Thụy Khuê Cấu Trúc Thơ
VII. Cấu trúc hình thức thi ca
I. Lựa chọn và kết hợp Có thể nói từ trước đến nay, những
nhà phê bình, triết gia như Valéry, J. P. Sartre... phần nào
đã xác định bản chất thi ca dưới hình thức phân tâm học,
phải đến những nhà ngữ học chủ yếu như Roman Jakobson
mới thực sự xuất hiện sự phân tích khoa học về cấu
trúc hình thức thi ca.
Ferdinand de Saussure (1857-1913), cha đẻ ngữ học hiện đại cho rằng: Ở trước, ở ngoài ngôn ngữ, tư duy chỉ là một khối hỗn loạn, vô hình thức, một đám mây u ám. Ngôn ngữ là một hệ thống tín hiệu mà con người dùng làm phương tiện giao tiếp xã hội và biểu cảm(1). Nói tức là truyền một lượng tin từ người nói đến người nghe với điều kiện cả hai có chung một kho từ vựng (nói tiếng Pháp, nói tiếng Việt,...). các nhà ngữ học từ de Saussure đến Jakobson phân biệt hai trục chính trong hoạt động ngôn ngữ: lựa chọn (sélection) và kết hợp (combinaison) (2). Ví dụ đêm là một chủ đề
muốn truyền đạt. Ðể có một câu nói ngắn nhất về chủ
đề này, người nói trước tiên phải lựa chọn giữa các
từ tương đương: đêm, tối, màn đêm, nửa khuya, tàn canh,
giờ tý, canh ba... sau đó lựa yếu tố thứ nhì làm động
tác chính, ví dụ: xuống, buông, phủ, trùm, rơi, điểm, tàn...
Lựa
chọn xong, đương sự kết hợp những yếu tố trên
thành câu: ví dụ như đêm xuống chẳng hạn. Trong hành
trình vừa qua, động tác lựa chọn dựa trên tương quan
tương đồng, động tác kết hợp dựa trên tương quan
tiếp cận(3). De Saussure nhấn mạnh đến tính cách tùy
tiện và võ đoán (arbitraire)(4) của ký hiệu ngôn ngữ, võ
đoán vì hành động đi , tại sao lại gọi là đi trong tiếng
Việt, aller trong tiếng Pháp, go trong tiếng Anh mà không là
những chữ gì khác; tùy tiện khiến mỗi chữ không bị ràng
buộc bởi một nghĩa nhất định: Nghĩa mỗi câu không phải
là tổng số nghĩa các chữ trong câu mà tùy thuộc vào tương
quan tiếp cận giữa các chữ trong câu, tùy thuộc cách phát
biểu, tùy thuộc bối cảnh và môi trường mà chữ và câu
được dặt vào.
Lê Văn Lý trong Le parler Vietnamien
chứng minh nhóm từ "sao - nó - bảo - không - đến" có
thể có tới 40 nghĩa khác nhau, tùy theo cách kết hợp
trật tự chữ. Trong ngôn ngữ hàng ngày và trong văn xuôi,
trục lựa chọn và trục kết hợp có tầm quan trọng ngang
nhau.
Trong thơ, trục lựa chọn quy chiếu trên trục
kết hợp.
Về định nghĩa thơ, câu trả lời
của Jakobson hầu như bất biến từ 1919 đến 1933, rồi 1960
vẫn là: Thơ là một phát ngôn nhắm vào thể cách phát
biểu (La poésie n'est rien d'autre qu'un énoncé visant à l'expression).
Cụ thể hơn: Thơ là nói cốt chỉ để nghe, để hưởng giá
trị cái hay, cái đẹp của mỗi tiếng, mỗi chữ, trong câu
mình vừa nói, chứ không phải để đạt tới các mục đích
khác như truyền tin, giảng giải, nghị luận, phân tích, mô
tả v.v... Ðịnh nghĩa này tiềm ẩn giá trị tự tại của
mỗi chữ trong thơ và là tiền đề của khám phá thứ nhì:
chức
năng thi học trù hoạch nguyên tắc tương đồng giữa trục
lựa chọn và trục kết hợp (la fonction poétique projette
le principe d'équivalence de l'axe de la sélection sur l'axe de la combinaison)
và thơ có khả năng chiếu trục lựa chọn trên trục kết
hợp (projection de l'axe de la sélection sur l'axe de la combinaison).
