Thụy Khuê
Cấu Trúc Thơ
VIII. Nguyên lý song song
I. Từ láy trong tiếng Việt
Tính chất song song hiện diện trong
ngôn ngữ qua những từ kép, từ láy. Trong Khái Niệm Về
Ngữ Pháp Việt Nam (Sài Gòn, 1963) Nguyễn Hiến Lê và Trương
Văn Chình hợp láy với ghép vào một khái niệm chung, gọi
là từ kép: "Tiếng đôi, tiếng ba, tiếng tư ta gọi là
từ kép". Trong Sơ Thảo Ngữ Pháp Việt Nam (Sài Gòn,
1972), Lê Văn Lý gọi từ láy là "từ ngữ kép phản phúc!
Ðó là những từ ngữ đơn được lắp đi lắp lại trong
những yếu tố thành phần của chúng". Hoàng Văn Hành trong
Từ Láy Trong Tiếng Việt (Hà Nội, 1985), đưa ra một
nhận định hoàn chỉnh hơn: "Từ láy của tiếng Việt chịu
sự chi phối của xu hướng hòa phối ngữ âm. Xu hướng này
biểu hiện ở quy tắc điệp và quy tắc đối. Ðiệp và đối
ở đây được hiểu với ngĩa rộng: Ðiệp là sự lặp lại,
sự đồng nhất về âm, về nghĩa; còn đối là sự sai khác,
sự dị biệt, cũng về âm, về nghĩa."
Ðái Xuân Ninh, trong Hoạt Ðộng Của
Từ Tiếng Việt (Hà Nội, 1978), nhắc lại lập thuyết
của Haudricourt1: "Thanh điệu tiếng Việt hiện nay là do
sự rơi rụng của những nhóm phụ âm đầu và cuối trong
tiếng tiền Việt mà thành", ví dụ, chữ bả dùng hiện
nay đã có một quá trình như sau:
Paspah (đầu Công nguyên, không có thanh điệu) |
---> |
pà (thế kỷ II, 3 thanh điệu) |
---> |
pả (thế kỷ XII, 6 thanh điệu) |
---> |
bả (hiện tại, 6 thanh điệu) |
Dựa vào lập thuyết trên đây của
Haudricourt, Ðái Xuân Ninh đưa ra nhận xét: "Trên
cơ sở những từ hình vị2 đơn âm tiết này, ta sáng tạo
ra những từ đa âm tiết (từ láy, từ ghép, từ nhánh) để
đáp ứng nhu cầu diễn đạt ngày càng cao."
Láy đôi: |
|
lạnh |
---> |
lạnh lẽo |
|
|
Láy ba: |
|
mờ |
---> |
lờ mờ |
---> |
lờ tờ mờ |
Láy tư: |
|
bềnh |
---> |
bập bềnh |
---> |
bập bà bập bềnh |
Qua ba ví dụ trên đây chúng ta có thể có
những nhận xét sơ khởi sau đây:
Từ đơn: âm không vang, nghĩa rõ, ít khả
năng gợi hình, hình vị tự do(3)
Từ láy: âm vang, nghĩa mờ, hoặc chuyển nghĩa,
gợi ý, gợi hình, gợi chuyển động, hình vị giới
hạn(4).
Theo Ðái Xuân Ninh thì từ láy có ba tác
dụng chính: Làm giảm hoặc tăng ý nghĩa của từ chính,
láy để lặp đi lặp lại và láy để biểu thị ý nghĩa
xấu.
