Trường triết lý về hiện đại (Le discours philosophique de la modernité) (1985) Tư tưởng hậu siêu hình (La pensée post métaphysique) (1989).

 

Nhìn lại quá trình nguồn gốc danh từ postmoderne như thế, chúng ta cần phải thận trọng hơn khi dùng chữ hậu hiện đại, hoặc khi đem tác giả này, tác giả kia xếp vào "chủ nghĩa hậu hiện đại". Cần phải chú ý đến điểm: Lyotard dùng chữ Postmoderne mà không dùng chữ Postmodernisme, bởi vì lập thuyết của ông chống lại các lập thuyết lớn (grands récits, métarécits) tức là các thứ "isme" mà người ta thường dịch là "chủ nghĩa".

 

Tóm lại có ba thứ hậu hiện đại:

1- Phong trào đổi mới văn học ở Tây Ban Nha và Châu Mỹ La-Tinh (1905-1914).

2- Phong trào văn chương avant-garde của những nhà văn Mỹ, tác phẩm mang những yếu tố tân kỳ, quái đản, như John Barth, Donald Berthelme, Robert Coover, William Gass, John Hawkes, Kurt Vonnegut...

3- Lý thuyết hậu hiện đại của Jean-François Lyotard.

Đó là ba yếu tố hoàn toàn khác nhau. Vậy sự nhầm lẫn vô tình hay cố ý, đã đến từ việc trùng tên hậu hiện đại, của hai khái niệm khác nhau: phong trào văn chương avant-garde ở Mỹ và lý thuyết triết học của Lyotard.

Ngoài ra, Lyotard tránh né những định nghĩa và chủ nghĩa, bởi khi nói đến chủ nghĩa là phải xác định một lập thuyết chính xác, với những tuyên ngôn, và đó chính là những cái mà Lyotard gọi là métarécit, grand récit (siêu văn bản, văn bản lớn) mà ông muốn đánh đổ.

 

 

Định nghĩa hậu hiện đại

 

Trong cuốn Đúng ra (Au juste) viết cùng với Thébaud, in năm 1979, Lyotard đã trình bày lập thuyết: muốn đánh đổ sự "độc tài" của những siêu văn bản, siêu ngôn ngữ, biểu trưng sự "bất công tuyệt đối" thì phải bảo tồn tính chất đa dạng của các "thuật ngôn ngữ" trong các tiểu văn bản. Cuốn Điều kiện hậu hiện đại (La condition postmoderne) đặt quan điểm này trong bối cảnh lịch sử hiện đại và hậu hiện đại, tiếp tục khai triển lập thuyết này và coi nó như một nền móng, một điều kiện sống còn của tri thức trong xã hội hiện tại.

 

1- Định nghiã 1: Lyotard tránh định nghiã trực tiếp danh từ hậu hiện đại, ông tìm cách chỉ định nó một cách gián tiếp. Trong phần mở đầu, Lyotard xác định mục đích của cuốn sách bằng những dòng:

"Chuyên luận này có đối tượng là thân phận của tri thức trong những xã hội phát triển nhất. Chúng tôi quyết định gọi nó là "hậu hiện đại" (Cette étude a pour objet la condition du savoir dans les sociétés les plus développées. On a décidé de la nommer "postmoderne")[3].

Đó là "định nghĩa" đầu tiên về postmoderne của Lyotard: postmoderne là thân phận của tri thức trong những xã hội phát triển nhất. Rồi ông giải thích tiếp: Chữ postmoderne, đã được các nhà xã hội học và phê bình văn học sử dụng ở châu Mỹ, nó chỉ định tình trạng của văn hóa sau những biến đổi đã ảnh hưởng đến những quy định khoa học và văn học nghệ thuật từ cuối thế kỷ XIX.

Lyotard muốn nói đến nhà phê bình văn học Tây Ban Nha, F. de Onis, năm 1934, trong Tuyển tập thi ca Tây Ban Nha và Châu Mỹ la tinh đã dùng danh từ postmoderne để chỉ định tình trạng vượt qua chủ thuyết hiện đại (modernisme) thời kỳ (1905-1914).

Vậy ông không "để ý" hay ông chưa tiếp cận được với phong trào Hậu hiện đại của các nhà văn Mỹ, mà những tác phẩm chủ yếu chỉ xuất hiện khoảng năm 1966, trở đi.

Và Lyotard xác định rõ: Ở đây, chúng tôi [Lyotard] chỉ muốn khoanh tròn vấn đề trong bối cảnh khủng hoảng récits mà thôi, và ông lập luận rằng: Khoa học, tự nguồn, đã xung đột với récits (truyện kể). Nó dùng những chuẩn mực cũ kỹ để xếp các loại truyện kể vào chung một rọ, thoát thai từ những cổ tích hoang đường.

 

2- Định nghiã 2: Theo Lyotard, khoa học tự định lấy quy luật, tự dựng tiêu chuẩn, tự khoác lên mình lớp áo chính danh (légitime) gọi là triết học, và khi những phát ngôn tối cao (métadiscours) này lại dựa vào những đỉnh cao luận thuyết (métarécit) như Biện chứng tinh thần (La dialectique de l'esprit) hay Giải luận giác quan (L'herméneutique du sens)  v.v... thì người ta gọi đó là hiện đại (moderne). Người ta đã chính thống hóa tri thức bằng một thứ luận thuyết tối cao (métarécit) được coi như triết lý của lịch sử. Và như thế, công lý đã đồng hóa luận thuyết lớn (grand récit) với chân lý (la vérité).

Lyotard viết: "Nói một cách giản dị nhất, chúng tôi coi "hậu hiện đại" là sự không tin vào những luận thuyết lớn" (En simplifiant à l'extrême, on tient pour "postmoderne" l'incrédulité à l'égard des métarécits)[4]. Đó là "định nghĩa" thứ nhì về postmoderne của Lyotard.

Tóm lại, Lyotard đưa ra hai định nghĩa dựa trên hai tính chất hậu hiện đại khác nhau:

- "Hậu hiện đại là thân phận của tri thức trong những xã hội phát triển nhất".

- "Hậu hiện đại là sự hoài nghi các siêu văn bản".

Cuốn Điều kiện hậu hiện đại trình bầy hai hàm ý này.

Tác phẩm đưa ra 4 tiêu đề chính:

a/ Trình bầy số phận tri thức trong các xã hội vi tính hóa.

b/ Chứng minh tính cách áp đặt của khoa học đối với récit trong quá khứ và hiện đại.

c/ Hậu hiện đại là tình trạng truất thẩm quyền các siêu văn bản và sự hiện hữu của các vi văn bản.

d/ Khoa học hậu hiện đại dựa trên việc nghiên cứu những bấp bênh, để cho những cái gọi là sai, cũng sẽ được quyền sống như những cái được gọi là đúng.

 

Đây là một tác phẩm triết học mà tác giả trình bày chặt chẽ dòng tư tưởng chủ lưu của mình: Đả phá những hệ thống lập thuyết lớn. Tố cáo tình trạng khoa học -dựa trên những phương pháp luận cứng ngắc- tự xem mình là chính danh, để phán xét đúng, sai một cách máy móc. Tác giả phê phán "văn minh vi tính" đã giúp cho đường lối chính thống này phát triển: cái gì được số hóa (numériser, digitaliser) để đưa vào máy tính sẽ được giữ lại, cái gì không số hóa được sẽ bị đào thải. Lyotard biện hộ cho sự bình đẳng giữa những cái "lớn" và cái "nhỏ", giữa những lý thuyết lớn, nhỏ, giữa những truyện lớn, truyện nhỏ, giữa những văn bản lớn, văn bản nhỏ, bằng một lập thuyết đi từ sự khảo sát bản thể của ngôn ngữ. Điều ông đòi hỏi là quyền sống của những cái mà ông gọi là văn bản nhỏ.

Ở phần mở đầu, Lyotard đã đưa ra hai định nghiã hậu hiện đại, như đã thấy ở trên. Trong chương một, Lyotard khoanh vùng phạm vi khảo sát trong "số phận tri thức trong những xã hội vi tính hóa" và ông xác định "thời điểm" hậu hiện đại, như sau:

 "Giả thiết làm việc của chúng tôi là tri thức đã thay đổi quy chế, từ khi xã hội đi vào thời điểm được gọi là hậu kỹ nghệ và văn hóa đi vào tuổi được gọi là hậu hiện đại. Ở châu Âu, sự chuyển tiếp này, ít ra, đã bắt đầu từ cuối thập niên 50, đó là thời kỳ hoàn tất kiến thiết châu Âu sau thế chiến"[5].

 Tới đây, chúng ta thấy Lyotard đã xác định thời điểm hậu hiện đại: thời kỳ được ông gọi là hậu hiện đại, bắt đầu từ cuối thập niên 50, ở Âu châu, thời kỳ mà tri thức bắt đầu thay đổi quy chế.

Nói khác đi, đối với Lyotard, trước năm 1960, là thời hiện đại và sau năm 1960, là thời hậu hiện đại. Tại sao Lyotard lại dùng thập niên 50 làm mốc? Ngoài lý do ông đã nói: là thời kỳ Âu châu hoàn tất kiến thiết, sau chiến tranh; còn có một lý do nữa, ông không nói ra, hoàn toàn có tính cách cục bộ: bởi vì ở thời điểm đó, nước Pháp đang phát triển kỹ nghệ rất mạnh và ở trong tình trạng mở mang lớn.

 

Tóm lại, Hậu hiện đại được Jean-François Lyotard đưa ra hai định nghiã khác nhau: 1/Hậu hiện đại là thân phận của tri thức trong những xã hội phát triển nhất 2/Hậu hiện đại là sự hoài nghi các siêu văn bản. Ông xác định hậu hiện đại bắt đầu từ cuối thập niên 1950 và trước đó là hiện đại.

Sau đây là những vấn đề chính được bàn trong tác phẩm Điều kiện hậu hiện đại.

