Tự Lực văn đoàn

Văn học và cách mạng

 

33- Giải thưởng và các nhà văn, nhà thơ cộng tác

 

Phần I

Người ta thường dựa vào việc Phong Hóa Ngày Nay bút chiến với một số báo, để chỉ trích Tự Lực văn đoàn có óc bè phái, chỉ tâng bốc những người thuộc phe mình và chê bai những nhà văn nhà thơ ngoài nhóm.  Nhưng đọc Phong Hóa Ngày Nay, sự thực không phải như thế. Việc bút chiến có gây ra một số điều đáng tiếc, nhưng không ảnh hưởng đến chủ trương quy tụ tài năng và khám phá những ngòi bút mới của Tự Lực văn đoàn; họ đã tập hợp được số lượng văn nghệ sĩ đáng kể, và khám phá ra lớp nhà văn trẻ, nhiều người thành danh nhờ Tự Lực văn đoàn.

Thơ mới được Tự Lực văn đoàn khởi xướng và phổ biến, tạo thành một phong trào mạnh mẽ với những tên tuổi lần lượt xuất hiện trên Phong Hóa Ngày Nay như Thế Lữ, Vũ Đình Liên, Phạm Huy Thông, Nguyễn Bính, Xuân Diệu, Huy Cận, Đoàn Văn Cừ, Huyền Kiêu, Tế Hanh, Anh Thơ...

Vũ Ngọc Phan khi soạn Nhà văn hiện đại, phần 1932-1940, và Hoài Thanh, Hoài Chân, khi soạn Thi Nhân Việt Nam, phần lớn đều dựa vào những tên tuổi đã nổi tiếng trên Phong Hóa Ngày Nay để đưa vào sách của họ.

Sau khi An Nam tạp chí đóng cửa hẳn, thi sĩ Tản Đà chuyển sang dịch thuật, trong gần hai năm ông đã dành việc dịch thơ Đường cho tờ Ngày Nay, từ số 77 (19-9-37) đến số 152 (11-3-39), số nào cũng có một, hai bài thơ của Lý Bạch, Đỗ Phủ... được dịch với lời Tản Đà và ông chỉ ngừng ba tháng, trước khi mất.

Về tiểu thuyết và truyện ngắn, ngoài ba cột trụ Khái Hưng, Nhất Linh, Thạch Lam, Ngày Nay còn có những cây bút hiện thực xã hội không ở trong văn đoàn Tự Lực như Trần Tiêu, Đỗ Đức Thu, Nguyên Hồng, Bùi Hiển, Thanh Tịnh, Vũ Trọng Can, các kịch tác gia Đoàn Phú Tứ, Vi Huyền Đắc... hầu như tất cả những nhà văn này đều bắt đầu sự nghiệp trên Ngày Nay. Đỗ Đức Thu, Nguyên Hồng và Nguyễn Bính là "sản phẩm" của giải thưởng Tự Lực văn đoàn.

Nhóm Xuân Thu Nhã Tập, gồm sáu thành viên, thì bốn người "xuất thân" từ Phong Hóa Ngày Nay là Đoàn Phú Tứ, Phạm Văn Hạnh, Nguyễn Đỗ Cung và Nguyễn Xuân Khoát, chỉ có Nguyễn Xuân Sanh và Nguyễn Lương Ngọc "ở ngoài" vào sau.

Những văn nghệ sĩ trên đây, đã lần lượt cộng tác với Phong Hóa từ số 16 (12-7-36); những người trẻ hơn xuất hiện trên Ngày Nay, có người ở lại đến số 224 (7-9-40) là số cuối cùng, chứng tỏ một sự hợp tác trung thành. Được như thế, có lẽ bởi vì Tự Lực văn đoàn, không những mở đường cho nền văn chương hiện đại, mà còn lấy sự nâng đỡ và khuyến khích tài năng làm mục đích mà giải thưởng Tự Lực văn đoàn là một thành quả.

Chương này chúng tôi sẽ chia làm hai phần:

Phần I: Giải thưởng Tự Lực văn đoàn và các nhạc sĩ, thi sĩ cộng tác

Phần II: Các nhà văn cộng tác

 

 

Giải thưởng Tự Lực văn đoàn

Giải thưởng Tự Lực văn đoàn được quyết định năm 1934, phát lần đầu năm 1935, và sau đó còn có hai lần nữa là 1937 và 1939.

Giải thưởng Tự Lực văn đoàn được công bố trên Phong Hóa số 99 (25-5-34) bằng những hàng sau đây:

"Giải thưởng Tự Lực văn đoàn

(Năm 1935)

Bắt đầu từ nay, Tự Lực văn đoàn đặt giải thưởng hàng năm để tặng những tác phẩm (tiểu thuyết, phóng sự, khảo luận, thi ca, kịch, sử ký, vv...) có giá trị và hợp tôn chỉ của đoàn.

Giải thưởng năm 1935 sẽ tặng riêng tiểu thuyết:

Giải nhất... 100 đồng. Giải nhì... 50 đồng.

Tiền thưởng sách này lấy ở tiền lãi cuốn Nửa chừng xuân mà ông Khái Hưng đã biếu Tự Lực văn đoàn. Nếu bán hết Nửa chừng xuân thì đủ tiền đặt giải thưởng trong bốn năm năm, mỗi năm hai giải thưởng như trên. Trong một năm, nếu không có cuốn sách nào đáng thưởng thì giải thưởng đó để lại năm sau.

Và chỉ thưởng những sách hợp tôn chỉ của đoàn, nên hội đồng chấm thi sẽ hoàn toàn là người trong Tự Lực văn đoàn.

Cuốn sách được thưởng vẫn thuộc quyền sở hữu của tác giả và được Tự Lực văn đoàn nhận đặt dấu hiệu, nếu đó là ý muốn của tác giả.

Người được thưởng không phải vì thế  mà được nhận là người trong Tự Lực văn đoàn.

Người trong Tự Lực văn đoàn không được phép dự thi. (PH số 99, 25-5-34).

 

Bảng Tôn chỉ Tự Lực Văn Đoàn trên Phong Hóa số 87 (2-3-34) có mấy điểm chính:

- Tự mình sáng tác chứ không phiên dịch sách nước ngoài.

- Viết những sách có tư tưởng xã hội, làm cho con người và xã hội cùng tiến.

- Theo chủ nghĩa bình dân, tức là soạn những sách có tính cách bình dân, không trưởng giả.

- Dùng lối văn giản dị, dễ hiểu, ít chữ nho. Trọng tự do cá nhân.

 

Đây là giải văn chương đầu tiên có tính cách quốc gia, vì dành cho người viết toàn quốc (các thành viên TLVĐ không được tham dự), tác phẩm chưa in ở đâu, do Tự Lực văn đoàn chấm giải, hướng người viết theo đường lối sáng tác mới của văn đoàn.

Số tiền 100 đồng tặng thưởng khá lớn với thời ấy. Lương tháng của nhân viên trong toà soạn Phong Hóa như Thạch Lam, Thế Lữ là 30 đồng; lương thợ thuyền, nông dân, khoảng 9, 10 đồng; cho nên phải đợi đến khi Nửa chừng xuân bán chạy, mới có tiền đặt giải thưởng.

 

1- Giải thưởng Tự Lực văn đoàn 1935

Phong Hóa số 174 (14-2-36) công bố Kết quả cuộc thi sách của T.L.V.Đ năm 1935 như sau:

"Không quyển nào đáng được giải thưởng của Tự Lực văn đoàn (giải nhất và giải nhì). Vậy 100 đồng bạc thưởng chia làm bốn phần, mỗi phần 25 đồng, để tặng 4 cuốn dưới đây:

Ba của ông Đỗ Đức Thu, chef de station météorologique Vinh. [Trưởng trạm khí tượng Vinh]

Bóng mây chiều của ông Hàn Văn Lãng, 153 Route de Huế [Phố Huế] Hà Nội.

Bóng ba người của ông Trịnh Huy Tiến, Prof. [Giáo sư] 3 R. Lê Quý Đôn, Hà Nội.

