Thụy Khuê Cấu Trúc Thơ
II. Những điều đã viết
Bài tiểu luận bằng quốc ngữ đầu
tiên phân tích bản chất thơ có lẽ là bài "Thơ ta và thơ
tây" của Phạm Quỳnh, xuất hiện năm 1917 trên Nam Phong
Tạp Chí. Phạm Quỳnh đưa ra một định nghĩa rất đơn giản
về thơ: "Ta coi thơ tức là vẽ, và vẽ
tức là thơ; thơ là vẽ bằng lời, bằng thanh âm, vẽ là
thơ bằng hình, bằng màu sắc [...].
Khó mà tìm một định nghĩa rõ ràng
và ngắn gọn hơn,vừa nói lên mối tương quan giữa thi và
họa, vừa xác định những yếu tính của thơ: dùng ngôn ngữ
làm chất liệu để tạo hình (thiên nhiên hoặc tâm cảnh),
khêu gợi cảm tình trong tâm trí người đọc.
Trong Nhà Văn Hiện Ðại (1942), Vũ
Ngọc Phan có giới thiệu cuốn Chương Dân Thi Thoại
của Phan Khôi, in năm 1936 tại Huế. Theo nhận định của Vũ
Ngọc Phan thì đây là cuốn sách biên tập và bình thơ có
giá trị. Hoàng Văn Chí trong Trăm Hoa Ðua Nởû Trên Ðất
Bắc (1959) cho rằng Chương Dân Thi Thoại còn có tên
là Nam Âm Thi Thoại, in khoảng 1930 tại Hà Nội, đến
năm 1936 in lại, đổi tên là Chương Dân Thị Thoại.
Chương
Dân là bút hiệu khác của Phan Khôi. Vậy Nam Âm Thi Thoại
có thể xem như là cuốn sách bình thơ đầu tiên viết bằng
chữ quốc ngữ.
*
Hàn Mặc Tử trong thư viết cho Hoàng
Trọng Miên tháng 6 năm 1939 (in lại trong tập Chơi giữa
mùa trăng) đề ra quan niệm về thơ dựa trên thánh chúa:
"Ðức
Chúa Trời đã tạo ra trăng, hoa, nhạc, hương, để cho người
đời hưởng thụ, nhưng người đời u mê phần nhiều không
biết tận hưởng một cách say sưa (...). Vì thế, trừ hai
loài trọng vọng là "thiên thần và loài người" ra, Ðức
Chúa Trời phải cho ra đời một loài thứ ba nữa: loài Thi
Sĩ (...). Thi sĩ rơi xuống cõi đời, bơ vơ, bỡ ngỡ và lạ
lùng, không có lấy một người hiểu mình (...).
Quan niệm huyền diệu về thơ trên đây
của Hàn Mặc Tử tuy không chủ xướng một lý thuyết về
thơ, nhưng đã phản ảnh chân thành tâm hồn và động cơ
sáng tác của thi sĩ, đồng thời nói lên mối tương quan giữa
thi nhân và trời đất, giữa thơ và nhạc, thơ và các ngành
nghệ thuật khác.
*
Trong Nhà Văn Hiện Ðại, tập
III (1942), Vũ Ngọc Phan dành riêng phần VI để viết về một
số nhà thơ trong phong trào Thơ Mới.
*
Năm 1941, nhóm Xuân Thu Nhã Tập(2) -Nguyễn Ðỗ Cung, Phạm văn Hạnh, Nguyễn Xuân Sanh, Ðoàn Phú Tứ, Nguyễn Lương Ngọc và Nguyễn Xuân Khoát- dưới lối trình bầy đôi khi bí hiểm, đưa ra một số lý thuyết mới mẻ về thơ, họa và nhạc, tìm mối tương quan mật thiết giữa ba ngành nghệ thuật và xác định một triết lý thi ca nằm trong tinh thần chữ Ðạo của Ðông phương. Bằng lập luận có hệ thống, phát xuất từ nền tảng tư tưởng Tây phương: tự do hưởng thụ, đề cao vai trò của giác quan (trước khi dùng những phương thức lý trí, có ý thức, có hệ thống để phán đoán (...) chúng ta đã chịu sức quyến rũ của mùi thơm), và cá nhân chủ nghĩa: (thơ chỉ là một sự nhớ lại, một cuộc trở về của thi sĩ trong cái tôi của mình nằm trong sự vật); nhóm Xuân Thu Nhã Tập phủ nhận tư tưởng Tây phương để quay về với triết lý Ðông phương. Ðoàn Phú Tứ từ bỏ cái "tôi" hẹp hòi của Tây phương để bước sang cái "ta" Ðông phương, với hy vọng tìm ra chân lý trong cái "ta" vô cùng vô tận:
Theo lập luận đó, từ cái "ta" lồng
lộng đẹp vô cùng ấy nẩy sinh "Cái Ðẹp" và "Sự Thật",
hai yếu tố căn bản cấu tạo nên Thơ. "Thơ là một cái gì
không giải thích được ... Nó tràn sóng sang người đọc,
được rung động theo nhịp điệu của Tuyệt Ðối ... Ta là
chiếc đàn muôn dây, rung theo nhịp điệu của vô cùng, và
trên cánh nhạc, ta cảm thông với sự thật của Trời Ðất,
sự thật tuyệt đối".