 

 

Thân phận tri thức

Theo Lyotard, từ cuối thập niên 50 trở đi, những phương pháp khoa học và kỹ thuật sắc sảo và tân kỳ nhất đều dựa trên căn bản ngôn ngữ, đặc biệt ngữ âm học và các lý thuyết về ngữ học, hoặc sự dịch thuật và chuyển tải ngôn ngữ thông thường sang ngôn ngữ máy móc, hay vấn đề lưu trữ các kho dữ kiện và truyền thông tin học, vv. Qua những chuyển thể này, bản chất tri thức (savoir) không còn nguyên vẹn nữa. Ngoài ra, một kiến thức (connaissance) chỉ được đưa vào kênh truyền thông và "dùng được" nếu người ta có thể "phiên dịch" hay số hóa thành thông tin. Như vậy, chắc chắn một phần tri thức (phần không thể số hóa được) sẽ bị bỏ rơi, và hướng đi của nền nghiên cứu mới, trong thời đại tin học, sẽ tùy thuộc vào sự số hóa. Với độc quyền của tin học, thì chỉ có một thứ "tri thức" được chấp nhận, được thực sự ngự trị, được chính thức hóa, qua ngả tin học[6].

Theo Lyotard, sự kiện này dẫn đến hiện tượng: người ta đã khai trừ sự hiểu biết [tức tri thức] ra khỏi người biết, đến nỗi kẻ biết có thể bị truy tố về kiến thức của mình. Lyotard muốn nói: người sáng tạo không còn "làm chủ" được những gì mình sáng tạo ra, mà sẽ phải tùy thuộc vào hệ thống số hoá. Tri thức như thế, có thể trở nên một sản phẩm trao đổi, mua bán, tiêu thụ, theo quy mô sản xuất mới, trong đó tri thức sẽ không còn là cứu cánh của chính nó, đồng thời nó cũng mất luôn cả giá trị sử dụng.

Lyotard cho rằng: trong thời điểm hậu kỹ nghệ, hậu hiện đại này, khoa học phát triển trong lòng những bộ máy sản xuất của các quốc gia, và như thế tri thức hơn lúc nào hết, trở thành phương tiện tốt nhất để đạt thành quả tối đa, lợi tức tối đa. Trong sự thương mại hóa tri thức toàn cầu này, nước nào nắm được phương thức sản xuất và truyền bá tri thức mạnh nhất, sẽ làm chủ trái đất. Do đó, vấn đề tri thức, ở thời buổi tin học, hơn lúc nào hết, vẫn nằm trong tay nhà cầm quyền[7].

Theo Lyoyard, xã hội hiện đại trước đây được chia làm hai mô hình:

- Xã hội cơ khí, kiểu Talcott Parsons[8] dựa trên thành tích và lợi nhuận để phát triển.

- Xã hội Mác-xít dựa trên nguyên tắc đấu tranh giai cấp để giải phóng con người.

Sự thất bại của hai mô hình xã hội này mà lý thuyết dựa trên phương pháp luận thế kỷ XIX, đưa đến câu hỏi: Thân phận tri thức trong xã hội kỹ nghệ tân tiến ra sao? Và ông trả lời:

Tri thức chỉ có giá trị khi nó không dính liền và hòa tan với bộ máy khổng lồ của xã hội mà phải là một nguyên tắc phản đối. Nói cách khác, tri thức phải tự lựa chọn một trong hai con đường: đồng nhất hay đối đầu, vận hành [xã hội] hay phê phán [xã hội]. Những quyết định thường rất khó, hoặc bất kỳ, tùy tiện. Muốn thoát khỏi tình trạng này, người ta tìm cách phân biệt hai loại tri thức: một loại tích cực, có thể sử dụng trong những kỹ thuật sản xuất; và một loại có tính cách phê phán hay dẫn giải, có nhiệm vụ kiểm tra những "giá trị", những "mục đích", và ở vị thế đó, nó là trở lực cho tất cả mọi hình thức lạm dụng tư tưởng.

Theo Lyotard, đó là đại lược bộ mặt tri thức hiện đại.

 

 

Nguyên tử hoá xã hội

Lyotard không chấp nhận trạng thái hiện đại này và ông đưa ra viễn ảnh hậu hiện đại: hậu hiện đại phủ nhận giải pháp "chia đôi tri thức" nói trên, bởi vì giải pháp này dựa trên sự chia rẽ, đối lập, đương đầu, không phù hợp với cách sống hậu hiện đại.

Ảnh hưởng triết ngữ học Wittgenstein và cấu trúc luận Lévi-Strauss, Lyotard đề nghị cách tiếp cận xã hội như tiếp cận ngôn ngữ, ông cho rằng xã hội có cấu trúc như cấu trúc ngôn ngữ. Liên hệ xã hội cũng là liên hệ ngôn ngữ [Lévi-Strauss].

Lyotard đặt vấn đề "nguyên tử hoá xã hội" như sau: mỗi người là một "nguyên tử" của xã hội, những nguyên tử người này luôn luôn ở vị trí đứng giữa bùng binh, tiếp nhận và trả lời những thông điệp ngôn ngữ từ khắp nơi gửi về. Sống là đối thoại, và mỗi cặp đối thoại tác động với nhau như hai đấu thủ trên một võ trường. Mỗi đối tác sẽ phải chịu đựng những cú (coup) đánh trực tiếp, khiến đương sự phải dao động: những nói ra sẽ bị những phản hồi. Đấu trường ngôn ngữ chính là hình ảnh của mối liên hệ xã hội. Muốn giữ được thế thượng phong, các đấu thủ phải tạo được những cú đánh mới (tức là những phát biểu mới) hoàn toàn bất ngờ. Đó là cách làm thay đổi bộ mặt xã hội mà những nhà xã hội học, ngữ học, triết ngữ học đã đề cập đến[9].

Sự "nguyên tử hóa xã hội thành những hệ thống uyển chuyển của các thuật, các trò ngôn ngữ" là một trong những điều kiện của hậu hiện đại, được Lyotard xem như một phương thuốc điều trị bệnh quan liêu của thời hiện đại.

Theo ông, nếu muốn chữa chứng bệnh quan liêu, cứng ngắc của thời quá khứ và hiện đại mà xã hội được biểu hiện qua những siêu luận thuyết (métarécit) trong đó con người được xác định dưới những nét phổ quát của cái ta, thì triệt để không thể chấp nhận cái ta bao trùm lên tất cả đó: không có một thứ phát ngôn nào có thể gọi là phổ quát cho tất cả mọi người. Bởi vì, xã hội dệt trên một mạng lưới gồm muôn vàn những phát ngôn hay những vi văn bản, trong những thuật ngôn ngữ khác nhau. Xã hội chỉ được gọi là "hậu hiện đại" với điều kiện nó phát huy tính chất đa dạng, tính chất vô lượng, không thể đếm được của vi ngôn ngữ. Vi ngôn ngữ hay vi văn bản (petit récit), tức văn bản nhỏ, tức đoản ngôn, và ông sẽ đặt tên là đặc ngôn, sau này được hiểu sang tiếng Việt là truyện thật ngắn.

Tóm lại, phải tạo ra một trật tự mới, trong đó tất cả mọi thuật ngôn ngữ đều có quyền hiện diện, cả cái quyền ngộ luận (paralogie) tức là nói sai cũng phải được tôn trọng[10].

 

 

Thực chất của tri thức récit

Lyotard cho rằng: căn bệnh trầm trọng trong quá khứ và hiện đại là bệnh thẩm quyền, cũng là vấn đề chính thức hóa hay chính thống hóa tri thức.

Thủ phạm hàng đầu gây ra bệnh này là khoa học. Để chữa bệnh ấy thì phải tìm hiểu và phân biệt tận nguồn: thế nào là tri thức récit? tức tri thức văn chương và thế nào là tri thức khoa học? Tại sao khoa học lại tự cho mình cái thẩm quyền phán đoán, tự đưa ra những hệ thống lập luận để giám định cái đúng, cái sai của récit, trong khi récit (văn chương) không có tham vọng phán đoán ai hết.

Để trả lời câu hỏi này, Lyotard đã mô tả những đặc điểm của tri thức trần thuật (savoir narratif). Ông giới hạn truyện kể trong trường hợp văn chương bình dân: cổ tích hoặc truyền khẩu, và bàn đến tính chất thực dụng của tri thức truyện kể. Theo ông, truyện kể đã có vai trò quan trọng trong sự hình thành tri thức cổ truyền: Truyện bình dân, cổ tích, tự chúng đã mô tả những nét tiêu cực hay tích cực của xã hội, phản ánh những gì được chế độ xã hội chính thức công nhận. Hình thức truyện kể, khác với những hình thức phát biểu khác của tri thức: bởi vì truyện kể, tự nó đã đa dạng, hàm chứa nhiều thuật ngôn ngữ khác nhau. Qua các cách xếp đặt câu văn, lời ăn tiếng nói, tự nó đã có tính cách biểu thị toàn diện xã hội. Ngoài ra, sự truyền đạt truyện bình dân, luôn luôn tuân theo những quy luật xác định đời sống thực tế của xã hội mà truyện ấy xuất phát. Ví dụ người Cashinahua (thổ dân Châu Mỹ La-Tinh) kể chuyện bao giờ cũng bắt đầu bằng câu: "Đây là chuyện của... tôi vẫn được nghe như thế, và bây giờ tôi sẽ kể cho bạn, bạn hãy lắng nghe..." và kết luận bằng câu: "Đến đây chấm dứt chuyện của... Người đã kể cho bạn nghe tên là..." Cách kể chuyện như thế cho thấy người kể chuyện (dù chuyện do anh ta bịa ra) cũng cứ nói: đây là chuyện anh ta nghe được và kể lại, nhân vật chính có thể là người kể (và cũng là người nghe), và người đang nghe cũng sẽ là người kể (trong tương lai)... do đó, người kể, người nghe, nhân vật, có thể cùng kiêm một nhiệm vụ. Điều này xác định triết lý sống và mối tương quan xã hội của người Cashinahua: Biết nói, biết nghe và biết hành động. Đó là bản chất tri thức xã hội Cashinahua trong đời sống cộng đồng và chỉ cần qua cách họ kể truyện ta cũng có thể biết được. [Đoạn này chịu ảnh hưởng sâu đậm nhân chủng học cấu trúc của Lévi-Strauss].