Khám phá quan trọng này giúp chúng ta hiểu rõ hơn về cấu
trúc hình thức thi ca, và cho phép dưới một khía cạnh nào
đó, định lượng "chất thơ" trong một câu thơ hay một văn
bản.
Trước hết, thế nào là chiếu trục kết hợp lên trên trục lựa chọn? Chúng ta thử khảo sát hai trường hợp:
Chúng tôi lựa chọn những câu thơ trên vì chúng biểu dương hai loại "chiếu" khác nhau. Ví dụ câu " Long lanh đáy nước in trời, Thành xây khói biếc non phơi bóng vàng". Câu đầu thuộc loại đồ hình B, câu sau thuộc loại đồ hình A.
Trong cả hai trường hợp trên đây,
tính cách đối chiếu giữa trục kết hợp và chọn lựa cho
phép câu thơ, ngoài chiều xuôi, còn có thể đi chiều ngược
lại, hoặc chọn các phương cách kết hợp khác.
Câu thơ của Nguyễn Gia Thiều, tính cách đối chiếu mở ra những hình ảnh tương đồng, khác nhau vì tiểu dị (nuance). Hai câu thơ của Hàn Mặc Tử, tính
cách đối chiếu mở ra những hình ảnh đối lập, có tính
cách hỗ tương và đồng lõa:
Tóm lại: có thể liên kết bóng nguyệt với gối bằng nhiều ngả, và ngược lại gối cũng có thể chiếu lên bóng nguyệt qua nhiều góc độ. Ðối với gió thu, chăn và cửa mối tương quan cũng đa dạng như vậy, tùy theo cách tác hợp những yếu tố với nhau. Và sau cùng còn có thể đối chiếu những phần tử của câu thơ thứ nhất với phần tử của câu thơ thứ nhì (leo - lọt), (sờ sẫm - cọ mài), (gió - trăng), (chăn - gối), (song - cửa). Do đó từ câu thơ nguyên thủy "Bóng nguyệt leo song sờ sẫm gối, Gió thu lọt cửa cọ mài chăn" ở dạng thức thẳng và một chiều đã ẩn dấu cấu trúc không gian (vì đã nối kết những yếu tố trong với ngoài, gần với xa (gối - nguyệt), (song - nguyệt) v.v.... ) cách nối kết này giúp thơ thoát khỏi hướng một chiều để đi tới nhiều chiều, đa dạng trong không gian đồng thời mở ra khía cạnh dục tình trong cách tác hợp gió-trăng, chăn-gối, leo-lọt, sờ sẫm-cọ mài,... và hòa hợp nhân sinh với vũ trụ bằng cách giao liên nội tâm với ngoại cảnh, mặc dù không có sự hiện diện của người. Tất nhiên không phải câu thơ nào cũng
có và cần có khả năng đối chiếu và đối lập trên đây.
Khả năng "đối" và "chiếu" trong một chừng mực nào đó,
định lượng cường độ và mật độ "chất thơ" trong thơ,
giám định tính chất độc lập tự chủ và bình đẳng của
mỗi đơn vị ngữ nghĩa đối với một đơn vị khác, và
là một đặc điểm của thơ Ðường.
II. Tính chất phiếm định
Tính chất phiếm định thuộc bản
sắc nội tại của thi ca. Về phương cách làm mơ hồ ý nghĩa,
ngoài những biện pháp tu từ như so sánh, điển tích, ẩn
dụ và hoán dụ mà chúng ta đã biết, còn có những phép tỉnh
lược khác, xuất hiện trong lối nói hàng ngày và trong ngôn
ngữ nghệ thuật. Có nhiều hình thức tỉnh lược:
1- Tỉnh lược chủ từ
Những câu nói trên, tuy không có chủ từ
nhưng người nói biết chắc đối tượng của mình: hoặc
nói với người thân, hoặc muốn nói xẵng.