1. Láy giảm nhẹ hoặc tăng cường
nghĩa:
a. Giảm nhẹ: Cường độ của một hành động
hay mức độ của trạng thái giảm đi, so với từ gốc. Trong
trường hợp này, trọng âm (hình vị cơ bản) rơi vào âm
tiết thứ nhì:
nhẹ |
---> |
nhè nhẹ |
|
Mưa rơi nhè nhẹ trong hồn (Huy Cận) |
dịu |
---> |
dìu dịu |
|
Rơi rơi dìu dịu rơi rơi (Huy Cận) |
b. Tăng cường: Cường độ của một hành động
hay mức độ của trạng thái tăng lên, so với từ gốc. Trong
trường hợp này, trọng âm nằm trong âm tiết đầu:
đau |
---> |
đau đáu |
|
Nỗi nhớ nhung đau đáu nào xong (Chinh Phụ Ngâm) |
phất |
---> |
phất phơ |
|
Hàng cờ bay trông bóng phất phơ (Chinh Phụ Ngâm) |
lạnh |
---> |
|
|
lạnh lẽo (láy âm) |
trong |
---> |
trong veo (láy nghĩa) |
|
Ao thu lạnh lẽo nước trong veo (Nguyễn Khuyến) |
vắt |
---> |
vắt vẻo (láy âm) |
|
Tiếng ca vắt vẻo lưng chừng núi (Hàn Mặc Tử) |
đỏ |
---> |
đỏ lòm (láy nghĩa) |
|
đỏ lòm lom (láy âm) (5) |
Khác với hình thức giảm nhẹ, hình
thức tăng cường có thể láy lại nhiều tầng, ý nghĩa lại
càng nhấn mạnh thêm:
|
|
Khít |
|
Sát |
Giảm nhẹ: |
|
Khin khít |
|
San sát |
Tăng cường 1: |
|
Khít khịt |
|
Sát sạt |
Tăng cường 2: |
|
Khít khìn khịt |
|
Sát sàn sạt |
Tăng cường 3: |
|
Khít khịt khìn khin |
|
Sát sạt sàn san |
Hình thức điệp kép thuộc sở trường
của Nguyễn Khuyến và Hồ Xuân Hương:
Nứt làm hai mảnh hỏm hòm
hom (Hồ Xuân Hương)
Nảy vừng quế đỏ đỏ lòm lom
(Hồ Xuân Hương)
Ðức thầy đã mỏng mòng mong
(Nguyễn Khuyến)
Quyên đã gọi hè quang quáng
quác (Nguyễn Khuyến)
Gà từng gáy sáng tẻ tè te
(Nguyễn Khuyến)
2. Láy biểu thị ý nghĩa lặp đi lặp
lại:
a. Lập lại, tăng cường ý nghĩa:
xanh |
---> |
xanh xanh |
|
Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu (Chinh Phụ Ngâm) |
ngùi |
---> |
ngùi ngùi |
|
Bên đường trông lá cờ bay ngùi ngùi (Chinh Phụ Ngâm) |
dặc |
---> |
dặc dặc |
|
Ðưa chàng lòng dặc dặc buồn (Chinh Phụ Ngâm) |
ào |
---> |
ào ào |
|
Thét roi cầu Vị ào ào gió thu (Chinh Phụ Ngâm) |
lớp |
---> |
lớp lớp |
|
Lớp lớp mây cao đùm núi bạc (Huy Cận) |
quốc |
---> |
quốc quốc |
|
Nhớ nước đau lòng con quốc quốc (Bà Huyện Thanh Quan) |
thùng |
|
thùng thùng |
|
Thùng thùng trống đánh ngũ liên (ca dao) |
trùng |
|
trùng trùng |
|
Nguyệt hoa hoa nguyệt trùng trùng (Chinh Phụ Ngâm) |
|
|
|
|
Trời biếc biếc nước xanh xanh một vẻ (Nguyễn Khuyến) |
|
|
|
|
Non non nước nước không nguôi lời thề (Tản Ðà) |
b. Lập lại, diễn tả ý nghĩa tiếp diễn trong thời
gian:
Mưa mưa mãi ngày đêm rả rích (Tản Ðà)
Ðêm đêm cưới vợ, lại làm quan (Tản Ðà)
Bước đi một bước giây giây lại dừng (Chinh
Phụ Ngâm)
3. Láy biểu thị ý nghĩa xấu:
Lập lại phụ âm đầu, thêm iếc, các nhà
ngữ học thường gọi là hiện tượng iếc hóa, hiện tượng
này ít thấy trong thơ:
hát |
---> |
hát hiếc |
kịch |
---> |
kịch kiếc |
Nếu vần láy có chữ eo, nét
nghĩa của từ bị xấu đi, theo Nguyễn Ðức Dân, ví dụ lượn
lẹo, vòng vèo, lỏng lẻo, xiên xẹo, nghĩa xấu hơn lượn,
vòng, lỏng, xiên và bạc bẽo, đói meo, lạnh lẽo, nhạt nhẽo
có nghĩa xấu hơn bạc, đói, lạnh và nhạt.