Theo Lyotard, khía cạnh chót và quan trọng nhất của văn chương truyền khẩu là sức tác động trên thời gian. Những hình thức truyền khẩu [như ca dao, tục ngữ, hát ví, hát vè, hát ru, hát bè trẻ con, đánh đồng, đánh chắt] thường tuân theo một lề luật, một tiết điệu đặc biệt, phù hợp với lễ nghi hoặc sự tích, điển cố nào đó, đã có từ xưa, thời điểm câu hát xuất phát. [Ví dụ trong tiếng Việt, như: "nu na nu nống, cái cống nằm trong, con ong nằm ngoài,..." hoặc "chi chi chành chành, cái đanh thổi lửa, con ngựa chết chương,.."]. Những récit (lời hát) này đã gắn bó với một tích xưa, đối với chúng ta trở thành vô nghiã hay khó hiểu như những câu thần chú, thế mà người ta vẫn nhớ và truyền tụng, tại sao? Lyotard cho rằng sở dĩ chúng được truyền từ đời này sang đời khác, vì chúng có nhịp điệu (mètre) vượt lên trên giọng điệu (accent), tức là khi chúng đạt tới một nhịp thuận tai nào đó, thì thời gian sẽ mất hiệu nghiệm trên chúng: Thời gian không xóa bỏ chúng (vì vô nghiã) nữa, mà lại đồng lõa, ngăn cản bộ nhớ tập thể đưa chúng vào quên lãng. Những câu hát ấy, thay vì bị thời gian tiêu diệt thì chính chúng lại tiêu diệt thời gian, để trường tồn. Những trường hợp truyền khẩu như vậy chứng tỏ: một lời hát tức là một vi văn bản có khả năng tự chính thức hóa lấy mình qua ngả dân gian, để tồn tại[11].

 

 

Tri thức khoa học

Nếu tri thức văn chương (truyền khẩu) có khả năng vượt thời gian qua ngả dân gian, thì Lyotard chứng minh rằng tri thức khoa học, ngược lại, không đi qua ngả chính thức hóa dân gian ấy, mà nó tự chính thức hóa bằng biện pháp khai trừ.

Một phát biểu văn chương ai cũng có thể đọc, nghe, bàn cãi... Nhưng một phát biểu khoa học, thì cả người nói lẫn người nghe đều phải có cùng một trình độ: người không có "thẩm quyền" (hay trình độ) khoa học thì không thể bàn chuyện khoa học được.

So sánh thực tế khoa học với thực tế văn chương, Lyotard đưa ra 5 điểm khác biệt sau đây:

1/ Tri thức khoa học không công nhận các thuật, các trò ngôn ngữ; phương pháp của nó là loại trừ. Một phát biểu khoa học chỉ được công nhận là đúng qua ngả biện luận và chứng minh. Nhà bác học là người tìm ra một phát biểu đúng và loại trừ những phát biểu khác.

2/ Tri thức khoa học khai trừ các thuật ngôn ngữ mà sự hòa hợp tạo nên mối tương quan xã hội. Ở tri thức khoa học chỉ có sự hòa hợp giữa giới chuyên môn, khoa bảng. Một cá nhân bình thường, không thể đạt được "thẩm quyền khoa học".

3/ Ngay cả trong nghiên cứu, thẩm quyền chỉ dành cho một người: người phát biểu mà thôi.

4/ Nhưng một phát biểu khoa học, dù đã được chính thức công nhận, vẫn có thể bị xét lại: Cái gọi là tri thức khoa học hôm nay, có thể bị những phát biểu ngày mai lật đổ.

5/ Tri thức văn chương, không đòi hỏi phải được chính thức công nhận, qua ngả thực nghiệm và chứng minh, tức là nó không đòi hỏi sự chính thống hóa đến tự bên ngoài: Tri thức văn chương, nhất là văn chương truyền khẩu, tự vượt thời gian, tự chính thức hóa lấy qua ngả dân gian. Nó coi sự không hiểu các vấn đề khoa học là bình thường, và coi tri thức khoa học như một khía cạnh khác trong gia đình tri thức văn hóa nói chung. Khoa học, ngược lại, không như thế. Nhà khoa học tra khảo tính cách đúng đắn của récit, đặc biệt các truyện thần thoại, cổ tích, vv... và thấy chúng không trải qua các giai đoạn lý luận và thử nghiệm, bèn xếp chúng vào loại bán khai, kém phát triển, hủ lậu, vong thân, phát xuất từ dư luận, phong tục, thành kiến, dốt nát, không tưởng... Những truyện cổ tích đối với khoa học chỉ là những thần thoại, hoang đường, để "đàn bà con nít" nghe và đọc. Người ta tìm cách rọi "ánh sáng khoa học" vào những "tối tăm" ấy để văn minh hóa chúng, giáo hóa chúng, làm cho chúng "phát triển". Sự bất bình đẳng này xuất phát từ quan niệm "khai phá" của cái gọi là đế quốc văn hóa (impérialisme culturel) Tây phương, tự cho mình quyền cầm đầu, quyền chính thống[12].

 

 

Sự chính thống hoá tri thức khoa học trong các siêu văn bản

Mặc dù khoa học chối từ récit, khinh bỉ các loại văn chương truyện kể nói chung, nhưng vẫn không ngần ngại sử dụng chúng. Ví dụ: một nhà bác học, vừa phát minh ra cái gì đó, sẽ được các đài phát thanh, truyền hình phỏng vấn. Ông nói gì trên đài? Ông không thể nói về nội dung khoa học mà ông vừa phát minh cho khán thính giả nghe. Nói thế chẳng ai hiểu gì cả. Ông bắt buộc phải thuật lại, rằng ông đã phát minh ra làm sao, trong điều kiện nào, tức là ông phải kể một chuyện, và ông phải dùng tri thức trần thuật để quảng bá công việc của mình. Hơn nữa, ông còn phải dùng récit (văn bản) để viết bài thuyết minh công trình nghiên cứu, ấy là chưa kể, ông lại còn phải viết thư tức là dùng đến văn bản để xin ngân quỹ thực hiện...

Theo Lyotard, những tác phẩm như Đối thoại (Les dialogues) của Platon hoặc Phương pháp luận (Discours de la méthode) của Descartes, là những bằng chứng hùng hồn về sự dùng văn bản để chính thức hóa tri thức khoa học. Tiêu biểu nhất là bộ Bách khoa toàn thư về khoa học triết lý Encyclopédie des sciences philosophiques của Hegel, in năm 1817. Bộ sách này trình bầy một cách có hệ thống học thuyết của Hegel, được in cho sinh viên đại học dùng. Cách chính thống hóa một hệ tư tưởng như thế, Lyotard gọi là tinh thần tư biện (esprit spéculatif) trong đại học: đem một siêu văn bản ra để giáo hóa quần chúng. [Điều này tương tự như ở phương Đông với học thuyết Nho giáo].

Hậu hiện đại chống lại sự chính thống hóa các "siêu văn bản" như thế và đề nghị một hướng đi khác dựa trên sự truất phế thẩm quyền của khoa học và do đó của các siêu văn bản.[13]

 

 

Truất phế thẩm quyền khoa học

Lyotard cho rằng: dự định truất phế thẩm quyền khoa học đã nhen nhúm từ cuối thế kỷ XIX, với mầm mống hoài nghi phát xuất ngay trong lòng những siêu văn bản: Hegel, trong khi biện luận đã ngấm ngầm thú nhận ông hoài nghi kiến thức thực nghiệm: Khoa học thực nghiệm không phải là một tri thức. Biện chứng pháp muốn bác bỏ nó.

Biện chứng pháp hoài nghi tri thức khoa học và chứng minh rằng tri thức này chỉ xứng đáng là tri thức, nếu người ta chấp nhận tiền đề của nó mà thôi. Ví dụ câu: "Một phát biểu khoa học chỉ được xem là tri thức, nếu nó nằm trong một quá trình phát sinh chung, và chỉ như thế mà thôi"[14]. Câu này chỉ có giá trị nếu người ta chấp nhận tiền đề "có một quá trình phát sinh chung". Tiền đề này là điều kiện tối hậu cho bất cứ một phát biểu, một biện chứng khoa học nào. Không có tiền đề thì không thể có biện chứng, khoa học rơi vào chỗ vô nghĩa.

Lyotard lập luận tiếp: nhưng nếu người ta hiểu tiền đề theo một nghĩa hoàn toàn khác, tức là trong bối cảnh hậu hiện đại, thì nó lại có thể chấp nhận được và ông đề nghị "tiền đề trong nghĩa hậu hiện đại là một nhóm quy luật phải chấp nhận để chơi trò biện chứng"[15] Lyotard muốn kéo khoa học và biện chứng khoa học xuống ngang hàng với những trò ngôn ngữ khác, ông viết: "Khoa học giữ vị trí riêng của mình trong cuộc chơi, nó không có thẩm quyền gì cả trên các trò ngôn ngữ khác"[16]. Và theo ông, tất cả những trò ngôn ngữ có lượng số vô tận, đã dệt nên mối tương quan xã hội: vô vàn cách nói, cách viết, cách lập ngôn khác nhau tạo nên những luật chơi khác nhau, trong ngôn ngữ loài người.

Lyotard lấy lại câu nói của Wittgenstein để ví ngôn ngữ của chúng ta như một thành phố đã có từ xưa; tất cả những đường cong ngõ quặt, phố nhỏ phố lớn, nhà này nhà khác, đời này đời khác... chen chúc nhau; có những chữ mới đến thay chữ cũ như những nhà mới dựng trên những nền móng đổ nát, điêu tàn... Và bây giờ, ngoài tiếng người, còn có những ngôn ngữ khác như ngôn ngữ máy móc, ngôn ngữ điện tử... nữa. Vì vậy, theo ông, không thể xác định một luật chung nào cho "các mái nhà ngôn ngữ", cũng như không thể có một thứ "siêu ngôn ngữ" bao trùm lên tất cả. Do đó, không thể lấy một thứ mốc, một thứ định đề khoa học nào để quyết định cái đúng, cái sai, trong văn chương. Cũng không thể dùng lợi nhuận, hoặc căn cứ vào thành tích, tiêu chuẩn để đánh giá văn chương[17].

