Thụy Khuê Cấu Trúc Thơ
I. Nguồn gốc thi ca:
Thơ có từ bao giờ? Ðến nay chưa ai
biết rõ. Những thi phẩm đầu tiên của nhân loại còn lưu
đến ngày nay, ở Ðông phương là Kinh Thi, gồm 311 bài
(sự thật có 305 bài và 6 đề mục, không có lời) xuất hiện
từ đầu Tây Chu đến giữa Xuân Thu (tức là từ thế kỷ
XI đến thế kỷ VI trước Công Nguyên). Hiện nay, theo nhiều
nhà nghiên cứu, Kinh Thi là tập thơ do các quan âm nhạc
triều Chu sưu tập, dựa trên công trình tìm kiếm của nhạc
công các nước chư hầu. Bên cạnh số lớn ca dao còn có sáng
tác của thi nhân và quý tộc soạn để phổ nhạc. Kinh
Thi kết hợp với âm nhạc (thơ phổ nhạc), về sau chỉ
ghi lại được phần lời là 305 bài thơ còn lại đến ngày
nay. Trong quá trình biên soạn và sử dụng Kinh Thi, các
quan âm nhạc và các nhà quý tộc, trong đó có Khổng Tử,
đã chỉnh lý, sắp xếp ít nhiều về nội dung cũng như hình
thức. Kinh Thi đã từng bị Tần Thủy Hoàng tiêu hủy,
đến đời Hán mới sưu tập lại. Bản dùng hiện nay là của
Mao Hanh, thường được gọi là Mao Thi. Lối thơ trong Kinh
Thi rất tự do, không bị gò ép trong niêm luật, lời
lẽ mộc mạc, tự nhiên, không đẽo gọt, trau chuốt:
Trong bài tựa Kinh Thi, Chu Hy viết: " Thơ là cái dư âm (thanh âm còn dư) của lời nói trong, khi lòng người cảm xúc với sự vật mà nó thể hiện ra ngoài" -lời nói trong của Chu Hy đồng nghĩa với tiếng nói nội tâm của Croce-. Câu trên có thể xem như một định
nghĩa cô đọng về bản chất thi ca. Vừa nói lên tính cách
tự tại và nội tại của thơ trong ngôn ngữ, trong con người
và khả năng giao cảm giữa người và sự vật trong thơ.
*
Ở phương Tây, hai tác phẩm thi ca truyền
khẩu xưa nhất còn lưu lại đến ngày nay là Iliade (24
bài) và
Odyssée (24 bài) mà Homère được coi như tác
giả. Homère là một người hay nhiều người? - không có gì
chứng minh rõ. Trước Homère dân Hy Lạp đã có chữ viết
hay chưa? Ngày nay, nhiều giả thuyết vững vàng cho rằng Iliade
đã xuất hiện vào giữa thế kỷ thứ VIII trước Thiên Chúa
giáng sinh và người Hy Lạp phát minh chữ viết cũng trong thời
gian ấy để ghi lại sử thi Iliade. Có điều chắc chắn rằng
Homère may mắn hơn các thi sĩ khác vì thi ca Tây phương, trước
ông, chỉ được truyền khẩu, tới đó mới có phương tiện
ghi lại cho đời sau.
*
Odyssée gồm 24 bài thơ, chép lại
quãng đời 20 năm phiêu lưu, thần kỳ và thơ mộng của Ulysse,
sau chiến thắng thành Troie, trở về cố quốc Ithaque.
Thi ca ở Việt Nam Ở nước ta, không biết đích xác thi ca có từ bao giờ, nhưng đến cuối thế kỷ thứ X thì chắc chắn đã thịnh hành, vì có hai dữ kiện được ghi lại: - Sách "Văn hiến thông khảo" (3) chép việc sứ nhà Tống là Tống Cảo, năm 990 được dự buổi tiệc do vua Lê Ðại Hành khoản đãi và chính nhà vua "tự hát bài mời rượu" nhưng Tống Cảo không hiểu được lời ca bằng tiếng Việt. Vậy trong thời Tiền Lê, nghệ thuật ca hát đã được phổ biến. - Sách "Ðại Việt Sử ký toàn thư"(4) chép việc năm Ðinh Hợi (987), dưới thời vua Lê Ðại Hành nhà Tống sai Lý Giác sang sứ nước ta:
(Ðại Việt Sử Ký Toàn Thư, NXB Khoa Học Xã Hội - Hà Nội 1983, tập I, trang 222) Bài ca tiễn Lý Giác trên đây của sư Khuông Việt có thể xem như bài thơ chữ Hán đầu tiên còn ghi dấu lại trong sử sách của chúng ta. Sư Khuông Việt tên thật là Ngô Chân Lưu (933 - 1011) được vua Ðinh Tiên Hoàng trao cho chức Tăng Thống và ban hiệu Khuông Việt Ðại sư. Dưới nhà Tiền Lê, ông lại càng được trọng đãi. Ngoài khúc ca Vương Lang quy (6) trên đây (Vương Lang quy là tên một thể loại từ khúc mà tác giả mô phỏng), sư Khuông Việt còn để lại hai câu thơ Thủy Chung để tặng học trò và bài kệ Nguyên hỏa ứng khẩu lúc sắp mất. Hai nhà sư Pháp Thuận, Khuông Việt và vài tác gia khuyết danh là những tác gia đầu tiên còn lưu lại dấu vết đến ngày nay(7). Sang đời Lý, thơ chữ Hán đã có cơ sở vững vàng. Sư Viên Thông đời Lý làm đến hàng nghìn bài kệ để phổ biến giáo lý nhà Phật. Ngoài ra còn có những bài tuyệt cú, đầy chất thơ như bài Ngư nhàn của sư Không Lộ, bài Cáo tật thị chúng của sư Mãn Giác và bài thơ nổi tiếng Nam quốc sơn hà (1077), nêu cao tinh thần chống ngoại xâm của Lý Thường Kiệt (1036 -1105):
dịch:
*
Thơ bằng tiếng nước ta (tức thơ Nôm) không biết xuất hiện từ năm nào. Thiền sư Từ Ðạo Hạnh (không rõ năm sinh, mất năm 1117), tên thật là Từ Lộ, còn để lại bốn bài thơ chữ Hán: Vấn Kiều Trí Huyền, Thất Châu, Hữu Không, Thị tịch cáo đại chúng, giãi bầy triết lý đạo Phật và theo sách Hí trường phả lục của Lương Thế Vinh (in năm 1501, đời Lê Hiến Tông), Từ Ðạo Hạnh có sáng tác một bài giáo trò như sau:
Vậy rất có thể bài giáo trò của Từ Ðạo Hạnh là bài thơ Nôm đầu tiên còn lưu dấu lại. Ðến đời Nguyễn Thuyên mọi việc rõ ràng hơn. Ðại Việt sử ký toàn thư chép việc năm Nhâm Ngọ (1282) dưới thời vua Trần Nhân Tông:
Bài Văn Tế Cá Sấu của Nguyễn
Thuyên đã mất. Theo sử sách cũ và các gia phả họ Nguyễn
ở Bắc Khê (Cao Bằng) và ở Vụ Cần (Vĩnh Phú), Nguyễn
Thuyên (không rõ năm sinh và năm mất) là người đầu
tiên dùng tiếng Việt chép gia phả họ Nguyễn, viết quốc
sử và giỏi thơ quốc âm. Tác phẩm Phi sa tập của
Nguyễn Thuyên gồm thơ Nôm và thơ chữ Hán nay không còn nữa,
và chắc chắn là tập thơ Nôm đầu tiên của Việt Nam. Nguyễn
Thuyên khai sáng ra thơ Nôm Ðường luật nên còn gọi là Hàn
luật.
Những tác phẩm văn thơ Nôm đời Trần đã mất gần hết, chỉ còn lại một số như: Cư trần lạc đạo phú (phú ở cõi trần vui đạo) và Ðắc thú lâm tuyền thành đạo ca (bài ca được thú lâm tuyền thành đạo) của Trần Nhân Tông (1258 - 1308), Vịnh Vân Yên tự phú của Huyền Quang Lý Ðạo Tái (1254 - 1334), Giáo tử phú (phú dạy con) của Mạc Ðĩnh Chi (1284 -1361) và bài thơ Nôm tục truyền của Nguyễn thị Ðiểm Bích, còn có tên khác là Vân Bích, cung nhân của vua Trần Anh Tông (1293 - 1314):
Như vậy, đầu thế kỷ thứ XIV, thơ quốc âm đã thịnh hành. Ngoài giai thoại nàng Ðiểm Bích, hay Vân Bích, đẹp và giỏi thơ Nôm, được vua Anh Tông giao cho nhiệm vụ thử lòng sư Huyền Quang. Vì không lung lạc được Huyền Quang nên Ðiểm Bích tâu vua rằng nhà sư đã làm bài thơ trên như một bằng chứng là Huyền Quang đã bị dao động trước nhan sắc nàng. Sau vua Anh Tông biết nỗi oan của nhà sư, đầy nàng làm thị nữ quét chùa. Còn một giai thoại nữa, dưới thời Anh Tông, được ghi trong Ðại Việt Sử Ký, năm Bính Ngọ (1306):
Trịnh Tạc truyền tịch thu những tập sách Nôm "có hại cho giáo hóa" đem đốt đi. Việc này lại được Trịnh Cương tiếp tục vào đầu thế kỷ XVIII. Quốc Âm Thi Tập của Nguyễn
Trãi là tác phẩm thơ Nôm xưa nhất còn lưu lại trong văn
học Việt Nam.