Ngoài ba tác dụng trên, láy còn có
khả năng tạo từ mới, làm giàu ngôn ngữ:
rối |
---> |
bối rối, rối rem, rối rắm, .. |
vì thế từ láy giữ một địa vị quan trọng trong ngôn
ngữ nói cũng như ngôn ngữ văn chương.
Ðái Xuân Ninh làm một thống kê về từ
láy trong các tác phẩm của bốn thi sĩ: Chế Lan Viên, Tố
Hữu, Ðoàn Thị Ðiểm(6), Nguyễn Du và nhận thấy hiện tượng
sau đây:
- Thơ Chế Lan Viên, trong 1600 câu có 70 từ láy, tỷ
lệ
22 câu có 1 từ láy.
- Thơ Tố Hữu, trong 3157 câu có 375 từ láy, tỷ lệ 8,5.
- Chinh phụ ngâm: 452 câu có 85 tỷ lệ 5.
- Kiều: 1000 câu đầu có 218 từ láy, tỷ lệ 4,5.
Và đây là cách dùng từ láy trong Chinh Phụ Ngâm:
Trĩ xập xòe mai cũng
bẻ mai
Khói mù nghi ngút ngàn khơi
Con chim bạt gió lạc loài
kêu thương
.....
Gà eo óc gáy sương năm trống
Hòe phất phơ rủ bóng bốn
bên
Khắc trời đằng đẵng mấy
niên
Mối sầu dằng dặc tựa miền
bể xa
Tóm lại Nguyễn Du và Phan Huy Ích dùng
từ láy gấp năm lần Chế Lan Viên. Ðiều đó giải thích
sự giàu có về âm nhạc và hình tượng trong thơ cổ điển.
Từ láy có thể xem như đơn vị song
song nhỏ nhất trong ngôn ngữ, là sự hòa phối âm thanh
và ngữ nghĩa giữa hai yếu tố tương đương hoặc đối lập,
tự bản chất đã có khái niệm nhị nguyên của đời
sống, mang sẵn hình ảnh âm dương, hai yếu tố tác thành
mối sinh động của muôn loài. Cấu trúc này giải thích khả
năng biểu cảm, biểu niệm, tượng thanh, tượng hình của
từ láy, giúp người đọc, người nghe không những nhận diện
được vật thể bằng tên gọi, mà còn hình dung ra dáng dấp,
nghe được âm thanh và đôi khi cảm thấy cả chuyển động
của vật thể. Do đó, từ láy có một địa vị quan trọng
trong thi ca, mà cấu trúc cơ bản dựa vào hình ảnh, nhạc
điệu và cảm xúc: Dòng nước là một vật thể, nhưng khi
Nguyễn Du viết: Nao nao dòng nước thì chính nao nao
đã trở nên tâm hồn của dòng nước, biến dòng nước thành
một nhân cách. Nắm đất là một vật thể, nhưng sè sè
nắm đất ngoài nghĩa thường là nắm đất thấp còn có
nghĩa là nắm đất đang chuyển động, đang sè sè bắn ra
những dấu hiệu muốn kể lể nỗi niềm với Kiều:
Nao nao dòng nước uốn
quanh
Nhịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc
ngang
Sè sè nắm đất bên đường
Ràu ràu ngọn cỏ nửa vàng
nửa xanh
II. Tính chất song song trong
thơ
Theo Jakobson(7), tính chất song song trong
thơ được khám phá qua nhiều giai đoạn:
Từ ngữ "song song" xuất hiện
lần đầu trong thi học năm 1778, khi Robert Lowth khảo sát về
thơ cổ tiếng Hébreu của người Do Thái, tuyên bố:
"Tôi gọi tính chất liên vận giữa hai câu thơ là tính song
song." Hai từ, hai ngữ đoạn hoặc hai câu thơ cạnh nhau
được gọi là song song khi chúng đáp ứng tính chất sau đây:
Tương đương hoặc đối lập về mặt ngữ âm, ngữ nghĩa.
Lowth phân biệt ba loại song song:
Song song tương đồng: Hai câu thơ đi đôi,
có quan hệ tương đồng trong âm và nghĩa.
Chòng chành như nón không quai
Như thuyền không lái, như ai không
chồng.
(Ca dao)
Song song đối ngẫu: Vế đối vế, từ đối từ.
Chìm đáy nước cá lừ đừ lặn,
Lửng da trời nhạn ngẩn ngơ sa.