Phủ nhận tư tưởng Tây phương chỉ là một cách nói, vì nghiệm cho cùng triết lý Ðông Tây có nhiều chỗ gặp nhau: Lập thuyết "Ðạo là nguồn gốc sự vật" và thuyết "tương đối "của Trang Tử không xa lập thuyết "Bản thể là nguồn gốc sự vật" của Parménide và thuyết "vạn vật biến đổi" của Héraclite. Sau này Nietszche chủ trương xóa bỏ bản thể, quên bản thể lại càng gần với thuyết "tạo vật huyền đồng" của Trang Tử hơn nữa. Vậy cái Tôi Tây phương, đẩy đến cùng, chính là bản thể của sự vật, phần tinh khiết sâu kín nhất và cũng là cái Ta Ðông phương, nói theo Trang Tử, là "tính tự nhiên" hay Ðạo trong vạn vật. Hành động theo cái tôi, trong trường hợp đó là hành động theo "tính tự nhiên" hay thể hiện "tự do tuyệt đối" trong con người. Ði tiên phong trong việc đổi mới tư
tưởng và mở rộng thi ca, Xuân Thu Nhã Tập muốn đề xướng
quan niệm tự do tuyệt đối trong sáng tác, phát xuất
từ triết lý cả Ðông lẫn Tây. Phân biệt giá trị giữa
văn và thơ: văn nói lên phần ý thức (conscient) minh bạch
và sáng sủa, trong khi thơ thể hiện phần vô thức (inconscient)
u uẩn và huyền diệu trong tâm hồn con người. Nhưng tính
cách siêu thực trong thơ của họ quá mới đối với thập
niên 40 ở Việt Nam, và sau 45 gặp phải bức tường ngăn cản
của Cách mạng, vì thế cho đến nay không mấy ai nhận định
đúng mức giá trị của Xuân Thu Nhã Tập.
*
Năm 1949, Nguyễn đình Thi viết bài "Mấy ý nghĩ về thơ"(3), một tiểu luận sâu sắc và cô đọng. Ông quy định bản chất thi ca: "Mưa phùn buổi chiều gợi những câu thơ nào nhớ nhung, nhưng chính nỗi nhớ nhung gặp buổi chiều mưa mà muốn thì thầm những câu thơ chưa thành hình rõ [...] Tâm hồn chúng ta có một rung động thơ khi nó ra khỏi tình trạng bình thường [...]. Làm thơ, ấy là dùng lời và những dấu hiệu thay cho lời nói -tức là chữ- để thể hiện một trạng thái tâm lý đang rung chuyển mạnh mẽ khác thường [...]. Ðiều kỳ diệu ở thơ là mỗi tiếng, mỗi chữ ngoài cái nghĩa của nó, ngoài công dụng gọi tên cho mọi sự vật bỗng tự phá tung mở rộng ra, gọi đến chung quanh nó một vùng ánh sáng rung động... Sức mạnh nhất của câu thơ là ở sức gợi ấy." Nguyễn đình Thi trình bầy sự khác
biệt giữa văn và thơ, những nguyên nhân khiến nghệ sĩ sáng
tác và tác dụng tình cảm của thi ca, nghệ thuật tạo hình,
tâm trạng và rung động của nhà thơ, cảm hứng của thi nhân,
khả năng truyền cảm của thi ca trong đời sống tâm hồn.
*
Nếu Nguyễn đình Thi, Văn Cao, ... là
những người khai phá thơ tự do sau 45, thì từ 1956, Thanh Tâm
Tuyền là người xây dựng cho thơ tự do một nội dung hành
trang tư tưởng trên tâm thức con người và phong cách thể
hiện nghệ thuật. Từ chối quan niệm thi nhân và thi ca cổ
điển, Thanh Tâm Tuyền viết: "Vần của nó (thơ tự do)
là vần ẩn giấu cách xa (có thể đi tới khác âm, nghịch
thanh), nhịp điệu của nó ... là một thứ nhịp điệu rộng
rãi, phức tạp ở một trình độ nghệ thuật cao hơn đối
với thứ nhịp điệu đơn giản rút gọn ...
(Nỗi buồn trong thơ hôm nay, 1956, in lại trên VĂN, số đặc biệt Thanh Tâm Tuyền tháng 10/1972) Trong lập luận ngôn ngữ cũng như trong
sáng tạo thi ca, Thanh Tâm Tuyền mở sinh lộ cho thơ mới đã
bế tắc, vào một nội giới trăn trở, khó khăn, khúc mắc,
xót xa, đa diện và cô đơn của con người công nghiệp thập
kỷ 50. Thanh Tâm Tuyền được coi như người khai sinh ra phong
trào thơ tự do ở miền Nam sau 54.