Hai câu thơ trên của Hàn Mặc Tử như
để nói với chính mình về niềm cô đơn của mình. Thoạt
nhìn, có hai hình ảnh đối xứng: mở cửa nhìn trăng
và khép phòng đốt nến, tuy không biết ai làm chủ hai
động tác ấy, nhưng cả hai đều dẫn đến kết quả u hoài,
trống trải, cô quạnh. Ngoài khả năng đối chiếu hình ảnh
và ngữ nghĩa từng câu, từng chữ (mở cửa - khép phòng),
(nhìn trăng - đốt nến), (trăng - nến), (tái mặt - rơi châu),
cấu trúc hình thức còn mở ra những bình diện khác:
Trường hợp câu thơ "Bến Tầm Dương
canh khuya đưa khách" đưa ra một bối cảnh khác: Ai đưa
khách? Bến Tầm Dương và canh khuya là những bổ
ngữ (complément) chỉ địa điểm và thời gian. Vậy người
"đưa khách" có thể là Bạch Cư Dị, là Phan Huy Vịnh, là
tôi, là ta, là ai cũng được. Không phải là "tiễn khách"
mà là "đưa khách", mới đẹp và đau (bản chính là tống
khách: Tầm Dương giang đầu dạ tống khách). Sự vắng mặt
của chủ từ còn bầy ra những hình ảnh khác: Có thể chính
cái bến Tầm Dương ấy đang "đưa khách" trong đêm khuya, hoặc
chính cái "canh khuya" ấy đang "đưa người" trên bến. Do đó,
không chỉ mình người kỹ nữ đưa khách mà cả thời gian,
khung cảnh và con người cũng đưa khách với nàng, như nàng.
Tóm lại, sự tỉnh lược chủ từ đưa đến tình trạng nhập nhòe -nhưng không hỗn loạn- ý nghĩa. Và sự nhập nhòe ý nghĩa đưa đến những hình ảnh khác, những niềm riêng khác, những cảm xúc khác, những nhận thức khác... cho câu thơ và cho mọi tầng lớp độc giả. Tính chất phổ quát của thơ nằm ở
chỗ đó, cho nên khi nói về thơ, mà chỉ chú trọng và phô
trương "tính chất dân tộc" như một yếu tính nòng cốt để
nhận diện giá trị, là đã phần nào tự giới hạn thơ trong
một miền, một vùng... Thơ không hẹp hòi như thế, thơ có
khả năng vượt biên giới -dù dưới dạng thức ngôn ngữ
nào. Văn học hiện đại chú trọng đến ngôn ngữ như một
yếu tố nội tại của con người: ngôn ngữ cấu tạo nên
nhân vật trong kịch, ngôn ngữ hình thành tác phẩm văn chương
(không phải cốt truyện và tình tiết). Và không lạ khi Noam
Chomsky, nhà ngữ học tạo sinh coi ngôn ngữ như một sự tạo
tác và sinh động không ngừng, chủ trương phải khảo sát
các phát ngôn trong cả chiều sâu, ở căn bản của tri thức
và ý thức, trước khi đi đến bề mặt của hình thức phát
hiện. Cái chiều sâu, cái căn bản sinh ra phát ngôn ấy là
gì? nếu không là niềm đau, nỗi khổ, sự ham muốn... nằm
trong tư duy của con người: Nỗi đau ở đâu cũng đau thôi,
và cảm xúc của con người không mang căn cước. Phong cách
Việt, hay tiếng Việt, tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Ấn, tiếng
Wanda,... chỉ là hình thức phát ngôn khác nhau về những điệu
tâm hồn và thể xác nhân loại.