Đối với Lyotard, ngành giáo dục, từ trước đến nay, vẫn dựa trên những tiêu chuẩn của siêu văn bản (tức là những sách kinh điển) để đào tạo những tinh hoa (élite) có nhiệm vụ quản trị xã hội. Hậu hiện đại không chấp nhận giải pháp đó. Hậu hiện đại đề nghị một hướng đi mới, trong đó vi văn bản có thể nẩy nở, phát triển, trong điều kiện bình đẳng với siêu văn bản.

Khoa học hậu hiện đại sẽ là sự nghiên cứu những bấp bênh, vô thường của đời sống. Ở đây không còn khái niệm đúng, sai, có thẩm quyền, vô thẩm quyền, mà lớn, nhỏ đều có thẩm quyền trong mỗi địa hạt, mỗi thuật ngôn ngữ khác nhau. Ngộ luận cũng là một thẩm quyền. Bất đồng ý kiến cũng là một thẩm quyền.

Tác phẩm Điều kiện hậu hiện đại chất dứt ở đây và tác phẩm Bất đồng (Le différend) tiếp nối, Lyotard chứng minh tính chất bất đồng trong ngôn ngữ và đòi hỏi phải tôn trọng sự "bất đồng" như điều kiện sống còn của ngôn ngữ.

 

 

Tác phẩm Bất đồng (Le différend)

Bất đồng (Le différend) xuất hiện năm 1983, đào sâu lý thuyết hậu hiện đại và trình bày những đoản ngôn (fragment) dưới tên đặc ngôn (idiome) như hình thức sáng tác dưới dạng văn bản nhỏ "hậu hiện đại" nhất.

Cuốn Bất đồng ra đời trong lúc nhóm văn nghệ sĩ tiên phong Tel Quel ở Pháp (sẽ nói đến sau) đã hoàn tất nhiệm vụ avant-garde, với nhiều "công thức" mới lạ, trong đó "đoản ngôn" (fragment) được lăng-xê trở lại thành mốt: Tác giả nào muốn ở trong quỹ đạo tân tiến đều viết đoản ngôn: Roland Barthes là người đầu đàn của nhóm Tel Quel, gom góp những đoản ngôn về tình yêu của các nhà văn thời trước trong cuốn Những tình khúc (Fragments d'un discours amoureux) (1977), và chính ông cũng viết đoản ngôn Căn phòng sáng (La chambre claire) (1980). Vì vậy, cuốn Bất đồng của Lyotard, không phải là "tiên phong", mà là sản phẩm cuối mùa kết toán phong trào đoản ngôn này.

 

Bất đồng có một khám phá đáng kể: Lyotard chứng minh tính cách bất đồng của ngôn ngữ bằng cách phân tích đơn vị cơ bản của phát ngôn là câu (phrase) và cách bố trí, chỉnh lý câu. Trước hết, ông giải thích cái tựa Bất đồng nghĩa là gì? Bất đồng khác với kiện tụng, với tranh chấp (litige) ở chỗ, đây là một cuộc tranh tụng nhưng đôi bên không thể tìm ra giải pháp ổn thỏa: nếu dùng cách phân xử hợp lý với bên này thì bên kia không chịu, vì hai bên không cùng một luật chơi và bất đồng là tính chất cơ bản của ngôn ngữ. Cái tựa Bất đồng muốn nói rằng: không thể đưa ra một luật chung, một thứ "siêu ngôn ngữ" (métalangue) để áp dụng cho mọi cách hành ngôn được[18].

Đối tượng nghiên cứu ở đây là câu. Câu là thực thể "tồn tại" duy nhất không thể chối cãi được: bởi "xác nhận có câu" không cần tiền đề, vì bốn chữ này đã chứng minh sự hiện hữu của câu, tức là tự nó đã chứa sẵn tiền đề ở trong; và "hồ nghi có câu" là cũng đã làm một câu" (douter qu'on phrase est en tout cas phraser) mà im lặng cũng là một câu (se taire fait phrase): im lặng là đang làm câu, là sẽ nói. Vậy, một câu có thể chứa nhiều câu và ngược lại, nhiều câu (đôi khi) cũng chỉ hàm chứa mỗi một câu thôi.

Những nhận xét tinh vi trên đây của Lyotard cho thấy rằng: Một câu, dù tầm thường nhất, cũng được xây dựng trên một số quy luật, gọi là những quy chế câu (régimes de phrases) và những quy chế này luôn luôn khác nhau: văn lý luận có quy chế lý luận, văn mô tả có quy chế của mô tả, viết truyện khác viết chỉ thị,  v.v... Cho nên hai câu ở hai quy chế khác nhau, không thể "thông dịch" được: ví dụ không thể chuyển một câu văn lý luận sang văn tiểu thuyết, cũng không thể dùng văn nghị luận để viết thư tình, hoặc không thể rút từ một kiến thức khoa học ra một bài học đạo lý hay chính trị. Nhưng người ta có thể sắp xếp bố trí câu theo một trật tự nào đó, để có thể dùng chúng vào những sự việc khác nhau như dậy học hoặc viết văn, như làm thơ hay tán gái, hoặc tranh biện hay kiểm điểm,  v.v...[19]

Nói khác đi, không có quy tắc ngôn ngữ chung chung, mà mỗi cách nói, mỗi cách viết có đối tượng, có dụng ý riêng biệt. Vấn đề chính là việc bố trí, sắp đặt làm sao cho các cách nói ấy, thành câu, thành văn. Chẳng hạn, đột xuất có một ý tưởng nẩy ra trong đầu, thì ta phải xếp nó vào đâu? Ðặt trước hay sau câu vừa viết, như thế nào? Theo quy luật gì? Theo ngữ thuật nào? Hiển nhiên là chẳng có quy tắc, luật lệ nào rõ ràng có thể định trước được những cách kết hợp ngôn ngữ, để làm thành câu, thành văn, để có thể khỏa lấp được cái gọi là "khoảng trống ngôn ngữ" giữa những câu những chữ. Do đó, Lyotard xác định "bố trí câu là cần thiết, còn bố trí thế nào là do ngẫu nhiên". Tóm lại, người nói, người viết, đi từ chỗ ngẫu nhiên, tức là không có luật để tạo ra "luật" ngôn ngữ của riêng mình[20].

 

 

Tính bất đồng của ngôn ngữ

Vậy tình trạng bất đồng đã nằm ngay trong lòng một câu mà ta đang nghĩ, tức là ý nọ đối chọi với ý kia. Cho nên, khi viết hoặc nói, ta phải tìm cách bố trí làm sao cho hai ý ấy -dù đối chọi nhau- vẫn có thể nói ra, hoặc viết ra được; tức là không để cho ý nọ "thắng" ý kia, ý nọ triệt tiêu hay loại trừ ý kia, bởi vì, dù chúng bất đồng, nhưng ta không thể xác định được ý nào đúng, ý nào sai. Chưa kể những giây phút yên lặng, chính cái thời khắc yên lặng ấy, cũng là một câu; và "câu yên lặng" (un silence est une phrase) này thường để chờ đón hoặc cầu cứu đến một câu khác đang nghĩ hay chưa nghĩ ra.

Lời nói cũng có tính chất bất đồng như thế: Một người, trong khi phát biểu, không thể lấy lý lẽ, biện luận để loại trừ những ý khác trong đầu mình mà phải chấp nhận chúng, rồi tìm cách sắp xếp, bố trí chúng theo một trật tự nào đó, thành câu.

Lyotard đặt đặc tính này của ngôn ngữ trong quá trình lịch sử từ thời cổ Hy Lạp đến ngày nay, để chứng minh "sự thất bại của tri thức khoa học", bởi theo ông, tri thức khoa học lấy "đúng" làm đích, và loại trừ những gì được gọi là "sai", tri thức khoa học tự chính thống hóa bằng phương pháp loại trừ. Sự thất bại của lý luận khoa học, dẫn đến sự thất bại của các siêu văn bản, siêu luận thuyết, vì đã dùng biện chứng như một phương pháp luận khoa học, nhân danh cái "ta" hoặc "chúng ta" nghĩ hộ mọi người.

Hậu hiện đại đề nghị: nếu muốn nói đến một chính sách, một đường lối chung cho câu (vi văn bản) thì từ nay cái chính sách ấy phải "công nhận luật bất đồng", để cho những cái gọi là "lỗi", là "trái" cũng được quyền hiện diện.

Bất đồng được Lyotard định nghĩa là tình trạng bấp bênh, lập lờ, đồng thời cũng là khoảnh khắc mà trong đầu ta đang có cái gì đó, muốn nói ra, muốn làm thành câu mà chưa xong. Tình trạng im lặng này, ông gọi là "câu âm" (phrase négative), câu chưa ra đời, nhưng nó có thể dẫn đến một "câu dương" (phrase possible), tức là câu sẽ nói, ta gọi tình trạng ấy là mới cảm thấy mà chưa tìm ra chữ, ra lời (on ne trouve pas ses mots).

Phải cố gắng lắm, mới tìm được cách bố trí một câu có khả năng diễn tả trung thực mối bất đồng ngay trong tình cảm của mình: Đó cũng là sự thách thức chung cho văn chương, cho triết lý và cả chính trị nữa: làm sao diễn tả được những bất đồng trong tư tưởng của mình qua những đặc ngôn (idiome) mới. [21]

 

 

Sách hậu hiện đại

Cuốn Bất đồng tập hợp 264 đoản ngôn mà Lyotard gọi là đặc ngôn đánh từ số 1 đến số 264. Những đặc ngôn này, mang tính bất đồng trong nội dung, ghi chép những nhận xét hay những lời giải chú về một vật thể hay sự thể. Đây là một thứ tiểu luận rút gọn thành câu hay đoạn mà nội dung tiềm ẩn sự bất đồng. Những đặc ngôn này được đánh số và xếp thành từng nhóm, độc giả nên đọc theo thứ tự đã đánh số. Dạng thức "sách" như cuốn Bất đồng theo Lyotard, là dạng thức rất "hậu hiện đại". Chúng ta thử đọc đặc ngôn số 1 và số 2, mà chúng tôi đã tóm lược nội dung, sau đây:

1- Người ta bảo rằng con người là một sinh vật biết nói, nhưng bị đặt trong hoàn cảnh không thể nói được những gì đã xẩy ra trong quá khứ, bởi vì, phần lớn những người đã sống qua giai đoạn ấy đều đã chết rồi, những người sống sót chỉ làm chứng được phần tối thiểu. Vậy làm sao biết được những gì đã xẩy ra trong quá khứ? Hay quá khứ chỉ là hệ quả những tưởng tượng của người kể?  v.v...