Cô Thủy của ông Nguyễn Khắc Mẫn, Directeur de L'Ecole de Plein Exercice de Bình Gia, Lạng Sơn [Giám đốc trường Thực Nghiệp Bình Gia, Lạng Sơn].

Đến 1er Mars xin lại toà báo lĩnh thưởng hoặc viết thư về để nhà báo gửi ngân phiếu đi."

Ngày Nay số 16 (12-7-36) đăng phần đầu truyện Ba của Đỗ Đức Thu, và ghi rõ: truyện này đoạn đầu hay nhưng đoạn sau không hoàn hảo nên không được giải nhất.

Tóm lại, trong bốn người được giải TLVĐ 1935, chỉ Đỗ Đức Thu sẽ thành danh. Nguyễn Khắc Mẫn, sau viết thêm ba truyện ngắn in trên Ngày Nay: Ông lão ăn mày, (NN số 109, 8-5-38), Nồi cháo cua, (NN số 110, 15-5-38), và Bà ký Đường, (NN số 135, 5-11-38), cả ba đều chỉ vào loại trung bình và tên ông sau cũng rơi vào quên lãng.

2- Không có giải Tự Lực văn đoàn 1936 và 1938

Ngày Nay số 27 (27- 9-36) và số 32 (1-11-36), đều quảng cáo: Năm 1936, chúng tôi đặt một giải thưởng 100 đồng, để tặng những tác phẩm có giá trị, bất cứ về loại gì. Đầu năm 1937, sẽ công bố kết quả. Và Ngày Nay số 58 (9-5-37) đăng mấy lời "khất" sau đây:

"Cùng các bạn có sách dự thi giải thưởng văn chương Tự Lực văn đoàn năm 1936:

 Vì sách dự thi nhiều gấp đôi năm ngoái, lại vì ông Nguyễn Tường Tam ốm nên đến giờ cũng chưa công bố được kết quả. Nếu các bạn xét rằng đọc hết 80 cuốn sách dự thi mất ít nhất là 8 tháng chắc các bạn sẽ sẵn lòng tha thứ cho sự chậm trẽ đó. Chúng tôi định đến 30 tháng 6 sẽ công bố kết quả cuộc thi Tự Lực văn đoàn."

Thạch Lam phải đọc trên 80 tác phẩm, rút cục cũng không lựa được cuốn nào, nên không có giải Tự Lực văn đoàn 1936. Rồi năm 1938 cũng sẽ không có giải thưởng, vì không có sách hay, theo thông báo trên Ngày Nay số 146 (21-1-39).

3- Giải thưởng Tự Lực Văn Đoàn 1937

Ngày Nay số 80 (10-10-37), đăng Kết quả Giải thưởng văn chương Tự Lực Văn Đoàn 1937:

"Cũng như năm trước, hội đồng giám khảo không lấy tác phẩm nào làm "Giải thưởng độc nhất của Tự Lực văn đoàn". Vì trong những tác phẩm được giải, giá trị không hơn kém nhau mấy, nên hội đồng đã chia làm hai giải thưởng.

A- Giải thưởng về kịch năm 1937- 50 đồng: Kim tiền của Vi Huyền Đắc

B- Giải thưởng về "phóng sự tiểu thuyết"-50 đồng: Bỉ vỏ của Nguyên Hồng.

Giải thưởng LD- 30 đồng: Nỗi Lòng tiểu thuyết của Nguyễn Khắc Mẫn [LD là giải thưởng của một bà vô danh tặng]

Được hội đồng đặc biệt khuyến khích: Tâm hồn tôi, tập thơ của Nguyễn Bính.

Được hội đồng chú ý, theo thứ tự:

1)- Bốn mùa, tiểu thuyết của Nguyễn Trọng Sơn.

2)- Hai người trọ học, kịch của Đại Thanh

3)- Hy sinh, tiểu thuyết của Phạm Ngọc Khôi

4)- Ngược giòng, tiểu thuyết của Nguyễn Lân".

Trên Ngày Nay số 81 (17-10-37), Thạch Lam viết bài Giải thưởng văn chương của Tự Lực văn đoàn, năm 1937, để giới thiệu các tác phẩm được giải: kịch Kim tiền của Vi Huyền Đắc, phóng sự tiểu thuyết Bỉ vỏ [cô gái ăn cắp] của Nguyên Hồng và tập thơ Tâm hồn tôi của Nguyễn Bính được sự khuyến khích của ban giám khảo. Thạch Lam cũng nói qua về bốn tác phẩm được hội đồng chú ý, mỗi cuốn đều có nét riêng, nhưng "tiếc còn nhiều khuyết điểm trong câu văn và cách diễn, khiến cho toàn thể không được hay", nên không được giải, đó là : Bốn mùa, Hai người trọ học, Hy sinhNgược dòng, và tác phẩm Nỗi lòng được giải L.D của một bà vô danh tặng.

Vi Huyền Đắc viết kịch từ trườc, năm 1935 ông đã đăng vở kịch Kinh Kha trên Phong Hóa, từ số 134 (30-1-35) đến số 138 (1-3-35). Nhưng chỉ khi vở Kim tiền được giải thưởng Tự Lực văn đoàn, và sau đó, được đăng trên Ngày Nay và diễn tại nhà Hát lớn Hà Nội, mới làm rạng danh ông. Nguyên Hồng lúc đó còn trẻ lắm, sinh năm 1918, viết Bỉ vỏ khoảng 16, 17 tuổi, gửi sách dự thi năm 1936, và được giải thưởng Tự Lực văn đoàn 1937, lúc 19 tuổi, rồi tiếp đó hồi ký Những ngày thơ ấu, được đăng hàng tuần trên Ngày Nay với lời giới thiệu hết sức ưu ái của Thạch Lam, mở đầu cho một tương lai xán lạn. Hai tác phẩm này sẽ trở thành chủ yếu trong sự nghiệp văn học của Nguyên Hồng. Sau này, không biết vì Nguyên Hồng hay vì người ta tự ý viết tiểu sử Nguyên Hồng, sợ, không dám nhắc đến giai đoạn Tự Lực văn đoàn, thực đáng tiếc và đáng trách.

Nguyễn Bính cùng tuổi với Nguyên Hồng, sinh năm 1918, tập Tâm hồn tôi nhận giải khuyến khích 1937 và sau đó thơ Nguyễn Bính được đăng trên Ngày Nay trong khoảng hơn một năm, đến khi Xuân Diệu chính thức vào làm việc trong báo Ngày Nay, thì không thấy Ngày Nay đăng thơ Nguyễn Bính nữa.

Trở về giải thưởng Tự lực văn đoàn 1937, phụ trách giải này, không biết Thạch Lam đã phải đọc bao nhiêu quyển sách dự thi? Nhưng chọn được ba tác giả đích đáng như Vi Huyền Đắc, Nguyên Hồng và Nguyễn Bính, cũng bõ công. Cách làm việc cẩn thận khi chọn lựa sách của một người có óc thẩm định văn chương cao như Thạch Lam đã nâng giá trị giải thưởng Tự Lực văn đoàn và khi không có sách hay, không tặng thưởng, cũng là một quyết định sáng suốt.

 

4- Giải thưởng Tự Lực văn đoàn 1939

Vì năm 1938, không ai được giải nên số tiền 100 đồng dành lại năm sau, thành 200 đồng. Trên Ngày Nay số 208 (18-5-1940), giải thưởng Tự Lực văn đoàn 1939 được công bố với lời giải thích sau đây:

"Đáng lẽ kết quả của Giải thưởng văn chương Tự Lực văn đoàn năm 1939 đã tuyên bố trong tháng Avril trước. Nhưng trong tháng ấy, Ngày Nay bị tạm đình bản, nên đến nay mới tuyên bố được.

Ngày 4-Avril 1940, ban giám khảo của Tự Lực văn đoàn đã họp ở tòa báo Ngày Nay để định giải thưởng. Sau hai ngày bàn cãi và lựa chọn, ban giám khảo đã định các giải thưởng sau này".

Ngày Nay bị "tạm" đình bản một tháng, không hiểu vì lý do gì.