(Cung Oán)
Song song tổng hợp: Hai câu thơ cạnh nhau có quan hệ
tương liên, câu sau bổ nghĩa cho câu trước, cả hai hợp thành
một toàn bộ hoàn chỉnh.
Thuở trời đất nổi cơn gió bụi
Khách má hồng nhiều nỗi truân
chuyên.
(Chinh Phụ Ngâm)
Trăm năm trong cõi người ta
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét
nhau.
(Kiều)
(Song song tổng hợp giữ một địa vị quan trọng trong
thơ cổ điển, chúng tôi sẽ trở lại vấn đề này).
Ba thể loại song song ấy tính chất khác
nhau, hiệu quả khác nhau, hiện diện trong cấu trúc thi ca,
tạo nên một toàn thể đa dạng và thẩm mỹ.
Năm 1928, J. F. Davis trong khi khảo sát
thơ Trung Quốc, đã tìm thấy tính chất song song tổng hợp
mà Lowth còn gọi là Tổng hợp - Xây dựng, như một đặc
tính cơ bản trong cấu trúc hình thức thơ Trung Quốc.
François Cheng sau này (1977), khi khảo
sát ngôn ngữ thơ Trung Quốc, coi nguyên lý song song như sự
thể hiện tư tưởng triết học biện chứng Trung Quốc, xây
dựng trên nguyên tắc tuần hoàn và đối cực giữa âm và
dương, giữa không và có, đặc biệt trong thơ Ðường.
*
Sự khám phá toàn diện về tính chất
song song trong thơ kim cổ thuộc về Gérard Manley Hopkins. Trong
một bài báo, khi còn là sinh viên, thiên tài này đã khám phá
ra nguyên lý: "Tất cả thủ pháp của thi ca dựa trên nguyên
tắc song song" (Toute forme d'artifice se réduit au principe du
parallélisme). Thơ dựng trên cấu trúc song song liên tục, đối
cực hay đồng chiều:
Song song trong nhịp điệu:
Nhắc đi nhắc lại một
số chu kỳ ngắt câu:
2/2/2: Dưới dòng / nước chảy / trong veo
Bên cầu
/ tơ liễu / bóng chiều / thướt tha
(Kiều)
2/2/3: Sóng gợn / tràng giang / buồn điệp điệp
Con thuyền
/ xuôi mái / nước song song
(Huy Cận)
3/3: Mai cốt cách / tuyết tinh thần
(Kiều)
4/4: Mỗi người một vẻ / mười phân vẹn mười
(Kiều)
v.v...
Song song trong âm luật:
Lập lại một số chu kỳ chữ:
bốn chữ, ngũ ngôn, lục bát, song thất, song thất lục bát,
...
Tám chữ: Xao xác tiếng gà. Trăng ngà lạnh
buốt
Mắt run mờ, kỹ nữ thấy sông trôi
Du khách đi, du khách đã đi rồi.
(Xuân Diệu)
Song song trong niêm luật: (bằng trắc)
Ngũ ngôn: Cử nhân cậu Ấm Kỷ
Tú tài con Ðô Mỹ
Thi thế cũng đòi thi
Ối khỉ ơi là khỉ
(Tú Xương)
Song song trong sự láy âm vị (phonème)
Láy nguyên âm:
Ðố ai biết lúa mấy cây
Biết sông mấy khúc biết mây mấy
tầng
(Ca dao)
Láy phụ âm:
Ðầu tường lửa lựu lập
lòe
đâm bông (Kiều)
Những luồng run rẩy rung rinh
lá (Xuân Diệu)
Láy âm tiết:
Sương nương theo trăng ngừng
lưng trời (Xuân Diệu)
Láy hình vị (morphème):
Nghĩ mình, mình lại thêm thương
nỗi mình Cung Oán)
Láy từ:
Gió theo lối gió mây đường mây
(Hàn Mạc Tử)
Láy đoản ngữ (cụm từ):
Làm cho cho mệt cho mê
Làm cho đau đớn ê chề cho coi (Kiều)
Láy câu:
Vàng rơi! Vàng rơi! Thu mênh mông
(Bích Khê)
Người ơi! Người ở đừng về
Người ơi! Người ở đừng về (Quan họ
Bắc Ninh)
Nguyên lý song song trong thơ phải
chăng đi từ song song trong từ láy? Hay bắt nguồn từ tuổi
thơ khi trẻ con ê a lập lại tiếng mẹ đẻ? Bập bẹ tập
nói, con người đã ứng xử song song trước cuộc đời? Hay
song song thể hiện cái lý nhị nguyên trong đời sống qua hai
yếu tố âm dương kết hợp?