Thơ Nguyễn Trãi cao trong nghệ thuật dùng chữ, sâu trong nhân sinh quan và vũ trụ quan và đẹp trong niềm vui tự tại của con người trước sự cô đơn của chính mình:
Ai dám bảo những câu thơ này không ... tự do? Những hình ảnh trà mai, đêm nguyệt ... không tân kỳ? Trải 500 năm nay vẫn còn mới:
Mới trong cấu trúc từ ngữ, mới trong nhạc điệu, mới trong tư tưởng, mới trong cảm quan của thi nhân với thiên nhiên, vũ trụ:
Ca dao Hình thức thi ca gần gụi với dân
gian là ca dao. Ca dao, còn gọi là phong dao, tiếng nhà nho dùng
để chỉ phần thơ được quan tâm tới và ghi chép lại trong
một bài ca hay bài hát truyền khẩu. Tục ngữ là một câu
nói ngắn gọn, có vần, có nhịp điệu, có ý nghĩa, đôi
khi triết lý, rút ở kinh nghiệm đời sống hàng ngày. Ca dao
và tục ngữ đều có vần điệu và cô đọng, nhưng ca dao
thuộc lãnh vực thơ, tục ngữ, có ý phán đoán, thực nghiệm,
gần với văn.
Những nhà nghiên cứu văn học dân
gian cho rằng cuốn "Nam phong giải trào" là một công
trình sưu tập ca dao xưa nhất(12)
Ðến đời Nguyễn, dưới thời vua
Minh Mệnh, khoảng 1827 trở đi, Ngô đình Thái (hiệu là Ngô
Hạo Phu, tức Ngô Thế Mĩ) sưu tập những câu thơ dịch của
Trần Danh Án và chính ông cũng dịch thêm một số nữa.
Theo chi tiết ghi ở bài tựa Nam phong giải trào thì Trần Danh Án soạn 17 chương (mỗi chương tương đương với một bài ca dao), Ngô Hạo Phu 4 chương; và tổng số ca dao của tập sách là 68 bài. Vậy phần của Trần Doãn Giác khoảng 2/3. Chính ông đã đi khắp đó đây để tìm "những câu ca dao nơi xóm ngõ, những khúc hát chốn cửa đình" ghi lại, chú giải và đặt tên cho tập sách là Nam phong giải trào. Về văn bản, hiện nay có 4 bản khác nhau:
Nam phong giải trào, sưu tập cuối đời Lê, đầu Nguyễn, nên có phần chắc chắn đã ghi lại một số lớn ca dao đời Lê. Ví dụ như câu:
có thể được sáng tác vào thời Lê - Mạc. Theo sách Bắc giang địa chí của Nhật Nham Trịnh Như Tấu: Khi xưa, các sứ thần đi sang phương Bắc hoặc các binh sĩ đi thú Lạng Sơn, Cao Bằng đều phải đi qua sông Thương. Người thân đưa đến tả ngạn sông này thì phải ly biệt. "Những cuộc tiễn biệt ấy để lại cho ta nhiều câu phong dao ai oán" và một trong những bài phong dao ấy là "Ai lên xứ Lạng". Nếu so sánh bài ca dao này với một đoạn thơ chữ Nôm, trong trường ca Sứ tình tân truyện của Nguyễn Tôn Khuê (1692 -1766):
chúng ta càng tin chắc rằng cái phố Kỳ Lừa kia, đông vui, hấp dẫn lắm đến nỗi chàng trai đã "mảng vui quên hết lời em dặn dò". Tương tự, những câu:
Phạm đình Hổ (1768 - 1839) trong Vũ Trung
tùy bút, ghi là bài ca của vợ các lính thú làm khi chồng
phải đi đánh trận trong chiến tranh Lê - Mạc ở Cao Bằng.
cùng loại với bài
có thể phát xuất từ bài thơ chữ Hán, Lê Lợi làm năm 1429 khi đi đánh đèo Cát Hãn trở về, có câu "lời truyền ba trăm ngọn thác quanh co rất nguy hiểm" (trăm bẩy mươi + trăm ba mươi = ba trăm). Một giai thoại khác nói về hai câu ca dao:
Trần Doãn Giác đã nghĩ đến tâm sự "người đàn bà góa, nhân trời rét mà làm bài ca này, đủ thấy sự khổ sở của việc giữ tiết hạnh", chúng ta cũng có thể liên tưởng đến Nhất Linh, khi viết Lạnh lùng, có thể nhà văn đã "cảm" hai chữ "lạnh lùng" ấy trong ca dao Việt. Ca dao, dù là sáng tác của cá nhân hay tập thể, ở bất cứ thời đại nào, gần gũi với đại đa số quần chúng, là nguồn tư liệu phong phú về lịch sử, xã hội, và là sản phẩm tinh thần của cả dân tộc. Paris tháng 1/1991
Chú thích:
(7) Xem Thơ văn Lý Trần, tập I, nhà xuất bản Khoa
Học Xã Hội, Hà Nội, 1977.
(9) ÐVSKTT, tập II, trang 45.
Bài thơ này khá giống với phong cách phóng khoáng của Huyền Quang trong nhiều bài thơ khác của ông. Chắc rằng Vân Bích tâu với vua về bài thơ chữ Hán này, còn bài dịch ra quốc âm của Vân Bích, hoặc của một tác giả khác được truyền tụng như sau:
Bài dịch này không sát nguyên văn, có phần
xuyên tạc để kết án Huyền Quang.
(11) ÐVSKTT, tập II, trang 89.
© 1991-1995 Thụy Khuê
|