*
Trong Lược Khảo Văn Học (3 tập)
của Nguyễn văn Trung, tập II, Nam Sơn xuất bản năm 1965, phần
Ngôn
ngữ văn chương chuyên về thơ, Nguyễn Văn Trung giới thiệu
quan niệm của ba lý thuyết gia: Valéry, Breton, Sartre và trình
bầy lập thuyết của Xuân Thu Nhã Tập. Với chủ đích khảo
sát ranh giới giữa văn vần và văn xuôi, tác phẩm cho độc
giả cái nhìn khái quát về bản chất và sự hình thành ngôn
ngữ thơ: tương quan giữa cấu trúc hình thức và rung động
tâm linh. Khảo luận của Nguyễn văn Trung mở cửa cho người
đọc những khuynh hướng cận đại về phê bình và lý luận
văn học, từ đó có một điểm tựa để cảm nhận văn chương
nói chung, và thơ nói riêng.
*
Năm 1973, báo Văn (Sàigòn) in ba
bài biên khảo về thi học của Ðặng Tiến: Thơ là gì?
Thơ hay và văn hay. Thơ với người xưa.
Ðây là những bài tiểu luận có tính
cách tìm tòi. Ðặng Tiến phân tích và giải thích một số
vấn đề cụ thể trong thơ, giúp độc giả hiểu và thưởng
thức thơ, phân biệt thế nào là văn và thơ, thơ hay và văn
hay.
*
Năm 1987, xuất hiện cuốn Ngôn ngữ
thơ của Nguyễn Phan Cảnh do nhà xuất bản Ðại học và
giáo dục chuyên nghiệp phát hành tại Hà Nội. Ðây là tác
phẩm biên khảo về thơ hoàn chỉnh và nghiêm túc nhất từ
trước đến giờ. Nguyễn Phan Cảnh dùng những lý thuyết
về ngữ học hiện đại (Jakobson) để phân tích hình thức
và nội dung thi ca, khu biệt văn với thơ. Tác phẩm có tính
cách nghiên cứu chuyên môn cho nên khó đến với độc giả
trung bình.
*
Ở hải ngoại, gần đây, Nguyễn Hưng
Quốc viết hai cuốn tiểu luận "Tìm hiểu nghệ thuật thơ
Việt Nam" (Quê Mẹ - Paris, 1988) và "Nghĩ về thơ"
(Văn Nghệ - California, 1990).
Hai tập tiểu luận của Nguyễn Hưng Quốc
thiên về cảm tính, viết theo lối phóng bút, lời văn óng
chuốt, lượt là, ít tính chất tìm tòi nghiên cứu và nhiều
tính chất bay bướm.
*
Tìm thơ trong tiếng nói của Ðỗ Quý Toàn do Thanh Văn xuất bản năm 1992 tại California, Hoa Kỳ, là một tập tiệp ký (ghi chép nhanh), gồm những bài tùy bút ngắn rất lý thú ghi lại những cảm xúc khi đọc thơ, khi tìm thơ ... trong văn chương và trong tiếng nói. Tác giả không chỉ dừng lại ở phần cảm nhận mà còn đi sâu vào phân tích những cảm nhận ấy. Ðôi khi diễu cợt pha trò, đôi khi dậm chân suy nghĩ, đôi khi không ngần ngại chẻ sợi tóc làm tư ... Tác phẩm bắc cầu giữa phân tích khoa học và cảm nhận trực giác giữa thiền và thực -giữa quan niệm văn chương và hiện sinh đời sống-. Paris tháng 2/1991
Chú thích: (1) Phạm Quỳnh viết Thơ ta và thơ tây nhân dịp giới thiệu cuốn Cổ xúy nguyên âm của Ðông Châu Nguyễn Hữu Tiến, do Ðông Kinh ấn quán xuất bản, có lẽ là tập sách quốc ngữ đầu tiên về thơ. Sách chia làm 7 mục: 1- Thi, 2- Phú, 3- Kinh nghĩa, 4- Văn sách, 5- Ca từ, 6- Văn thư, 7- Ðối liễn. Năm 1917 mới in xong tập thứ nhất về thơ. Nội dung giảng về luật làm thơ và trích gần 100 bài thơ (Theo Vũ Ngọc Phan, Nhà văn hiện đại). Có lẽ chỉ có một tập đầu vì không thấy ai nhắc đến những tập sau. (2) Trích tài liệu in ronéo.
(3) Trong tập Mấy vấn đề văn học, in lần thứ
hai, 1958, nhà xuất bản Văn Hóa, Hà Nội, in lại trong Tác
phẩm mới, số 3, bộ mới, 1992.
© 1991-1995 Thụy Khuê
|