Dù sao chăng nữa, song song không phải
là sự lập lại tầm thường mà đó là một cấu trúc nghệ
thuật có tổ chức, nằm trong một tổ chức rộng lớn hơn:
hệ thống ngôn ngữ. Và François Cheng đã không lầm khi ông
nói một cách rất hàm súc: nguyên lý song song là một toan
tính tổ chức không gian trong diễn biến thời gian của ký
hiệu ngôn ngữ (tentative d'organisation spatiale des signes dans leur
déroulement temporel)(8).
A: Thuở trời đất nổi cơn
gió bụi
Thiên địa phong trần
B: Khách má hồng nhiều nỗi truân
chuyên
Hồng nhan đa truân
Hai câu thơ Chinh Phụ Ngâm nói về số
kiếp gian truân của người phụ nữ trong cơn phong trần chung
của cuộc đời. Câu A, tiền đề, bối cảnh vũ trụ (trời
- đất) mênh mông, mịt mùng gió bụi. Câu B đến sau, đi vào
thực tiễn số phận con người, người phụ nữ. Câu A mở
rộng không gian vũ trụ. Câu B đi vào thế giới nhân sinh.
Tính cách vừa độc lập, vừa chuyển tiếp, vừa bổ xung,
đối xứng, hiện diện đầy đủ trong hình thức song song
này. Ðộc lập: vì cả hai tách rời đã là một "thể" (forme)
toàn bích. Ðối xứng: vì đối diện vũ trụ với con người.
Nhưng khi để cạnh nhau thì lập tức phát sinh sự chuyển
tiếp và một sức hút vô hình giữa A và B: Câu A đã làm
xong chức năng nghệ thuật. Có thể đứng vững một mình.
Câu B đến. Không phải để tiếp tục ý nghĩa và hình ảnh
của câu A, mà để mở ra một bối cảnh khác. Bối cảnh
thứ hai này, vừa song song với bối cảnh thư nhất, vừa đối
cực với bối cảnh thư nhất (vũ trụ trời đất - thế giới
nhân sinh), vừa có tính cách xác định câu đầu (trời đất
và nhân sinh cũng đảo điên giống nhau), vừa biện hộ cho
sự hiện diện của chính mình (chẳng hạn như số phận của
người đàn bà).
Tính chất vừa đối đáp vừa bổ
xung giữa hai yếu tố độc lập làm thành một toàn thể nhất
quán và hoàn chỉnh khiến như cả hai tự cấu tạo một vũ
trụ riêng, bền bỉ, trong không gian, thoát khỏi sự tàn phá,
hủy hoại của thời gian để trở thành vĩnh cửu.
Paris 3/1995
Chú thích:
(1) André Georges Haudricourt (1911) chứng minh rằng tiếng Việt
không thuộc dòng Hán, mà thuộc họ Nam Á, và có liên lạc
mật thiết với ngôn ngữ của các dân tộc thiểu số trên
đất Việt.
(2) Hình vị (morphème): đơn vị nhỏ nhất của ngôn
ngữ, có ý nghĩa.
(3) Hình vị tự do: tự nó có thể làm thành một từ như:
lạnh, mờ, ..
(4) Hình vị giới hạn: tự nó không làm thành một từ
như lẽo trong lạnh lẽo, trẻo trong trong trẻo, v. v...
(5) Nguyễn Phan Cảnh trong Ngôn Ngữ Thơ cho rằng từ
láy âm nhòe hơn láy nghĩa, vì ấn tượng âm thanh khó xác
định hơn ấn tượng về ý nghĩa.
(6) từ năm 1952, trong Chinh Phụ Ngâm Bị Khảo, Hoàng
Xuân Hãn đã chứng minh Phan Huy Ích là dịch giả bản Chinh
Phụ Ngâm hiện dùng.
(7) Questions de poétique (Những vấn đề thi học),
Roman Jakobson, Editions du Seuil, 1973
(8) L'écriture poétique chinoise - François Cheng, Editions
du Seuil, Paris 1982.
© 1991-1995 Thụy Khuê
|