2- Tôi đã đọc và phân tích hàng ngàn tư liệu. Tôi đã tham khảo ý kiến biết bao người, nhưng vô hiệu. Chỉ có một chứng nhân duy nhất, thoát khỏi phòng hơi ngạt Đức quốc xã, dám quả quyết đã thực thụ trông thấy phòng hơi ngạt. Nhưng nhìn thấy phòng hơi ngạt chưa đủ, còn phải chứng minh rằng phòng này đã hoạt động, tức là nó có giết người. Chứng cớ duy nhất về việc này là mình phải chết vì hơi ngạt trong phòng này; nhưng nếu đã chết thì làm sao lại có thể là chứng nhân được?  v.v...[22]

Đại loại, đó là những "câu", những "vi văn bản" trong "sách hậu hiện đại" của Lyotard. Lyotard tiên đoán trong thế kỷ XXI, sẽ không còn có cái gì được gọi là sách nữa, cuốn Le différend của ông chỉ là một "mớ chữ" may mắn được nhà xuất bản nhận in. Bất đồng, theo ông, sẽ là cuốn "sách cuối cùng", ở thời điểm "cáo chung" của những cái gọi là sách. Sau này, những gì được gọi là sách sẽ chỉ là đối tượng được in của một cuốn phim, một cuộc nói chuyện hay một chương trình truyền hình  v.v... Tóm lại, tất cả những gì đã được quảng bá trên các kênh truyền thông đại chúng, sau in ra, sẽ được gọi là sách. Điều này phù hợp với quan điểm hậu hiện đại của Lyotard, vì từ nay sẽ không có văn bản lớn (tức là những gì được viết có đầu đuôi, có hệ thống) nữa mà chỉ có văn bản nhỏ (tức là những mảng ý nghĩ, mảng đối thoại, những câu nói, những câu đang nghĩ)... Cuốn sách sẽ là một "mớ" những câu đã được nói ra, đang đợi những câu khác sẽ đến... trong một cuốn phim, trong các cuộc phỏng vấn, hay trong một hoàn cảnh nào đó...

 

 

Phê bình lý thuyết hậu hiện đại của Lyotard

Mặc dầu lập luận của Lyotard được trình bày khá chặt chẽ, làm sáng tỏ nhiều mối tương quan giữa ngôn ngữ và khoa học, đặc biệt có những đoạn khá hay, khi ông phân tích con người như một nguyên tử của xã hội, hay phân tích tính chất bất đồng trong ngôn ngữ... Tuy nhiên chúng tôi nhận thấy lý thuyết của ông có những nhược điểm sau đây:

1- Điều kiện hậu hiện đại không đưa ra được điều gì thật sự mới: Lyotard chỉ phát triển lại tư tưởng của Nietzsche: Cách đây hơn thế kỷ Nietzsche đã đả kích toàn bộ triết học Tây phương một cách triệt để và có hệ thống. Nietzsche cũng sử dụng đoản ngôn thần tình như Trang Tử, ông đã đánh đổ các học thuyết lớn như triết học Socrate, triết học Hegel, ông buộc tội Socrate tiêu hủy bi tráng kịch (tragédie) và áp đặt logique toán học trong biện chứng, bóp chết thi ca và nghệ thuật chân chính. Vì thế mà sau này các "lý thuyết gia hậu hiện đại" đã kéo luôn Nietzsche vào danh sách các "tác gia hậu hiện đại". Chủ nghiã cộng sản cũng loại trừ toàn bộ các hệ thống triết học khác, ngoài hệ thống Mác-Lê. Vì vậy, việc đạp đổ tất cả những hệ thống tư tưởng cổ điển của Lyotard là điều không mới, người ta đã thấy mấy lần rồi.

2- Chúng ta không khỏi ngạc nhiên trước thái độ "tụt hậu" của Lyotard đối với công trình "hậu-hiện-đại nhất" của loài người trong thế kỷ XX, là sự vi tính hóa. Gần bốn mươi năm sau khi lý thuyết của ông ra đời, ta có thể thấy rõ quan điểm hạn hẹp của cha đẻ thuyết hậu hiện đại: ông đã phê bình gắt gao xã hội vi tính hóa. Thời gian chứng tỏ Lyotard sai lầm: tin học không hề tiêu diệt tri thức mà còn góp phần quảng bá và bảo tồn tri thức trên toàn cầu. Tuy nhiên nếu nó phát triển những cái hay thì nó cũng phổ biến luôn cả những cái dở. Ngoài ra Lyotard còn lầm một điểm nữa: Tin học không chỉ là dụng cụ của nhà cầm quyền, mà tin học còn giúp tri thức vượt qua những bức tường lửa để đến với người đọc khắp nơi, ngoài ý muốn của nhà cầm quyền.

3- Cho rằng thẩm quyền khoa học áp đặt trên truyện cổ tích dân gian, là hơi cường điệu: Thực ra, khoa học và văn chương vẫn "sống chung" trong những điều kiện tương đối tốt, bởi không ai có thể bỏ qua các phương pháp nghiên cứu khoa học khi tìm hiểu những nền văn hoá dân gian, và những nhà khoa học đích thực chưa bao giờ lấy quyền phủ quyết để giám định cái đúng, cái sai trong văn chương.

4- Sự kết án khoa học dẫn Lyotard đến thái độ hoài nghi và loại trừ những phương pháp khoa học; dẫn ông đến đề nghị bác bỏ sự phân biệt đúng, sai; đến việc biện hộ cho ngộ luận tức là cho quyền nói sai. Tất cả đều rất ngoạn mục, nhưng liệu có thể biện hộ cho những điều sai thật được không? Chính ở điểm này mà lập luận của Lyotard thường được sử dụng như một lợi khí bênh vực sự ngụy biện.

5- Điểm mâu thuẫn nhất của Lyotard là: để đánh đổ những cái mà ông gọi là hệ thống tư biện trong các siêu văn bản, ông lại dùng chính các biện chứng của siêu văn bản như phương pháp luận của Descartes, hiện tượng luận của Husserl, bản thể luận của Heidegger, triết ngữ học của Wittgenstein, cấu trúc luận của Lévi-Strauss... để lập luận. Vậy, thuyết của Lyotard về hậu hiện đại cũng chỉ là một thứ "siêu văn bản" đẻ ra từ những siêu văn bản mà ông đã tiếp nhận.

6- Điểm sáng giá nhất trong lý thuyết của Lyotard là sự phân tích và chứng minh tính bất đồng trong bản chất ngôn ngữ. Nhưng phần đặc ngôn cũng không có gì mới. Bởi đặc ngôn (idiome) chính là đoản ngôn (fragment) được Lyotard giới thiệu lại dưới cái tên mới, như một nhãn hiệu hậu hiện đại tân kỳ; thực ra, đó là thể văn xưa nhất trên trái đất. Lời Thalès, Anaximène, Héraclide, lời Thích Ca trong kinh Phật, lời Khổng Tử trong Luận Ngữ, Trung Dung, lời Lão Tử trong Đạo Đức Kinh, lời Trang Tử trong Nam Hoa Kinh, đến lời Pascal, Nietszche... đều là những đoản ngôn cả.

La Bruyère (1645-1696), chịu ảnh hưởng của Théophraste (372-287, trước Tây lịch), viết cuốn Les Caractères ou les Moeurs de ce siècle (1688) (Tính tình và phong cách của thế kỷ này, 1688), cũng dưới dạng đoản ngôn, để mô tả xã hội Pháp thế kỷ XVII, bàn đến đủ mọi vấn đề, từ chân dung con người đến những suy tư văn học, triết học, kinh nghiệm sống,... vì vậy cũng được người ta cho vào danh sách các nhà văn "hậu hiện đại".

Trở lại với Lyotard, vì muốn chứng minh tính chất bất đồng trong những đoản ngôn mới của mình, cho nên ông đã viết những đặc ngôn cực kỳ khó hiểu, khó đọc, không phải văn chương cũng không là biên khảo, làm nản lòng những độc giả kiên trì nhất.

 

7- Sự tiên đoán của Lyotard về những cuốn "sách" tương lai, cũng trôi theo mây khói: cho tới nay, sự phát triển của tin học không hề "bóp chết" sách in, và Bất đồng không phải là cuốn sách cuối cùng của nhân loại. Ngoài ra, khi đề nghị bất cứ một mẫu mực sách nào, hậu hiện đại sẽ hết là hậu hiện đại, bởi nó đi ngược với "điều kiện" hậu hiện đại mà cha đẻ nó đặt ra: từ chối những mẫu mực có sẵn.

8- Trình bày đặc ngôn như một vi văn bản, cách viết của tương lai, tức là ưu tiên một thể loại văn bản, cũng đi ngược với "điều kiện hậu hiện đại" vì đã giới hạn các "trò ngôn ngữ" trong một thể loại duy nhất là đặc ngôn. Đặc ngôn được người Việt hiểu là truyện thật ngắn, và đã một thời mọi người thi nhau viết truyện thật ngắn, đôi khi chỉ có vài dòng. Võ Phiến cũng viết truyện thật ngắn. Nay không thấy mấy ai viết nữa.