Năm 1939, không có giải  nhất, nên ban giám khảo chia làm hai giải đồng hạng:

a) Làm lẽ, tiểu thuyết của Mạnh Phú Tư

b) Cái nhà gạch, tiểu thuyết của Kim Hà

Số tiền tặng thưởng năm 1939 là 200 đồng, sẽ chia mỗi tác phẩm 100 đồng.

Về thơ, ban giám khảo giữ lại hai tập: Bức tranh quê của Anh Thơ và Nghẹn ngào của Tế Hanh. Để khuyếnh khích phái nữ, tặng Anh Thơ 30 đồng, còn thơ Tế Hanh, nếu tác giả bằng lòng, sẽ chọn đăng trên Ngày Nay.

Trong bài Những tác phẩm dự thí giải thưởng văn chương Tự Lực văn đoàn 1939, Thạch Lam nhận định như sau: mặc dù tình hình quốc tế khó khăn, số tác phẩm gửi đến dự giải 1939 còn nhiều hơn hai năm 1937 và 1938, tiểu thuyết và thơ ca nhiều nhất, nhưng không có "tác phẩm phê bình, khảo cứu hay tư tưởng".

Nhận định thứ hai: "Xem hết cả các tiểu thuyết dự thí lần này (...) bao nhiêu những cái sáo, trong cốt truyện cũng như trong cách viết, bao nhiêu những lề lối, những mánh khoé sẵn, các tác giả ấy phần nhiều đã bỏ được hết. Vài nhà văn đã có can đảm tự là mình, đã thành thực và thẳng thắn trong khi viết. Một bước dài đã tiến, ở chỗ nhiều tiểu thuyết gia không bắt buộc sự thực phải theo chiều để bày tỏ một ý tưởng viển vông nữa, nhưng biết nhìn xét sự thực của cuộc đời để tìm ra cái bài học".

Sau đó Thạch Lam giới thiệu hai tiểu thuyết được giải là Cái nhà gạchLàm lẽ và hai cuốn không được giải là Tan tácRạng đông.

Năm 1939, tuy có nhiều tác phẩm dự thi hơn hai năm trước, nhưng không đem lại tài năng mới như hai giải trước. Mạnh Phú Tư sau có viết truyện ngắn: Người vợ già, in trên Ngày Nay số 217 (20-7-40), không có gì đặc biệt.

Thạch Lam đã có lần kể: không phải vì toà báo thiên vị, chỉ chỉ đăng những tác phẩm của người trong văn đoàn, mà vì những bài gửi đến Ngày Nay, tuy rất nhiều, nhưng ít khi thấy một truyện ngắn hay có thể đăng được. Việc đọc cả trăm quyển truyện gửi đến dự giải thưởng Tự Lực văn đoàn mà không lựa được truyện nào, càng cho thấy rõ hơn điều này: nhân tài không đầy dẫy. Ngay cả một số truyện được chọn đăng trên Ngày Nay cũng có khi dở. Thí dụ trường hợp Xuân Diệu, văn xuôi rất dở, truyện ngắn và tuỳ bút nhạt nhẽo, tiểu luận văn học không có ý, nhưng Thạch Lam vẫn "phải" đăng, có lẽ vì lúc đó mấy ông anh bận việc cách mạng, thiếu bài, nên không thể làm khác được?

Tuy nhiên mục đích của Tự Lực văn đoàn, đã đạt được một phần: người viết văn trên toàn quốc tìm cách sáng tác hay hơn, bỏ những sáo mòn cũ, để trở thành nhà văn có can đảm tự là mình, thành thực và thẳng thắn trong khi viết.

Tự Lực văn đoàn mong ảnh hưởng đến giới trẻ bằng lối sáng tác bình dân, viết tiếng Việt hay, trong sáng, dường như họ đã ít nhiều đạt được.

 

*

Các nhạc sĩ tiên phong

Tự Lực văn đoàn không chỉ chuyên về văn thơ, mà còn chú ý đến những ngành nghệ thuật khác như hội họa (chúng tôi đã trình bày trong chương Trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Đông Dương). Riêng về âm nhạc, ngay từ 1938, năm tân nhạc ra đời, Ngày Nay đã giới thiệu những nhạc sĩ tiên phong với những sáng tác đầu tiên của họ.

 

Bình minh, bản nhạc dầu tiên của Nguyễn Xuân Khoát, NN số121

 

Nhạc sĩ Nguyễn Xuân Khoát là người đầu tiên xuất hiện. Ngày Nay số 121 (31-7-38), đăng bài nhạc đầu tiên của ông, bản Bình Minh với lời Thế Lữ "soạn theo cảm hứng của nhạc sĩ"; Ngày Nay số xuân 149 (15-2-39) đăng bản Hồn xuân, nhạc Nguyễn Xuân Khoát, lời Thế Lữ. Ngoài ra Nguyễn Xuân Khoát còn viết loạt bài biên khảo: Kho tàng âm nhạc Việt Nam: hát ả đào, trên Ngày Nay, từ số 214 (29-6-40) đến  số 219 (3-8-40), cũng là bài biên khảo âm nhạc đầu tiên của một nhạc sĩ tiên phong.

 

 

Một kiếp hoa của Nguyễn Văn Tuyên, NN số 122

 

Nhạc sĩ Nguyễn Văn Tuyên có bài Một kiếp hoa, in trên Ngày Nay số 122 (7-8-38) và bài Âm điệu không lời trên Ngày Nay số 124 (21-8-38).

 

 

Tiếng đàn đêm khuya của Lê Thương, NN số 123

 Nhạc sĩ Lê Thương góp mặt với ba bài Tiếng đàn đêm khuya, nhạc và lời Lê Thương (NN số 123, 14-8-38), Xuân yêu đương (NN số xuân 149, 15-2-39) và Bản đàn xuân (NN số 198, xuân 1940, 3-2-40).

 

 

Khúc yêu đương của Thẩm Oánh, NN số 127

 Nhạc sĩ Thẩm Oánh có bài Khúc yêu đương (NN số 127 (11-9-38), lời và nhạc Thẩm Oánh, đây là bản nhạc được ban Myosotis trình diễn trong đêm ca nhạc 13-9-38, tại rạp Olympia, để lấy tiền giúp quỹ xây Nhà Ánh Sáng.

Nhạc sĩ PVXung PĐHinh có bài Đám mây hàng (NN số 125, 28-8-38) và bài Đường trường  của PVXung TNQuang (NN số 129, 24-9-38).

 

 *

Thơ Mới

Vai trò giới thiệu và phát triển Thơ mới của Tự Lực văn đoàn bắt đầu năm 1933, trên Phong Hóa Xuân, số 31 (24-1-33) với bài thơ Tình già của Phan Khôi (Chúng tôi đã trình bày trong chương Thơ mới).

Lưu Trọng Lư là nhà thơ mới đầu tiên có mặt trên Phong Hóa cùng với Phan Khôi. Trong bài giới thiệu Thơ mới trên Phong Hóa số 31 đó, có in năm bài thơ của Lưu Trọng Lư: Một bài chưa có tên, và bốn bài Trên bãi biển, Giấc mộng tình, Lại nhớ Vân Vì  sương thu đổ. Sau đó Lưu Trọng Lư chỉ gửi thêm hai bài văn xuôi: Mực tàu giấy bản (phụ lục PH số 36, 1-3-33), và truyện ngắn Ông lão kỳ khôi (PH số 75, 1-12-33), rồi ngừng hẳn. Có thể vì bài điểm sách của Lê Ta, nhạo báng tác phẩm Trên núi voi của Lưu Trọng Lư (PH số 91, 30-3-34) chăng?

Rồi Thế Lữ trở thành chủ soái Thơ mới và bỏ quên tập thơ Đau thương của Hàn Mặc Tử trên xe hỏa, nên cũng không có thơ Hàn Mặc Tử trên Ngày Nay, trừ bài Bẽn lẽn, in trên Ngày Nay số 24 (6-9-36) với tên tác giả sai là Hàn Mặc Nữ.