2. Tỉnh lược động từ a. Trong Hoa Tiên có câu thơ thật hay:
lời thơ mơ hồ, phảng phất như một hiện tại đã hóa thành hư ảo. câu thơ không có chủ từ , mà cũng không có động từ, mở cửa cho những câu hỏi không lời giải đáp: (Ai) đã (thành) sương? (thành) khói? hay Gì cũng thành sương khói? gieo mối trắc ẩn bao la trên cỏ cây, vũ trụ, nói lên cái mong manh, hư ảo nơi cõi nhân sinh, phù thế: Từ gỗ, đá, tro, bụi đến sinh vật con người đều có thể phút giây tan biến như khói sương trong ảo hư còn mất. b. Trở về phương diện thực tế ngữ học, tiếng Việt hay lược bỏ động từ, nơi mà người Pháp dùng động từ être (thì, là), người Việt tránh. Trong Việt Nam Văn Phạm, Trần Trọng Kim giải thích: "Khi tiếng chủ từ đã đi với tiếng tĩnh từ để chỉ cái thể của chủ từ, thì không có động từ nữa (bởi vì công dụng của tĩng từ ở đây là để chỉ cái thể của chủ từ, cũng như động từ để chỉ cái dụng của chủ từ). Ví dụ: Người này giỏi, việc ấy khó, con chó dữ, v.v... Trừ khi chủ từ là danh từ hay đại danh từ và có tiếng danh từ khác đứng làm túc từ, thì phải có động từ là đứng ở giữa:
Quy tắc văn phạm tiếng Việt này dẫn
đến một số nhận xét lý thú trong văn thơ:
Những nhận xét trên đây cho thấy
rằng: Từ văn sang thơ, có khi chỉ cần láy một từ, láy
làm nhòe ý, tăng cường độ phiếm định, chuyển văn thành
thơ, do đó vai trò quan trọng của từ láy trong ngôn ngữ nghệ
thuật (chương VIII).
không có động từ cho nên các chữ xích lại gần nhau, tạo sức hút nội tại giữa những đơn vị ngữ nghĩa. Ðồng thời những chữø nho nhỏ và cái vỏ,û nhờ sự đồng âm, tự tạo một thế liên hoàn thành một dòng tư tưởng nhất quán khiến hai câu ca dao "Quả cau nho nhỏ, cái vỏ vân vân" khó tách, khó rời. Như thể âm gọi âm, nghĩa gọi nghĩa. Hiện tượng này dường như đã bị chỉ đạo ngầm bởi trạng thái quấn quít giữa quả cam và cái vỏ, nho nhỏ và vân vân... để giáo đầu cho sự quấn quít anh-anh, em-em đi sau:
c. Trong thơ tạo sinh, Lê Ðạt lược bỏ động từ với chủ đích khác thơ cổ điển:
Tháng 2/1995
Chú thích
(2) Trục lựa chọn và trục kết hợp của Jakobson tương ứng với quan hệ liên tưởng (rapports associatifs) và quan hệ ngữ đoạn (rapports syntagmatiques) của de Saussure. Sau này các nhà ngữ học trong trường phái chức năng còn gọi là trục hệ hình (axe paradigmatique) và truc tuyến hình (axe syntagmatique). (3) Trong Ngôn Ngữ Thơ, NXB Ðại Học và Giáo Dục Chuyên Nghiệp (Hà Nội 1987), Nguyễn Phan Cảnh đã phân tích quá trình hình thành câu "Tôi ăn cơm" rất tường tận. (4) Trong Vấn Ðề Chuẩn Ngôn Ngữ Qua Lịch Sử Ngôn Ngữ
Học, NXB Giáo Dục-1993, giáo sư Hoàng Tuệ dịch arbitraire
là võ đoán và một số sách ngôn ngữ học khác cũng vậy.
Chúng tôi nghĩ rằng võ đoán không bao gồm toàn diện ý nghĩa
của chữ arbitraire, theo de Saussure, còn ngụ cả khía cạnh
tùy tiện nữa.
© 1991-1995 Thụy Khuê
|