9- Lập thuyết đánh đổ siêu văn bản của Lyotard, đôi khi bị ngộ nhận. Nhiều người hiểu hậu hiện đại chủ trương xóa bỏ tất cả những gì đã có từ trước để lập nên một "chủ nghĩa phi nền tảng". Những nhà văn "hậu hiện đại" đôi khi tự coi mình mọc lên từ một vùng đất đã được quét sạch mọi tàn tích truyền thống và hiện đại; họ tưởng với hai bàn tay trắng họ có thể sáng tạo ra những tác phẩm "hậu hiện đại" hoàn toàn mới lạ, không dính líu gì tới những trào lưu văn học và tư tưởng trước họ, và từ nay người viết hậu hiện muốn viết gì thì viết, không còn có mẫu mực đi trước có thể là hàng rào ngăn cản. Điều này hoàn toàn không tưởng.

 

 

Từ Hậu hiện đại đến Chủ nghiã hậu hiện đại

Điểm đáng chú ý là sự thành đạt ở nước ngoài, chủ yếu ở Mỹ, của Lyotard, thường không xây dựng trên lập thuyết của ông (mặc dù tên Lyotard vẫn được nêu lên hàng chủ soái) mà trên một số ngộ nhận. Lý do: những người tôn vinh hoặc "nghiên cứu" ông không đọc trực tiếp tác phẩm của ông. Đây là một hiện tượng khá phổ biến. Theo Dominic Strinati thống kê, thì ở Mỹ:

"Mục lục của Books in Print cho thấy không có tựa hoặc sách về "hậu hiện đại" xuất bản từ 1978 đến 1981, nhưng có 14 cuốn xuất bản năm 1988, 22 cuốn năm 1989 và 29 cuốn trong năm 1990. Theo Humanities Index, không có cuốn nào giữa những năm 1980-1983, nhưng lại có tổng cộng 241 cuốn từ năm 1987 đến 1991"[23].

Thống kê này cho thấy: Trước khi cuốn Điều kiện hậu hiện đại của Lyotard ra đời năm 1979, ở Mỹ chưa có sách nói đến hậu hiện đại. Như vậy, phong trào hậu hiện đại của những nhà văn Mỹ, mà các tác phẩm chủ yếu bắt đầu hiện diện từ năm 1966, đã không được ghi nhận như một phong trào văn học đáng kể. Mãi đến năm 1988 (9 năm sau khi sách Lyotard ra đời), mới có 14 cuốn sách ở Mỹ viết về hậu hiện đại; con số này tăng dần: 22 cuốn năm 1989 và 29 cuốn năm 1990. Tổng cộng có tới 241 cuốn sách viết về hậu hiện đại tại Mỹ, từ năm 1987 đến năm 1991. Một kỷ lục.

Việt Nam tiếp nhận hậu hiện đại qua ngả Mỹ và Nga, những bài viết của các chuyên gia Nga, Mỹ về hậu hiện đại được dịch và tập trung trong hai cuốn Các khái niệm và thuật ngữ của các trường phái nghiên cứu văn học ở Tây Âu và Hoa Kỳ thế kỷ 20 (nxb Đại học quốc gia, Hà Nội, 2003) và cuốn Văn học hậu hiện đại thế giới (nxb Hội Nhà Văn, Trung tâm văn hoá ngôn ngữ Đông Tây, Hà Nội, 2003). Hai bộ sách này khá tiêu biểu cho những gì viết về "chủ nghiã hậu hiện đại" với những sai lầm trầm trọng mà chúng ta có thể đọc được rải rác khắp nơi. Chúng tôi chọn bài viết "tổng quan" của nhà nghiên cứu I.P. Ilin, chuyên gia Nga về hậu hiện đại, là tác giả được dịch sang tiếng Việt nhiều nhất, vì thế ông cũng truyền bá nhiều sai lầm nhất cho độc giả Việt Nam.

Bài Chủ nghĩa hậu hiện đại của ông có câu: "Hầu như tất cả các nhà lý luận hậu hiện đại đều nhấn mạnh ý nghĩa của công trình Vận mệnh hậu hiện đại của J.F. Lyotard đối với sự hình thành hệ thống quan niệm của họ"[24]. Vậy về phía Nga, cũng đúng Lyotard là cha đẻ của thuyết hậu hiện đại. Ilin trích dẫn nhiều tác giả Mỹ, chủ yếu Hassan, được ông coi là người chịu ảnh hưởng của Lyotard hơn cả. Tuy nhiên đoạn ông viết về Lyotard[25] (trừ trách nhiệm của dịch giả) thực khó có thể hiểu ông muốn viết gì. Sở dĩ chúng tôi chọn Ilin, vì xem ra ông là người đọc nhiều và có uy tín, bài viết của ông có tính tổng quát và những sai lầm của ông có tính tiêu biểu. Chúng tôi chọn ra bốn câu sau đây, có những sai lầm đáng kể về văn học Pháp, để giải thích và đính chính lại với độc giả:

 

1- "Tất cả những cái gọi là tiểu thuyết hậu hiện đại của J. Fowles, J. Barth, A. Robbe-Grillet, R. Sukenick, F. Sollers, J. Cortazar và nhiều người khác, không chỉ là sự mô tả những sự kiện (...) Các nhà văn khuynh hướng hậu hiện đại không ít dựa vào uy tín của Roland Barthes, Jacques Derrida, Michel Foucault và các nhà lý luận hậu cấu trúc và hậu hiện đại khác"[26]

 

2- "Đối với những lý thuyết gia của nó [chủ nghiã hậu hiện đại], như J.Derrida, M. Foucault, J. Lacan, G. Deleuze, R. Barthes, dù có những khác biệt về quan điểm..."[27]

 

3- "Hai nhà tiểu thuyết A. Robbe-Grillet và John Barth còn là tác giả của những cuốn sách lý luận về chủ nghĩa hậu hiện đại có uy tín"[28].

 

4- "Liên văn bản (intertextualité) thuật ngữ do nhà lý luận về chủ nghiã hậu hiện đại J. Kristéva đưa ra năm 1967, trở thành một trong những thuật ngữ cơ bản trong việc phân tích tác phẩm nghệ thuật hậu hiện đại"[29].

 

Sau đây xin chỉ ra những sai lầm trong bốn đoạn văn vừa trích dẫn ở trên:

 

1- Câu: "Tất cả những cái gọi là tiểu thuyết hậu hiện đại của J. Fowles, J. Barth, A. Robbe-Grillet, R. Sukenick, F. Sollers, J. Cortazar và nhiều người khác, không chỉ là sự mô tả những sự kiện (...) Các nhà văn khuynh hướng hậu hiện đại không ít dựa vào uy tín của Roland Barthes, Jacques Derrida, Michel Foucault và các nhà lý luận hậu cấu trúc và hậu hiện đại khác" hoàn toàn không có cơ sở (tất nhiên không phải Ilin sáng chế ra mà ông chép lại của các nhà hậu hiện đại Mỹ), bởi vì: Người ta đã tùy tiện đưa tên Alain Robbe-Grillet, nhà văn đầu đàn của tiểu thuyết mới và Philippe Sollers, người chủ trương tập san Tel Quel (1960-1982) của Pháp và nhóm tác giả, phê bình gia và triết gia, cộng tác thường xuyên với tập san này như Roland Barthes, Jacques Derrida, Michel Foucault vào danh sách hậu hiện đại. Những ai thông thạo tình hình văn học Pháp đều biết, nhóm Tiểu thuyết mới và nhóm Tel Quel đều không dính dáng gì đến lý thuyết hậu hiện đại của J.F Lyotard, càng không đối với các nhà văn hậu hiện đại Mỹ.

Trường hợp Robbe-Grillet sẽ nói rõ hơn ở dưới. Tel Quel [nghĩa là nguyên thế] là tên một tập san văn chương, do nhà xuất bản Seuil bảo trợ, xuất hiện trong khoảng 1960-1982, thời kỳ nở rộ những ý tưởng avant-garde ở Pháp. Tel Quel do Jean-Edern Hallier và Philippe Sollers điều hành, với một nhóm nhà văn nhà thơ trẻ. Năm 1966 Julia Kristéva vào ban biên tập, năm sau bà kết hôn với nhà văn Philippe Sollers (1967), hai người trở thành cột trụ của nhóm này. Tel Quel có sự cộng tác thường xuyên của: Roland Barthes, Georges Bataille, Jacques Derrida, Michel Foucault, Tzvetan Todorov, Francis Ponge, Umberto Eco, Gérard Ginette, Bernard-Henri Lévy,  v.v... là những khuôn mặt triết học, phê bình và nhà văn cấp tiến nhất thời đó. Tờ báo tự xác định phi chính trị, với những bài viết nghiêng về cấu trúc luận và ký hiệu học. Thập niên 1970 Tel Quel ngả sang khuynh hướng Mao-ít (rất mốt thời đó). 1974, một phái đoàn Tel Quel trong đó có Philippe Sollers, Julia Kristéva và Roland Barthes "chính thức đi kinh lý" nước Tàu; khi về, viết bài khen ngợi "sự thành công" của "cách mạng văn hoá", đặc biệt Kristeva có bài tường trình tựa đề Những phụ nữ Trung Quốc (Des Chinoises) (1974) ca tụng Mao đã "giải phóng phụ nữ" và "giải quyết vấn đề phái tính", cách mạng văn hóa "không có dấu vết gì của bạo lực". Ngoài ra, những người trong nhóm Tel Quel không viết và cũng không cổ động gì cho "hậu hiện đại". Lyotard cũng không ở trong nhóm này.

 

2- Câu: "Đối với những lý thuyết gia của nó [chủ nghiã hậu hiện đại], như J.Derrida, M. Foucault, J. Lacan, G. Deleuze, R. Barthes, dù có những khác biệt về quan điểm..." xác định một lần nữa việc những triết gia và nhà phê bình viết cho tờ Tel Quel như J.Derrida, M. Foucault, J. Lacan, G. Deleuze, R. Barthes được tùy tiện đưa vào danh sách lý thuyết gia hậu hiện đại. Tuy nhiên, trong nhóm Tel Quel, Jacques Derrida (1930-2004) là người được "trưng dụng" nhiều nhất, sự kiện này bắt nguồn từ ba lý do sau đây:

- Thuyết Déconstruction (Giải cấu trúc hay Huỷ tạo) của Derrida "có vẻ hậu hiện đại".