Nữ sĩ Thụy An, từng là chủ nhiệm Đàn Bà Mới (Sài Gòn) và Đàn Bà (Hà Nội) cũng góp mặt trên Phong Hóa với hai bài tiểu luận trong mục Phụ nữ: Chị em lấy chồng (PH số 30, 13-1-33), Chị em hãy coi chừng (PH số 34, 17-2-33); cùng bài thơ mới Chút tình thoảng qua (PH số 84, 2-2-34) và bài thơ Cảm đề Đoạn tuyệt (PH 155, 27-9-35) diễn tả sự đồng tình sâu sắc với Nhất Linh.

Vũ Đình Liên xuất hiện trên Phong Hóa từ số 50 (9-6-33) với bài thơ: Đứa trẻ ăn mày; sau đó là nhũng bài Cô hàng bán lá xim, Chiêu Quân, Lòng thương, Thân tàn ma dại, Ngày khai trường; Tiếng hát ru; Chia phôi; Nàng thơ, Hồn xưa; Mây thu[1].

Sau Phan Khôi, Lưu Trọng Lư, Nguyễn Thị Manh Manh, Thế Lữ ..., Vũ Đình Liên là một trong những nhà thơ mới đầu tiên, ông cũng là người làm thơ xã hội đầu tiên, thoát khỏi trào lưu lãng mạn lúc bấy giờ, chú ý đến những thân phận khốn cùng. Nhưng từ cuối năm 1935, Vũ Đình Liên không gửi thơ cho Phong Hóa nữa, có lẽ vì ông bận việc mở trường tư dạy học, rồi sáng tác ít đi.

Phạm Huy Thông được đăng thơ trên Phong Hóa sau Vũ Đình Liên, từ số 62 (1-9-33) với bài: Sống; tiếp đến các bài: Vọng hương ca, Cùng mặt trời, Nguyễn Du, Rạng đông rồi, Ngày xuân, Tiếng rừng, Tiếng hát buổi chiều, Tiếng họa mi ca, Chiều hôm qua, Nhớ không[2]. Thơ Huy Thông có giọng hùng tráng. Nhưng Huy Thông cũng ngừng gửi thơ cho Phong Hóa từ cuối năm 1934, sau một bài "phê bình" của Thế Lữ.

Thái Can có sáu bài thơ đăng trên Phong Hóa năm 1935: Hồn hoa, Chiều thu; Trông chồng, Phút yêu đương, Tình xuân và Im lặng[3]. Thơ Thái Can điêu luyện sâu sắc, bối cảnh cổ nhưng ý mới. Trên Phong Hóa số 185 (1-5-36) Khái Hưng viết kịch vui Trúc lâm quần tiên tụ hội, nhại thơ Huy Thông, Nguyễn Vỹ, Thái Can, Lưu Trọng Lư, Thế Lữ, Nhược Pháp; có lẽ đó là sáu nhà thơ Khái Hưng thích hơn cả lúc bấy giờ.

Chế Lan Viên được Khái Hưng viết bài giới thiệu nồng hậu Một thi sĩ Chàm Chế Lan Viên, (NN số 75, 5-9-37) và đăng bốn bài thơ: Hai đêm sầu não, Cái sọ người, Mơ trăng và Xương vỡ, máu trào. In hai bài Xuân vềTrên đường về[4] trong hai số báo kế tiếp, rồi không thấy đăng gì thêm nữa. Theo Hoàng Diệp vì Khái Hưng biết Chế Lan Viên không phải là người Chàm thật. Khái Hưng rất ghét những gì không thật.

 Nguyễn Bính xuất hiện năm 1934 trên Phong Hóa số 116 (21-9-34) với bài thơ đầu tiên Cô hái mơ, sáng tác lúc 16 tuổi. Bẵng đi ba năm không thấy thơ Nguyễn Bính đăng trên Phong Hóa, đến khi tập Tâm hồn tôi được giải khuyến khích Tự Lực văn đoàn 1937, Nguyễn Bính mới thực sự nổi tiếng: Ngày Nay in những bài thơ trích trong tập Tâm hồn tôi: Hoa rụng hai lần, Lơ đãng, Cây bàng cuối thu, Vô tình, Khách lạ đường rừng, Rừng, Đã thấy xuân về, Mơ truyện thần tiên[5].

Thơ Nguyễn Bính tự nhiên, thành thực, bình dân, khác những người cùng thời: thơ Thế Lữ chữ đẹp mà hào nhoáng, thơ Xuân Diệu chữ mới nhưng tình cảm hời hợt. Không mấy ai có chất thơ đớn đau bi đát mà nhẹ nhàng như Nguyễn Bính: chữ mộc mạc "rất thường" nhưng luôn luôn gieo nỗi buồn nhẹ mà sâu. Đầu năm 1938, khi Xuân Diệu vào làm việc ở Ngày Nay, không thấy báo này đăng thơ Nguyễn Bính nữa.

Huyền Kiêu có hai bài thơ đăng trên Ngày Nay năm 1937: Một đêm xuânSương rơi [6]; ba truyện ngắn Nàng thơ, Em bị bắt cóc! Một người giàu tử tế Lý Toét là một bài thơ nhại[7].

Đoàn Văn Cừ có năm bài thơ được đăng trên Ngày Nay: Chợ Tết, Đám  hội, Trăng hè, Thu, Đám cưới mùa xuân[8].

Anh Thơ được khuyến khích năm 1939, có ba bài thơ: Sáng hè, Trưa hè, Chợ mùa hè được đăng trên Ngày Nay số 219 (3-8-40).

Tế Hanh, được khuyến khích năm 1939, có ba bài thơ được đăng trên Ngày Nay: Trao đổiLời con đường quê (NN số 218, 27-7-40); Những ngày nghỉ học trên NN số 222 (24-8-40).

 Xuân Diệu gửi thơ đến Phong Hóa từ năm 1935, bài Với bàn tay ấy... được đăng trên PH số 158 (18-10-35), đó là bài thơ Xuân Diệu nói đến sự đồng tính của mình; lời tế nhị, hình ảnh tuyệt đẹp, rất mới, chinh phục ngay độc giả:

Một tối vòm trời chẳng bợn mây,

Cây tìm nghiêng xuống nhánh hoa gầy,

Hoa nghiêng xuống cỏ, trong khi cỏ

Nghiêng xuống làn rêu, một tối đây.[9]

Sáu tháng sau, Xuân Diệu có bài thơ thứ nhì Nụ cười xuân in trên PH số 182 (10-4-36), bình thường, nhưng đến bài thứ ba Vì sao (PH số 185, 1-5-36), với những câu hỏi lẩn thẩn rất lạ, chưa ai hỏi như thế bao giờ, nổi tiếng ngay. Sáu tháng sau, có bài Đây mùa thu tới, tặng Thế Lữ, (NN số 29, 11-10-36) với những câu thơ thực hay, những cảm xúc mới lạ:

Những luồng run rẩy rung rinh lá

Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh.

Đến bài Xa cách in trên Ngày Nay số Xuân 46 (7-1-37), đi kèm với bài Một nhà thi sĩ mới Xuân Diệu của Thế Lữ, là sự thăng hoa toàn diện. Bởi vì bài Xa cách không những có lối viết văn như Tây mà còn có sự dám nói, dám làm của Xuân Diệu. Trong bài giới thiệu, Thế Lữ đã trích những bài thơ hay của Xuân Diệu (chưa đăng trên Ngày Nay) điều này chứng tỏ, lúc đó Xuân Diệu đã viết xong tập Thơ Thơ rồi. Nhưng lần này người ta không "đánh" Thế Lữ, như ngày trước họ đã đánh Nhất Linh giới thiệu Thế Lữ. Tóm lại, Xuân Diệu may mắn được sự đỡ đầu nồng nhiệt của vị "chủ soái thơ mới" lúc bấy giờ và Ngày Nay số 96 (30-1-38) quảng cáo sẽ in tập Thơ Thơ.