- Chữ Différend (Bất đồng) của Lyotard gần gụi với cách chơi chữ của Derrida: Từ chữ différent, hay différence có nghiã là khác biệt, Derrida sáng chế ra chữ Différance (Gieo khác biệt) và ông dùng chữ Dissémination (phát tán), để chỉ cấu trúc tứ tán của văn chương, ở đây, ông lấy lại khái niệm tứ tán của văn chương mà Blanchot đã khám phá từ năm 1959 (xem chương 15, Maurice Blanchot).

- Lyotard kế vị Derrida trong chức vụ chủ tịch viện triết học quốc tế do Derrida sáng lập và làm chủ tịch năm 1983.

Nhưng sự gần gụi giữa hai người dừng lại ở đấy. Khái niệm Déconstruction (chữ do Derrida đặt ra), tức huỷ tạo hay giải cấu trúc, rất phức tạp khó hiểu, không liên lạc gì đến hậu hiện đại của Lyotard.

Từ năm 1967, trong tác phẩm chủ yếu đầu tiên tựa đề Về văn phạm học (De la grammatologie) Derrida đã quan niệm rằng: Có sự khác biệt đáng kể giữa tiếng nói (âm thanh) với tiếng nói được ghi lại bằng ký hiệu ngôn ngữ (chữ). Từ Thượng cổ đến De Saussure, người ta chỉ khảo sát ngôn ngữ qua ký hiệu (chữ) chứ không khảo sát tiếng nói. Hai chữ Différance (do Derrida đặt ra) và Différence, khác biệt nhau vì chữ a và chữ e, nhưng âm đọc hoàn toàn giống nhau, là trường hợp tiêu biểu. Derrida chỉ trích triết học Tây phương đặt trọng tâm trên lối viết mà không trên tiếng nói, ông kết án nền siêu hình học Tây phương phải trách nhiệm tình trạng này.

Déconstruction là sự đặt lại vấn đề với triết học nói chung và siêu hình học nói riêng, déconstruction không phải là phá vỡ, tiêu huỷ mà chỉ là sự di chuyển (déplacement) siêu hình học.

Différance (Gieo khác biệt) là chuyển động sản xuất ra những khác biệt (différences), là một thủ pháp mà chữ (signifiant) có thể thay thế nhau tới vô cùng (như thay e bằng a) để đạt tới điều kiện lý tưởng: đưa tới địa bàn ngữ nghiã rộng nhất. Nói khác đi, những chữ đồng âm có thể thay thế nhau đến vô cùng để đạt những nghiã hoàn toàn khác nhau.

Déconstruction đề nghị phải phát tán cấu trúc cũ để xây dựng lại cấu trúc mới cho ngôn ngữ.

Derrida nổi tiếng là một triết gia khó đọc, bởi ông có lối đặt câu tân kỳ và hay chơi chữ. Tác giả hơn 80 đầu sách, nhưng lý thuyết của ông bị chỉ trích ở Pháp và ít được trọng dụng vì khó hiểu, và người ta cho rằng ông làm duyên làm dáng, chế ra những từ tân tạo, đưa ra một thứ lý thuyết triết học không tưởng. Derrida dạy khoảng 10 đại học ở Mỹ, nên thuyết của ông được đại học Mỹ tôn cao.

Đó là lý do khiến Derida được các tác gia Mỹ "chính thức" đưa vào nhóm "lý thuyết gia hậu hiện đại".

Tóm lại, lối viết của Ilin về Hậu hiện đại, mang đặc tính chung của những người viết về văn học Pháp mà không tìm hiểu, chỉ lướt qua hoặc chỉ viết theo lối cắt dán những bài trên mạng. Vì vậy, người ta cứ tự tiện đưa tên những cộng tác viên của nhóm Tel Quel vào danh sách "những lý thuyết gia hậu hiện đại", tuy họ không viết gì về hậu hiện đại. Và sau khi đã "xác định" như thế rồi, người ta tha hồ chép những điều này, điều kia của những tác giả này, và dán nhãn hiệu lý thuyết hậu hiện đại. Đó là phương pháp được dùng để gồng lên đến vô tận phong trào hậu hiện đại trên toàn cầu, qua cách "nghiên cứu" hàm hồ như thế.

 

3- Câu: Hai nhà tiểu thuyết A. Robbe-Grillet và John Barth còn là tác giả của những cuốn sách lý luận về chủ nghĩa hậu hiện đại có uy tín"[30] cũng lại sai nốt.

Alain Robbe-Grillet không viết một cuốn sách lý luận nào về chủ nghiã hậu hiện đại, người ta lầm với cuốn Vì một nền tiểu thuyết mới (Pour un nouveau roman) của ông. Robbe-Grillet nổi tiếng từ thập niên 1950-1960, với ba tiểu thuyết chính: Những cục tẩy (Les gommes) (1953), Kẻ nhòm trộm (Le voyeur) (1956) và Bức mành mành (La jalousie) (1957). Ông là người sáng lập phong trào Tiểu thuyết mới ở Pháp, phần lý thuyết của ông được in trong cuốn Vì một nền tiểu thuyết mới (Pour un nouveau roman) (1963). Robbe-Grillet chủ trương viết truyện từng mảng, không chủ đề, không cốt truyện (chịu ảnh hưởng Joyce), truyện không nhân vật, hay nhân vật tên viết tắt như A. (ảnh hưởng Kafka), văn phong lạnh lùng (neutre), không có tình cảm xen vào (ảnh hưởng Camus, Người xa lạ (L'étranger), 1942).

Một số nhà văn hậu hiện đại Mỹ chịu ảnh hưởng của Alain Robbe-Grillet.

 

Samuel Beckett (1906-1989), cũng như trường hợp Robbe-Grillet, được đưa vào danh sách hậu hiện đại bởi vì Beckett tiên phong trong kịch phi lý, ông nổi tiếng với kịch Đợi Godot (En attendant Godot) (1953). Beckett khai phá tính phi lý trong tiếng nói (voix) và sự phải nói của con người: Ông trình bày tình trạng con người bị kết án chung thân bắt buộc phải nói, dù không muốn nói. Bi kịch phải nói là thứ tiếng cất lên trong vở kịch Tàn mạt (L'Innommable) (1953): Một tiếng, những tiếng, nhiều tiếng, vô danh, vô nghĩa, vô vị ... vọng lên từ bất cứ một không gian nào, một tâm tưởng nào. Sống không nói không được. Không biết nói gì, mà vẫn cứ phải nói, lải nhải suốt đời. Đó là thân phận mạt rệp, bi đát, nực cười và cực kỳ phi lý của con người bị kết án chung thân: phải nói.

Beckett viết: "Vậy phải tiếp tục, tôi đành tiếp tục, phải nói, còn tiếng, còn nói (...) Nói đến hết xí quách, hết biết, hết Tôi, hết Có, hết Là, hết Chủ từ, hết Động từ, hết Túc từ, nói đến không còn gì để nói..." Đó là tình trạng sống dở chết dở của kẻ bị nói. Có lẽ vì tính chất độc đáo này, mà Beckett cũng đã được liệt kê vào danh sách "hậu hiện đại" chăng?

 

Như chúng ta đã biết: phải đến năm 1979, mới xuất hiện lý thuyết của Lyotard, và cuối thập niên 1980, lý thuyết này mới du nhập vào Mỹ. Cho nên không thể pha trộn các "trường phái" một cách tùy tiện như thế: Người đi sau không thể "đẻ" ra người đi trước được.

 

4- Câu: "Liên văn bản (intertextualité) thuật ngữ do nhà lý luận về chủ nghiã hậu hiện đại J. Kristéva đưa ra năm 1967, trở thành một trong những thuật ngữ cơ bản trong việc phân tích tác phẩm nghệ thuật hậu hiện đại", cũng hoàn toàn sai.

J. Kristéva (nhà phân tâm, nhà văn và nhà ký hiệu học, môn sinh của Barthes) sinh năm 1941, gốc người Bulgarie, tham dự sinh hoạt văn học Pháp năm 1966; năm 1967 bà kết hôn với nhà văn Philippe Sollers và trở thành một trong những biên tập viên chính của tạp chí Tel Quel. Khi Tel Quel đưa trở lại khái niệm Liên văn bản (Intertextualité), bà trở thành người "sáng lập" ra thuyết này.

Thục ra, như chúng ta đã biết, liên văn bản là khái niệm do các nhà bác ngữ học Đức chủ xướng, được sử dụng trong phê bình văn học của Bakhtin, Auerbach... Năm 1982, Gérard Genette viết cuốn Nguyên cảo (Palimpsestes) đào sâu và mở rộng khái niệm Liên văn bản (xem chương 9, Phê bình bác ngữ học Đức). Vì người ta không biết hay quên nguồn gốc này, nên họ tuỳ tiện dựng Kristéva thành người "sáng lập" lý thuyết liên văn bản. Và vì họ trót phong cho bà là nhà lý luận của chủ nghiã hậu hiện đại, cho nên liên văn bản sẽ trở thành thuật ngữ cơ bản của lý thuyết hậu hiện đại!

Tóm lại, người ta mặc sức gán ghép bừa bãi các tác giả, các khái niệm, có tính cách mới lạ hay đặc dị vào danh sách hậu hiện đại, mặc dù những tác giả, những khái niệm này chẳng liên hệ gì đến "chủ nghiã hậu hiện đại". Cách viết như thế chứng tỏ người viết không nghiên cứu vấn đề, chỉ sao chép những sai lầm của người khác.

 

 

Kết luận

Như chúng ta đã thấy, về phương diện văn học, lý thuyết của Lyotard không liên hệ gì tới các tác giả hậu hiện đại ở Mỹ, giai đoạn 1960-1980, như J. Barth, J. Hawkes, R. Coover, D. Berthelme, W. Gass, K Vonnegut... Sự thể hiện cái tân kỳ ở một số nhà văn Mỹ này dựa trên nền móng siêu thực, hiện sinh, phi lý tiểu thuyết mới, đã phát triển ở Âu Châu trước đó vài chục năm, họ đưa thêm vào tính chất quái đảnkinh hoàng, để tạo ra một khuynh hướng có tính chất "khủng bố" toàn diện.