Đầu năm 1938, Thế Lữ tách dần ra lập ban kịch, Xuân Diệu vào làm việc trong báo Ngày Nay, cho đến năm 1940, đã in tổng cộng khoảng 40 bài thơ trên Ngày Nay, hầu như cả sự nghiệp thi ca "tiền chiến":

Phải nói, Cảm xúc, Viễn khách; Dại khờ, Xuân rụng, Chỉ ở lòng ta, Chiều, Thanh niên, Tiếng gió, Đi dạo, Kỷ niệm, Nhị hồ, tặng Thạch Lam, Đi thuyền Dư vang, Gửi hương cho gió, Núi xa, Dối trá, Gặp gỡ, Xuân không mùa; Những kẻ đợi chờ, Buồn trăng, Mời yêu, Tình cờ, Lời kỹ nữ, Ngã ba, Ngẩn ngơ, Xuân đầu, Thu, Nguyệt cầm, Rạo rực; Giục giã, Cảm xúc; Tình thứ nhất,  Đa tình,Ý thoáng [10]

Xuân Diệu viết khoảng 13 Truyện ngắn: Mèo hoang, Cái hoả lò, Thương vay, Cái giây, Chó hoang, Sợ; Ba nàng công chúa, Sợi dây không đứt, Người học trò tốt, Thân thể, Truyện cái giường, Tỏa nhị kiềuĐứa ăn mày.[11]

Một vở kịch: Đoá hồng[12]

27 tiểu luận: Thơ ngắn; Đôi lời tự thuật về tập Thơ Thơ sắp xuất bản; Ý thơ:Thơ ái tình; Thơ ái tình; Đọc thơ; Thơ của người; Thu, Đàn bà hay là người  yêu? Ái tình và khuôn sáo, Hàng bia văn miếu, Ngày vui sống; Phấn thông vàng, Sự thực trong ái tìnhNhững điều vụn vặt; Thơ thơ ra đời (Lời đưa duyên của tác giả) Hà Nội đêm 20-12-38); Thơ khó, Tính cách Annam trong văn chương; Mở rộng văn chương; Tết trong tết ngoài; Thơ Huy Cận, Công của thi sĩ Tản Đà; Tựa Phấn thông vàng của Xuân Diệu; Bút ký; Chú lái khờ Vườn tinh hoa; Giã từ tuổi nhỏ, bút ký viết từ Mỹ Tho, tháng 3-1940; Kẻ đi đày, bút ký[13]

Nhưng, như tôi đã nói ở trên, văn xuôi Xuân Diệu rất tầm thường, nên có in bao nhiêu cũng  không đem lại gì thêm cho sự nghiệp Xuân Diệu.

 

Huy Cận được đăng thơ trên Ngày Nay sau Xuân Diệu, trong hai năm rưỡi, từ tháng 1-38 đến tháng 6-40, Huy Cận đã có 35 bài thơ in trên Ngày Nay:

Chiều xưa; Chiều xuân, Họa điệu, Đẹp xưa, Trông lên, Tắm giòng người, Nhớ hờ; Lời dịu, Đi giữa đường thơm, Hối hận, Dấu chân trên đường, Ngủ chung, Vỗ về, Buồn đêm mưa,  Quanh quẩn, Gánh xiếc, Xuân ý, Xuân, Tình mất, Ngậm ngùi, Cách xa, Chết, Giấc ngủ chiều, Thủa xưa, Chức Nữ..., Em về nhà, Hồn xuân, Áo trắng (tặng Nhất Linh), Tràng giang; Ê chề; Thân thể, Thu rừng, Nhạc sầu, Khung tình, Vạn lý tình, Tâm sự (tặng Xuân Diệu)[14]

Và theo quảng cáo trên Ngày Nay số 217 (20-7-40), Đời Nay sẽ in Lửa thiêng của Huy Cận do Tô Ngọc Vân vẽ bìa.

Thơ Huy Cận có ảnh hưởng thơ Đường, sâu sắc, cao lộng, lời thơ điêu luyện, nhưng ông vào Ngày Nay sau Xuân Diệu, lại không được Thế Lữ cất nhắc, nên bị thiệt thòi.

Phải biết rằng hồi đó Thế Lữ làm mưa làm gió, vì giữ mục điểm báo, điểm sách trên Ngày Nay, nên tha hồ "xử lý" các nhà thơ khác, như Lưu Trọng Lư, Nguyễn Vỹ, Phạm Huy Thông...

Thêm điều này nữa: Hàn Mặc Tử vì bị Thế Lữ đánh mất tập Đau thương, nên không có thơ đăng trên Phong Hóa Ngày Nay, bị cả hai nhà phê bình Vũ Ngọc Phan và Hoài Thanh gián tiếp chê là thơ "đồi trụy".

Vũ Ngọc Phan viết: "Cũng như Thế Lữ, Hàn Mặc Tử là một thi sĩ luôn luôn ca ngợi ái tình, nhưng cái quan niệm về tình yêu của của Hàn Mặc Tử không được thanh cao như của Thế Lữ. Cái tình yêu của Hàn Mặc Tử tuy diễn ra trong tập Gái quê còn ngập ngừng... nhưng đã bắt đầu nghiêng về xác thịt:

...Ống quần vo xắn lên đầu gối,

Da thịt trời ơi! trắng rợn mình...

Đến bài Hát giã gạo (Gái quê, trang 31) của ông thì lời suồng sã quá, thứ tình yêu ở đây đặc vật chất, làm cho người ta phải lợm giọng"[15]

Hoài Thanh phê bình Gái quê như sau: "Gái quê- Nhiều bài có thể là của ai cũng được. Còn thì tả tình quê trong cảnh quê. Lời thơ dễ dàng, tứ thơ bình dị. Nhưng tình ở đây không có cái vẻ mơ màng thanh sạch... Ấy là một thứ tình nồng nàn, lơi lả, rạo rực, đầy hình ảnh khêu gợi”[16]

Quan niệm thơ của hai nhà phê bình cổ lỗ như thế cũng không đáng trách, nhưng lại lấy thơ Thế Lữ làm mốc cho Hàn Mặc Tử mới kỳ.

Tuy vậy có một sự thực khó chối cãi là trừ vài trường hợp đặc biệt như Hàn Mặc Tử, Bích Khê, phần lớn những nhà thơ nổi tiếng trong nền thơ mới đều "xuất thân" từ Phong Hóa Ngày Nay. Và Hoài Thanh, Hoài Chân khi soạn Thi Nhân Việt Nam, đã hoàn toàn dựa vào sự lựa chọn của Tự Lực văn đoàn, chỉ đưa thêm một vài người "bên ngoài" vào mà thôi.

 

Xuân Thu Nhã Tập

Nhóm Xuân Thu Nhã Tập, đưa ra một lý thuyết hoàn toàn mới mẻ về sự phối hợp giữa thi ca, hội họa và âm nhạc và họ đã trình bầy tác phẩm của họ để chứng thực cho lý thuyết ấy trong tập sách Xuân Thu Nhã Tập, in năm 1941. Xuân Thu Nhã Tập mở đầu một thế hệ mới, có thể coi là "làm mới lại thơ mới" chỉ mười năm sau khi thơ mới ra đời. Như vậy ta thấy văn chương Việt Nam trong vòng 15 năm đã tiến triển nhanh như thế nào, kể từ Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách.

Khuynh hướng đem hội hoạ và âm nhạc vào thơ đã được Bích Khê thực hiện trong tập Tinh huyết (xuất bản năm 1939 do Hàn Mặc Tử viết tựa), nhưng Bích Khê là một nhân cách thơ riêng biệt, thiên tài, có trước, không liên quan với tuyên ngôn Xuân Thu Nhã Tập, ra sau.

 Buồn lưu cây đào xin hơi xuân

Buồn sang cây tùng thăm đông quân

Ô ! Hay buồn vương cây ngô đồng

Vàng rơi ! Vàng rơi: Thu mênh mông ( Bích Khê, Tỳ bà)

 

Trở về với Xuân Thu Nhã Tập, những thành viên chính của nhóm này, như trên đã nói, gồm sáu người, thì bốn người đã xuất hiện trên Phong Hóa Ngày Nay: Đoàn Phú Tứ, Phạm Văn Hạnh, Nguyễn Đỗ Cung và Nguyễn Xuân Khoát, sau chỉ thêm Nguyễn Xuân Sanh và Nguyễn Lương Ngọc.