Vì muốn thêm phần "lý thuyết" vào khuynh hướng này, để biến nó trở thành một chủ nghiã, cho nên người ta đã gán ghép một cách gượng ép phong trào hậu hiện đại Mỹ với lý thuyết hậu hiện đại của Jean-François Lyotard.

Để có "trọng lượng" hơn, người ta kéo luôn cả Tel Quel, là nhóm nhà văn, triết gia, nhà phê bình tiên phong của Pháp, thời kỳ 1960-1980 vào, rồi lấy lại những lý thuyết của họ, không liên hệ gì tới hậu hiện đại, như thuyết Déconstruction của Derrida; lối phê bình Ký hiệu-cấu trúc của Eco và Barthes, được đặt tên mới là Hậu cấu trúc; lý thuyết Liên văn bản của những nhà bác ngữ học Đức được lăng-xê trở lại dưới tên Kristeva; lập thuyết Tác giả đã chết sau khi tác phẩm ra đời của Blanchot trong cuốn Không gian văn chương (L'espace littéraire) (1955) được Barthes "trưng dụng" lại qua bài của viết lừng danh cùng tên, in năm 1968, và được các lý thuyết gia hậu hiện đại "lấy lại" thành lý thuyết hậu hiện đại.

Sau cùng, họ còn đem cả những nhà văn xuất hiện trước đó hơn nửa thế kỷ như Kafka, James Joyce vào luôn thể.

Hiện tượng này có thể xem như một trường hợp "xuất cảng" tri thức và "tiêu dùng" tri thức một cách bừa bãi, mà Lyotard đã đả phá trong Điều kiện hậu hiện đại, khi ông nói đến những "tác hại" của xã hội vi tính hóa: người ta đã "loại cái biết ra khỏi người biết" và cho nó một nội dung khác và "nạn nhân" ở đây lại chính là Lyotard và những tác giả tiền bối hoặc cùng thời. Cũng có thể Lyotard thích vai trò "chỉ đạo" này, vì ông được cầm đầu một "chủ nghĩa". Dù sao chăng nữa, việc lập nên một "chủ nghĩa" tức là đã có ý muốn đưa ra một thứ "siêu văn bản" đóng khung trong khuôn khổ, đường lối, là điều tối kỵ đối với Lyotard và nếu ông chấp thuận điều này, thì thật sự là ông đã mâu thuẫn với chính mình.

Tóm lại, không thể có chủ nghĩa hậu hiện đại, theo tinh thần hậu hiện đại của Lyotard, một tinh thần tự do, đòi hỏi sự phá vỡ các chủ thuyết, các siêu văn bản.

Chủ nghiã hậu hiện đại, nếu chỉ giới hạn trong một số nhà văn hậu hiện đại Mỹ thập niên sáu mươi là điều hợp lý. Nhưng khi liên kết những nhà văn này với thuyết của J.F. Lyotard và nhất là vơ vét tất cả những triết gia, những nhà phê bình và những tác giả đặc dị của văn chương thế giới như Nietzsche, Kafka, Joyce, Lévi-Strauss, Beckett, Robbe-Grillet, Marquez, Blanchot, Barthes, Eco, ... vào, thì nó trở thành một chủ nghiã đầu Ngô mình Sở. Bởi không ai có thể xác định được đường lối, phong cách chung của những nhà văn, nhà phê bình, nhà tư tưởng của nhân loại trong hơn một 100 năm, để khoanh tròn họ trong một thứ chủ nghiã hay trường phái nào.

Hiện tượng cắt dán này được nhà phê bình Ý, Umberto Eco, người được xếp vào "danh sách các lý thuyết gia hậu hiện đại", nhận định một cách hóm hỉnh như sau:

"Việc hàn xì (soudure) này, nối ngây thơ và mưu mẹo, sẽ được những lý thuyết gia hậu hiện đại của Mỹ hoàn tất. Rủi thay, "hậu hiện đại" là một từ ba phải (bon à tout faire) (đây tôi nghĩ đến hậu hiện đại là loại văn chương mà những nhà phê bình Mỹ đề ra, chứ không tính đến khái niệm tổng quát hơn của Lyotard). Tôi có cảm tưởng ngày nay người ta áp dụng từ này cho tất cả những gì làm vừa lòng kẻ dùng nó. Mặt khác, hình như, có toan tính làm cho nó trượt ngược về thời xưa: trước đây, chữ này chỉ dùng dể chỉ vài nhà văn hay nghệ sĩ, khoảng 20 năm cuối cùng này, [tức là từ khoảng 1960 đến 1980] rồi dần dần, người ta trở ngược lên tới đầu thế kỷ; và lùi dần mãi, chẳng bao lâu sẽ tới Homère.

Tuy nhiên, tôi tin rằng hậu hiện đại không phải là một khuynh hướng mà người ta có thể phân chia ranh giới theo thời gian, mà là một thể loại tinh thần, đúng hơn, một Kubstwollen, một cách thể hiện. Ta có thể nói mỗi thời đại đều có hậu hiện đại của nó, cũng như mỗi thời đại có một kiểu cách cầu kỳ (maniérisme) của nó (thậm chí tôi tự hỏi hậu hiện đại có phải là tên mới của trường phái cầu kỳ như một loại hậu-lịch sử chăng)"[31].

Michel Foucault, triết gia Pháp cũng được xếp vào danh sách những "lý thuyết gia của chủ nghiã hậu hiện đại" đưa ra một nhận định khác, ngắn gọn và hàm súc:

Khi ta chưa biết hiện đại là gì thì khó có thể trả lời câu hỏi: hậu hiện đại là gì?


 

[1] Nhóm Thi Sơn (Parnasse) do Théophile Gautier đề xướng, tập hợp trong một thi tuyển ba tập, tác phẩm của Théophile Gautier, Leconte de Lisle, Baudelaire, Banville, Heredia, Sully Prudhomme, Verlaine, Mallarmé, Coppée,... phong cách thơ rất khác nhau nhưng có cùng một chí hướng: chống lãng mạn, đổi mới hình thức, đề cao vô ngã và nghệ thuật vị nghệ thuật.

[2] Thời kỳ Ánh sáng là thời điểm tư tưởng Tây phương phát triển mạnh, đặc biệt ở Pháp, thế kỷ XVIII, với những nhà tư tưởng như Rousseau, Voltaire, Montesquieu, Diderot  v.v...

[3] La condition postmoderne (Điều kiện hậu hiện đại), Minuit (1979), tái bản (2002), t. 7.

[4] La condition postmoderne, t. 7.

[5] La condition postmoderne, t.11.

[6] La condition postmoderne, t. 11-16.

[7] La condition postmoderne, t. 20.

[8] Talcott Parsons: nhà xã hội học Mỹ (1902-1979) chủ trương mô thức xã hội hành động và thức động.

[9] La condition postmoderne, t. 32-33-34.

[10] La condition postmoderne, t. 98.

[11] La condition postmoderne, t. 35- 43.

[12] La condition postmoderne, t. 43-48.

[13] La condition postmoderne, t. 49-62.

[14] Nguyên văn: Un énoncé scientifique est un savoir si et seulement s'il se situe lui-même dans un processus universel d'engendrement.

[15] La condition postmoderne, t. 64.

[16] La condition postmoderne, t. 66.

[17] La condition postmoderne, t. 63-68.

[18] Le Différend, Minuit (1983), t. 9.

[19] Le Différend, t. 9-10.

[20] Le Différend, t. 11.

[21] Le Différend, t. 29.

[22] Le Différend, t. 16.

[23] Dominic Strinati, Thuyết hậu hiện đại và văn hoá đại chúng, Nguyễn Thị Ngọc Nhung dịch, tạp chí Thơ, số 19, t. 162.

 [24] I.P Ilin, Chủ nghĩa hậu hiện đại, Đào Tuấn Ảnh dịch, in trong Các khái niệm và thuật ngữ của các trường phái nghiên cứu văn học ở Tây Âu và Hoa Kỳ thế kỷ 20, do I.P Ilin và E.A Tzurganova chủ biên, nxb Đại học quốc gia, Hà Nội, 2003, t. 392.

[25] Văn học hậu hiện đại thế giới, (Hội Nhà Văn, Trung tâm Đông Tây, Hà Nội (2003), t. 40-42.

[26] I.P.Ilin, Chủ nghĩa hậu hiện đại, Đào Tuấn Ảnh dịch, in trong Các khái niệm và thuật ngữ của các trường phái nghiên cứu văn học ở Tây Âu và Hoa Kỳ thế kỷ 20, Đại học quốc gia, Hà Nội (2003), t. 389.

[27] I.P. Ilin, Chủ nghiã hậu hiện đại, một số khái niệm và thuật ngữ, Đào Tuấn Ảnh dịch, in trong Văn học hậu hiện đại thế giới, Những vấn đề lý thuyết, Hội nhà Văn, Trung tâm Đông Tây (2003), t.14.

[28] I.P.Ilin, Chủ nghĩa hậu hiện đại, Đào Tuấn Ảnh dịch, in trong cuốn Các khái niệm và thuật ngữ của các trường phái nghiên cứu văn học ở Tây Âu và Hoa Kỳ thế kỷ 20, Đại học quốc gia, Hà Nội,(2003), t. 389.

[29] I.P. Ilin, Chủ nghiã hậu hiện đại, một số khái niệm và thuật ngữ, Đào Tuấn Ảnh dịch, in trong Văn học hậu hiện đại thế giới, Những vấn đề lý thuyết, Hội nhà Văn, Trung tâm Đông Tây (2003), t. 31.

[30] Chủ nghĩa hậu hiện đại, Ilin, Đào Tuấn Ảnh dịch, in trong cuốn Các khái niệm và thuật ngữ của các trường phái nghiên cứu văn học ở Tây Âu và Hoa Kỳ thế kỷ 20, t. 389, do I.P Ilin và E.A Tzurganova chủ biên, nxb Đại học quốc gia, Hà Nội, 2003.

[31] Umberto Eco, Chú thích về cuốn Tên đoá Hồng (Apostille au Nom da la rose), t. 74-75.

 

 


© 1984-2016 Thụy Khuê