Đoàn Phú Tứ có mặt từ năm 1933 trên Phong Hóa số 46 (12-5-33), với bài thơ Một buổi chiều xuân, làm theo phong cách thơ mới. Sau đó, ông chuyển sang viết kịch, trong ba năm, ông viết liền mười vở kịch trên Phong Hóa (từ số 59 đến số 183): Những bức thư tình, Kiều Liên, Lòng rỗng không, Chiếc nhạn trong sương, Con chim xanh, Hận ly tao, Mơ hoa, Cuối mùa, Gái không chồng, Sau cuộc khiêu vũ.[17]

Trên Ngày Nay, ông viết thêm một truyện ngắn Một vụ hiếp dâm (NN số 71); một vở kịch: Xuân tươi (NN số 96 và 97), và hai bài tiểu luận: Cuộc đời mới (NN số 99 và 100) và Vẫn chuyện cái lạy trong một đám cưới (NN số 208).

Với những vở kịch đã đăng trên Phong Hóa, Đoàn Phú Tứ có địa vị của một kịch tác gia lớn, đầy tính sáng tạo. Kịch của Đoàn Phú Tứ không giống thoại kịch "bình thưòng", thí dụ vở Chiếc nhạn trong sương, viết theo lối kịch lyrique (thi kịch) mà ông gọi là kịch ly tao, chất thơ ẩn trong mỗi ý, mỗi lời đối thoại; cả tấn bi kịch là một bài thơ dài, lãng mạng đớn đau, mà cũng hết sức nên thơ, tuyệt đẹp. Vở Hận ly tao là một thành công khác, vẫn theo lối diễn ngôn thầm kín, nhưng lần này, chính người trong kịch cũng không thấu được lòng nhau, nhân nỗi đau làm hai. Phong Hóa Ngày Nay hay đăng kịch vì Khái Hưng là người yêu kịch và viết kịch, nên đã in kịch của hai kịch tác gia tài năng nhất lúc bấy giờ là Đoàn Phú Tứ và Vi Huyền Đắc. Riêng kịch Đoàn Phú Tứ có tính cách thi ca và tư tưởng cao, người viết phải là một nhà thơ mới đạt được, và người đọc cũng phải có trình độ, mới thấu được cái hay.

Tuy nhiên, điều tôi muốn nói ở đây, không phải về kịch của Đoàn Phú Tứ mà là về bài thơ Màu thời gian của ông, in trên Ngày Nay số 198 (3-2-40) xuân 1940. Trong số báo xuân cuối cùng quy tụ các văn nghệ sĩ đã cộng tác với Tự Lực văn đoàn, Đoàn Phú Tứ đã dành công bố bài thơ Màu thời gian, bất hủ, tiêu biểu cho con đường đổi mới thi ca của Xuân thu nhã tập.

Màu thời gian

Sớm nay tiếng chim thanh

Trong gió xanh

Dìu vương hương ấm thoảng xuân tình

 

Ngàn xưa không lạnh nữa, Tần Phi!

Ta lặng dâng nàng

Trời mây phảng phất nhuốm thời gian

 

Màu thời gian không xanh

Màu thời gian tím ngát

Hương thời gian không nồng

Hương thời gian thanh thanh

 

Tóc mây một món chiếc dao vàng

Nghìn trùng e lệ phụng quân vương

Trăm năm tình cũ lìa không hận

Thà nép mày hoa thiếp phụ chàng

 

Duyên trăm năm đứt đoạn

Tình một thủa còn hương

Hương thời gian thanh thanh

Màu thời gian tím ngát

                            Đoàn Phú Tứ

Màu thời gian in cùng trang thơ với Hồn xuân của Huy Cận, Rạo rực của Xuân Diệu và Ma túy của Thế Lữ, vượt hẳn ra ngoài, với lối suy nghĩ khác hẳn, với cách lập ngôn lạ lùng, một âm nhạc riêng, không còn giống thơ mới nữa, và cho tới bây giờ, đọc lại, ta vẫn thấy có gì mới, mới lắm, bởi nó nối các thời gian xa biệt với nhau, nối các hương, sắc với nhau,  các sinh vật và tĩnh vật trong nhau, và bởi nó làm ta giật mình: màu thời gian là cái gì nhỉ?

Phạm Văn Hạnh, viết cho Ngày Nay rất ít, chỉ có một bài thơ Giọt sương xuân: Bữa qua (NN số 96 (30-1-38) và một truyện ngắn Một ngôi hàng (NN số 108, 1-5-38).

Nhưng bài Giọt sương xuân [sau in lại bỏ hai chữ Bữa qua] là thơ tự do!

Giọt sương xuân

Bữa qua lạnh lẽo, mai kia rồi lại âm thầm. Nắng chiều nay mỏng manh như điều hoài vọng. Em có nghe dặt dìu khúc nhạc im lìm... vẳng đưa hương hồng man mác?

 

Trời xuân rung động. Tôi muốn như ai vẽ trên mặt giấy muôn hình sắc của bóng sớm với mây chiều. Như tôi muốn ghi hết những hoài niệm tiêu tao... mà chắc đâu em còn nhớ?

 

Tia sáng lách mây, nằm thu trong bình cẩm chướng. Thôi, đừng sửa lại hoa nghiêng: tôi chỉ sợ ánh vàng tan nát... với những giờ quang đãng buổi xuân qua.

 

Mây bay tới tấp: những mớ hoa xưa rải rác ngang trời. Em có thấy vẫn thơm nồng tươi tắn tựa hồ đã xóa bỏ thời gian? Em có thấy vẫn còn sống những buổi đầu thơ dại?

 

Một đôi khi với những nâng niu đằm thắm, với những hương vị ngất ngây? Vì em cũng lặng nhìn mây, có lẽ đã đọc được lòng tôi rõ ràng hơn trang sách mở...

P. V. Hạnh

 Đây là bài thơ tự do đầu tiên của Việt Nam, do Xuân thu nhã tập đề xướng. Sau này ở miền Nam, Thanh Tâm Tuyền được coi là cha đẻ của thơ tự do, nhưng theo tôi, Phạm Văn Hạnh mới thực sự là cha đẻ của thơ tự do, với bài Giọt sương xuân in trên Ngày Nay số 96 (30-1-1938).

 

Phan Khôi

Trong những "bạn già" của Khái Hưng (1896-1947) phải kể Phan Khôi (1887-1959) và Tản Đà (1889-1939). Phan Khôi hơn Khái Hưng 9 tuổi và Tản Đà hơn Khái Hưng 7 tuổi.

Phan Khôi là bạn thân của Khái Hưng, ta biết chuyện này qua hai bài viết: Bài Khái Hưng giới thiệu thơ Tình già của Phan Khôi trên Phong Hóa Xuân, số 31 (24-1-33) mà tôi đã nói tới nhiều lần. Ở đây, tôi trích dẫn bài tiểu luận: Cái địa vị khôi hài trên văn đàn của Phan Khôi, in trên Phong Hóa số 26 (14-12-32) và số 28 (30-12-32), bênh vực Phong Hóa, nhất là Tứ Ly (Hoàng Đạo), lúc đó đang bị "đánh" vì người ta không thích lối hài hước trên Phong Hóa.

Sau này người ta vẫn tiếp tục viết như thế, bởi vì họ không hiểu mối thâm tình giữa những tài năng lớn.

Người ta "đánh" Phong Hóa vì dám chế giễu lý luận Phan Khôi.

Là người được "bênh vực", mà Phan Khôi lại viết bài Cái địa vị khôi hài trên văn đàn, để "trả lờì", mới lạ, tôi xin trích dưới đây một đoạn:

"Người mình hình như chưa hiểu đến cái hay của sự khôi hài là dường nào, cũng chưa hiểu đến cái ích lợi của văn khôi hài và người có tài khôi hài ra sao. Vì vậy cho nên ít ai biểu đồng  tình cùng họ, không để họ vào trong con mắt, cũng loại hết cả hài văn ra ngoài nền văn học, là phải lắm, không trách đặng.

Nhưng phải biết rằng ai có tài thông minh tuyệt thế thì mới nói được câu chuyện diễu có duyên hay là làm được bài văn bông lơn có duyên, chớ phải dễ dầu gì đâu mà khinh thị. Làm một bài văn trang hoàng điển nhã, trong mười tay văn nhân tay nào cũng làm được hết, chớ làm một bài văn khôi hài cho hay, đọc lên cho ai cũng mở miệng cười và lấy làm thích ý, thì trong mưới tay ấy chưa chắc đã có một tay làm được đâu.

Văn khôi hài nó thường làm cho cảm động người ta một cách rất mạnh mà người ta không tự biết. Giả như ông mỗ có cái tật xấu gì, có kẻ làm bài hài văn, ám chỉ mà công kích cái tật xấu ấy của ông; trong lúc ông mỗ đọc đến, ông phải tức cười nôn ruột mà không giận được, rồi có lẽ lần lần tự nhiên ông mỗ bỏ cái tật xấu ấy đi bao giờ mà chính mình ông cũng không hay. Đó mối thật một bài hài văn hay đó, và cái công dụng của nó là như thế (...)

Kể ra bọn hoạt kê, tức là người hay khôi hài, lại còn có cái đạc tánh này đáng quý lắm nữa. Là trong đám họ, người nào cũng có cái tánh tự cao và khinh đời; có người trong con mắt họ chẳng coi quyền thế ra chi, mà cả đời chỉ có nói bông nói đùa, cốt để nhủ đời hay răn đời, chớ không thèm cầu gì hết thảy. Cái tư tưởng tự do ấy, cái khí phách độc lập ấy, hỏi trong đám đọc sách muôn pho, đặt mình vào hàng đại nhân quân tử đã mấy người có được ư?". (PH số 26)

"Tôi từng đọc sách, thấy người ta nói dân tộc nào phổ thông có tánh hay khôi hài, ấy là biểu lộ ra dân tộc ấy có tư chất thông minh. Mà giọng khôi hài càng sâu sắc chừng nào, thì lại càng tỏ ra cái trình độ thông minh cao chừng ấy.

Phải lắm. Có thông minh mới nói ra được câu bông lơn có thú vị, mà cũng duy thông minh lắm mới biết ngửi thấy cái thú vị của câu bông lơn hay. Chớ còn "nói chơi không biết, nói thật không hay" thì duy có ngu đần mới như vậy, dân ấy là dân bỏ xó". (PH số 28)

 

Tản Đà

Tản Đà cũng vậy, việc Tứ Ly chế giễu Tản Đà đã trở thành một "tội không thể tha thứ được". Các nhà trí thức không biết cười thay phiên hạch tội Tứ Ly và Phong Hoá trong nhiều thế hệ, nhưng người ta có biết đâu Tản Đà cũng thích cười và ông đã ngầm khuyến khích "thằng em" để nó mua vui cho đỡ buồn.

Khi Tản Đà mất, Khái Hưng nhắc lại những kỷ niệm với Tản Đà, ta mới biết Khái Hưng quen Tản Đà từ khi còn học trung học, tức là đã hai mươi năm. Mới đầu ông mê nghe Tản Đà diễn thuyết vì Tản Đà nói chuyện có duyên lắm; cái duyên đó dẫn ông đến việc đọc và yêu thơ Tản Đà; và bao nhiêu năm Khái Hưng tiếp Tản Đà trong những bữa rượu dài vô tận.

Khi An Nam tạp chí đóng cửa, Tản Đà phải làm nhiều việc để sinh sống, Khái Hưng đề nghị Tản Đà dịch thơ Đường, nhờ đó mỗi tuần Ngày Nay mới có mấy bài thơ Lý Bạch, Đỗ Phủ, Vương Xương Linh... nâng cao giá trị tờ báo và làm đẹp lòng độc giả yêu thơ.

Trong một năm rưỡi, 75 tuần lễ, Tản Đà đã dịch thơ Đường cho Ngày Nay, từ số 7 (19-9-37), lần đầu dịch Vương Xương Linh và Lý Bạch, đến số 152 (11-3-39), dịch hai bài thơ của Bạch Cư Dị, là lần cuối. Ba tháng sau Tản Đà qua đời. Ông mất ngày 7-6-1939, tại nhà 71 Ngã Tư Sở, Khái Hưng có mặt.

Nếu ngày ấy Khái Hưng không nhờ thi sĩ dịch thơ Đường thì làm sao chúng ta có được tập Đường thi với giọng Tản Đà? Nhưng cả hai đều đã cưỡi hạc bay xa.

Hạc vàng ai cưỡi đi đâu,

Mà đây Hoàng Hạc riêng lầu còn trơ!

Hạc vàng đi mất từ xưa,

Nghìn năm mây trắng bây giờ còn bay.

Hán dương sông tạnh, cây bầy,

Bãi xa Anh vũ xanh dầy cỏ non.

Quê hương khuất bóng hoàng hôn,

Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai.[18]

 

(Còn tiếp)
Thụy Khuê

thuykhue.free.fr


 

[1] Vũ Đình Liên xuất hiện từ PH số 50 (9-6-33) với bài thơ: Đứa trẻ ăn mày; rồi Cô hàng bán lá xim (PH số 98, 18-5-34); Chiêu Quân (PH số 105, 6-7-34); Lòng thương (PH số 108, 26-7-34); Thân tàn ma dại (PH số 111, 18-8-34); Ngày khai trường (PH số 114, 7-9-34); Tiếng hát ru (PH số 115, 14-9-34); Chia phôi (PH 138, 1-3-35); Nàng thơ (PH số 145, 19-4-35); Hồn xưa (PH số 155, 27-9-35); Mây thu (PH số 163, 22-11-35).

[2] Thơ Phạm Huy Thông: Sống (PH số 62, 1-9-33); Vọng hương ca (PH số 63, 8-9-33); Cùng mặt trời (PH số 65, 22-9-33); Nguyễn DuRạng đông rồi (PH số 66, 29-9-33); Ngày xuân (PH số 96, 4-5-34); Tiếng rừng (PH số 106, 13-7-34); Tiếng hát buổi chiều (PH số 107, 20-7-34); Tiếng họa mi ca (PH số 120, 19-10-34); Chiều hôm qua (PH số 121,26-10-34); Nhớ không (PH số 124, 16-11-34).

[3] Thái Can, thơ: Hồn hoaChiều thu (PH số 153, 13-9-35, đặc biệt trung thu); Trông chồngPhút yêu đương (PH số 154, 20-9-35); Tình xuân (PH số 155, 27-9-35); Im lặng (PH số 156, 4-10-35).

[4] Chế Lan Viên: Xuân về (NN số 76, 12-9-37) và Trên đường về (NN số 77,19-9-37).

[5] Nguyễn Bính: trong tập Tâm hồn tôi: Hoa rụng hai lần Lơ đãng, (NN số 83, 31-10- 37): Cây bàng cuối thu (NN số 86, 21-11-37); Vô tình (NN số 88, 5-12-37); Khách lạ đường rừngRừng (NN số 89, 12-12-37); Đã thấy xuân về (NN số 96, 30-1-38); Mơ truyện thần tiên (NN 98, 20-2-38).

[6] Huyền Kiêu, thơ: Một đêm xuân (NN số 99, 27-2-37) và Sương rơi (NN100, 6-3-38).

[7] Huyền Kiêu, truyện ngắn: Nàng thơ (NN số 139, 3-12-38) Em bị bắt cóc! (NN số 162, 20-5-39) và Một người giàu tử tế (NN số 195, 6-1-40) và bài thơ nhại Lý Toét (NN số 201, 2-3-40).

[8] Thơ Đoàn Văn Cừ: Chợ Tết (NN số xuân 149, 15-2-39); Đám hội (NN số 150, 25-2-39); Trăng hè Thu, (NN số 182, 7-10-39); Đám  cưới mùa xuân (NN số 198, xuân 1940, 3-2-40).

[9] Bản Phong Hóa số 158 (18-10-35). Trong bài Một nhà thi sĩ mới Xuân Diệu của Thế Lữ (NN số 46,7-1-37),  sửa  thành Một tối bầu trời đắm sắc mây, hay hơn. Sau in thành sách sửa một tối đây thành một tối đầy, hay hơn.

[10] Thơ Xuân Diệu: Với bàn tay ấy...đăng trên PH số 158 (18-10-35), Nụ cười xuân (PH số 182, 10-4-36), Vì sao (PH số 185, 1-5-36), Đây mùa thu tới, tặng Thế Lữ (NN số 29, 11-10-36), Xa cách (NN số 46, 7-1-37), Một nhà thi sĩ mới Xuân Diệu của Thế Lữ (NN số 46,7-1-37), Phải nói (NN số 84, 7-11-37); Cảm xúc, (NN số 96, 30-1-38) Viễn khách (NN số 101, 13-3-38); Dại khờ (NN số 106, 17-4-38); Xuân rụng (NN số 112, 29-5-38) Chỉ ở lòng ta (NN số 114, 12-6-38) Chiều, (NN số 116, 26-6-38); Thanh niên (NN số 120, 24-7-38) Tiếng gió, (NN số 122, 7-8-38);  Đi dạo, (NN số 123, 14-8-38); Kỷ niệm, (NN số 125, 28-8-38); Nhị hồ, tặng Thạch Lam (NN số 126, 4-9-38); Đi thuyềnDư vang, (NN số 129, 24-9-38); Gửi hương cho gió, (NN số 135, 5-11-38); Núi xa, (NN số 139, 3-12-38); Dối trá, (NN số 144, 7-1-39); Gặp gỡ, (NN số 145, 14-1-39);  Xuân không mùa (NN số xuân 149, 15-2-39); Những kẻ đợi chờ (NN số 153, 13-3-39); Buồn trăng, (NN số 155, 1-4-39); Mời yêu, (NN số 156, 8-4-39); Tình cờ, (NN số 160, 6-5-39); Lời kỹ nữ (NN số 163, 27-5-39);  Ngã ba (NN số 168, 1-7-39); Ngẩn ngơ (NN số 183, 14-10-39),  Xuân đầu (NN số 188, 18-11-39); Thu, (NN số 192, 16-12-39); Nguyệt cầm, (NN số 197, 20-1-40); Rạo rực (NN số 198, xuân 1940, 3-2-40); Giục giã, (NN số 199, 12-2-40); Cảm xúc (NN số 201, 2-3-40); Tình thứ nhất (NN số 215, 6-7-40); Đa tình, (NN số 217, 20-7-40; Ý thoáng (NN số 218, 27-7-40).

[11] Truyện ngắn Xuân Diệu: Mèo hoang (NN số 81, 17-10-37); Cái hoả lò (NN số 93, 9-1-38); Thương vay (NN số 94, 16-1-38); Cái giây (NN số 105, 10-4-38), Chó hoang (NN số 108, 1-5-38), Sợ (NN số 111, 22-5-38), Ba nàng công chúa, truyện Ả Rập (NN số 112, 29-5-38) số 113 (5-6-38) và số114 (12-6-38), Sợi dây không đứt (NN số 113, 5-6-38), Người học trò tốt, (NN số 116, 26-6-38), Thân thể, (NN số 118, 10-7-38), Truyện cái giường, (NN 121, 31-7-38), Tỏa nhị kiều, NN số 130 (1-10-38),  Đứa ăn mày (NN số 155, 1-4-39).

[12] Kịch Đoá hồng (NN số 98, 20-2-38).

[13] Tiểu luận của Xuân Diệu: Thơ ngắn, (NN số 99, 27-2-38), Đôi lời tự thuật về tập Thơ Thơ sắp xuất bản (NN số 102, 20-3-38); Ý thơ: Thơ ái tình, (NN số 107, 24-4-38); Thơ ái tình, (NN số 108, 1-5-38); Đọc thơ, (NN số 110, 15-5-38); Tựa cuốn Thơ thơ của Thế Lữ (NN số 119, 17-7-38); Thơ của người, (NN số 122, 7-8-38) và số 123, 14-8-38); Thu (NN số 125, 28-8-38); Đàn bà hay là người  yêu? Ái tình và khuôn sáo (NN số 127, 11-9-38); Hàng bia văn miếu  (NN số 129, 24-9-38); Ngày vui sống (NN số 133 (22-10-38); Phấn thông vàng (NN số 135, 5-11-38); Sự thực trong ái tình  (NN số 136, 12-11-38); Những điều vụn vặt (NN số 137, 19-11-38); Thơ thơ ra đời (Lời đưa duyên của tác giả) Hà Nội đêm 20-12-38) (NN số 142 (24-12-38); Thơ khó, (NN số 145, 14-1-39); Tính cách Annam trong văn chương (NN số 147, 28-1-39) Mở rộng văn chương (NN số 148, 4-2-39); Tết trong tết ngoài (NN số xuân 149, 15-2-39); Thơ Huy Cận (NN số 151, 4-3-39); Công của thi sĩ Tản Đà (NN số 166 (17-6-39); Tựa Phấn thông vàng của XD (NN số 168, 1-7-39); Bút ký (NN số 182, 7-10-39); Chú lái khờ, (NN số 186, 4-11-39); Vườn tinh hoa (NN số 194, 30-12-39); Giã từ tuổi nhỏ, bút ký viết từ Mỹ Tho, tháng 3-1940 (NN số 207,11-5-40); Kẻ đi đày, (NN số  211, 8-6-40).

[14] Thơ Huy Cận: Chiều xưa (NN số 96, 30-1-38), Chiều xuân (NN số 102 (20-3-38), Họa điệu (NN số 107 (24-4-38), Đẹp xưa (NN số 120, 24-7-38), Trông lên (NN 121, 31-7-38); Tắm giòng người (NN số 122, 7-8-38), Nhớ hờ (NN số 123, 14-8-38), Lời dịu (NN số 124, 21-8-38), Đi giữa đường thơm (NN số 127 (11-9-38), Hối hận (NN số 136, 12-11-38), Dấu chân trên đường (NN số 139, 3-12-38), Ngủ chung (NN số 141, 17-12-38), Vỗ về (NN số 142, 24-12-38), Buồn đêm mưa (NN số 143, 31-12-38), Quanh quẩn (NN số 145, 14-1-39), Gánh xiếc (NN số 147, 28-1-39),  Xuân ýXuân (NN số xuân 149, 15-2-39), Tình mất (NN số 157, 15-4-39), Ngậm ngùi (NN số 161, 13-5-39), Cách xa (NN số 173, 5-8-39), Chết (NN số 182, 7-10-39), Giấc ngủ chiều (NN số 186, 4-11-39), Thủa xưa, Chức Nữ... (NN số 191, 9-12-39), Em về nhà (NN số 194, 30-12-39), Hồn xuân (NN số 198, xuân 1940, 3-2-40), Áo trắng (tặng Nhất Linh) và Tràng giang (NN số 201, 2-3-40), Ê chề (NN số 202, 9-3-40), Thân thể (NN số 203, 16-3-40), Thu rừng (NN số 205, 30-3-40), Nhạc sầu (NN số 209, 25-5-40), Khung tình (NN số 210, 1-6-40), Vạn lý tình (NN số  211, 8-6-40), Tâm sự (tặng Xuân Diệu) (NN số 213, 22-6-40).

[15]Nhà văn hiện đại, quyển ba, trang 762-763.

[16] Thi nhân Việt Nam, trang 205-206.

[17] Kịch của Đoàn Phú Tứ: Những bức thư tình (PH số 59,11-8-33), Kiều Liên (PH số 64, 15-9-33, và số 65), Lòng rỗng không (PH số 68, 13-10-33), Chiếc nhạn trong sương (PH số 76, 8-12-33), Con chim xanh (phụ trương PH số 87, 2-3-34), Hận ly tao (PH số 94, 20-4-34, và số 95), Mơ hoa (PH số 108, 26-7-34 và số 110, 10-10-34), Cuối mùa (PH số 155, 27-9-35), Gái không chồng (PH số 179, 20-3-36), Sau cuộc khiêu vũ (PH số 183, 17-4-36 và số184).

[18] Hoàng Hạc Lâu, thơ Thôi Hiệu, Tản Đà dịch, Ngày Nay số 80 (10-10-37).

*

 


© 2021 Thụy Khuê