Thụy Khuê
Cấu Trúc Thơ
XI. Khuynh hướng mở đầu
Nguyễn Xuân Sanh
Nguyễn Ðình Thi
Thoạt trông thì những bài thơ: Tống
Biệt (1)(1917), Cảm Thu , Tiễn Thu (1920) của
Tản Ðà có vẻ là những bài thơ "tự do" đầu tiên của
thế kỷ này. Nhưng thực ra, Tống Biệt là một từ
khúc theo điệu Hoa phong lạc rút từ vở chèo Thiên Thai
của Tản Ðà, nhịp điệu hao hao giống thơ tự do, nhưng niêm
luật rất chặt chẽ.
Lá đào rơi rắc lối thiên
thai
Suối tiễn oanh đưa những ngậm
ngùi
Nửa năm tiên cảnh
Một phút trần ai
Ước cũ duyên thừa có thế thôi.
Ðá mòn, rêu nhạt
Nước chẩy, huê trôi
Cái hạc bay lên vút tận trời
Trời đất từ đây xa cách mãi
Cửa động,
Ðầu non
Ðường lối cũ
Nghìn năm thơ thẩn bóng trăng chơi.
Phan Khôi, nhà nho đầu tiên muốn đổi
mới thi ca. Năm 1928, trên Ðông Pháp Thời Báo, Phan Khôi
trách thể thơ thất ngôn bó buộc quá mà mất cả sanh thú.
Ông kết án thơ cũ là "thơ cốt chơn. Thơ cũ bị câu thúc
quá nên mất chơn". Ông trình bầy một lối thơ "đem
ý thật có trong tâm khảm mình tả ra bằng những câu có vần
mà không bó buộc bởi niêm luật gì hết và tạm mệnh danh
là thơ mới".(2)
Vai trò của Phan Khôi trong Thơ mới
được Vũ Ngọc Phan đưa ra trong Nhà Văn Hiện Ðại:
" [....] Còn về thơ mới lại
chính ông là người khởi xướng trước nhất.
Bài thơ mới Tình già của ông đăng
đầu tiên trong Phụ Nữ Tân Văn (số 122, ra ngày 10 Mars 1932),
báo Phong Hóa số tết năm Quý Dậu (24 janvier 1933) có trích
đăng bài ấy như sau này:
Tình già
Hai mươi bốn năm xưa, một đêm
vừa gió lại vừa mưa
Dưới ngọn đèn mờ, trong gian nhà
nhỏ, hai cái đầu xanh kề nhau than thở:
- "Ôi đôi ta, tình thương nhau thì
vẫn nặng, mà lấy nhau hẳn là không đặng
" Ðể đến nỗi tình trước phụ
sau,chi cho bằng sớm liệu mà buông nhau!"
- "Hay! Nói mới bạc bẽo làm sao
chớ! Buông nhau làm sao cho nỡ?
...
Bài này sở dĩ được truyền tụng
trong đám thanh niên trí thức mà gây nên phong trào thơ mới
là vì ý, không phải vì âm điệu. Người ta thấy một khi
thơ thoát được những luật bó buộc và cân đối thì có
thể diễn được nhiều ý hơn. Ðiều đặc biệt trong bài
thơ trên này là tính tình ăn theo với màu sắc rồi tính tình
và màu sắc đều chung đúc cả trong một cảnh thiết tha và
ảm đạm."
(Nhà Văn Hiện Ðại, quyển II, trang 269-270)
Ngoài ra, trong năm 1928, còn có tập thơ
buông cuả Lê Khánh Ðồng và Nguyễn Văn Vĩnh khi dịch thơ
ngụ ngôn của La Fontaine, đã dùng những câu thơ không niêm
luật, không hạn chữ:
Ve sầu kêu ve ve
Suốt mùa hè
Ðến kỳ gió bấc thổi,
Nguồn cơn thật bối rối
(3)
.......
Tóm lại, Tống Biệt của Tản Ðà
thuộc thể từ, cổ điển. Tình Già của Phan Khôi đã
phá luật nhưng vẫn còn gần văn biền ngẫu. Thơ Nguyễn Văn
Vĩnh tuy câu chữ dài ngắn khác nhau nhưng vẫn liên kết chặt
chẽ với vần. Mặc nhiên Phan Khôi và Nguyễn Văn Vĩnh là
những người mở đường cho thơ mới. Cả hai cho
chúng ta một ý niệm sơ khởi về hình thức thơ văn xuôi
và thơ cách luật, nền tảng của thơ mới sau này mà
những nhà thơ hiện đại như Thanh Tâm Tuyền, Ðặng
Ðình Hưng muốn đoạn tuyệt. Họ triệt hạ hẳn tính cách
vần ngầm, luật dấu để bước vào địa hạt thơ không
vần, không luật.
*
Tại Việt Nam, khuynh hướng phá vỡ
hàng rào cổ điển và lãng mạn để nhập vào dòng hiện
đại bắt nguồn rất sớm, gần như song song với sự phát
triển thơ mới, từ những năm 40.
Trong khoảng 1938 đến 1942, một nhóm
nghệ sĩ avant-garde: Nguyễn Ðỗ Cung, Phạm Văn Hạnh, Nguyễn
Xuân Khoát, Nguyễn Lương Ngọc, Nguyễn Xuân Sanh, Ðoàn Phú
Tứ, hội họp nhau và hình thành một tuyên ngôn nghệ thuật
lấy tên là Xuân Thu Nhã Tập, bao gồm phần lý thuyết
và phần thực hành trên ba lãnh vực: Thơ, nhạc và họa.
Trong phần lý thuyết, Xuân Thu Nhã
Tập liên kết mối tương quan giữa các ngành nghệ thuật
như thơ, nhạc, họa, kiến trúc và điêu khắc bằng khái niệm
phổ quát về cái Ðẹp và đưa ra những luận điểm xác đáng
và hàm súc về bản chất thi ca:
Thơ khêu gợi những rung động siêu
việt của bản nhạc vô cùng ... có rung động là có thơ.
Do đó văn và thơ khác nhau: Văn thuộc địa phận giãi bầy,
thuộc lý trí, vụ ích lợi. Thơ thuộc địa phận tiềm
thức, hàm súc và thuần túy. Thơ là kết tinh của sự thật,
Thơ trở về cái ta, Thơ là Ðạo, là cái lẽ cuối cùng, là
cõi vô cùng ...
Về phần thực hành, Xuân Thu Nhã
Tập là những người đầu tiên đã dẫn dòng mạch siêu
thực của thế kỷ XX vào thơ Việt. Bỏ rơi vai trò của lý
trí, đưa tiềm thức và vô thức vào địa vị chủ chốt
trong kỹ thuật tạo hình. Bài Buồn Xưa của Nguyễn
Xuân Sanh tiêu biểu dòng tư tưởng Xuân Thu Nhã Tập.
Buồn Xưa
Quỳnh hoa chiều đọng nhạc trầm
mi
Hồn xanh ngát chở dấu xiêm y
Rượu hát bầu vàng cung ướp hương
Ngón hường say tóc nhạc trầm
mi
Lẵng xuân bờ giũ trái xuân sa
Ðáy đĩa mùa đi nhịp hải hà
Nhài đàn rót nguyệt vú đôi thơm
Tỳ bà sương cũ đựng rừng xa
...
Xuất hiện cùng thời với thơ mới, nhưng
bài Buồn Xưa đã tách rời thơ mới một bước khá
xa, cả về hình thức lẫn nội dung. Về phần hình thức,
tuy vẫn giữ số chữ nhất định trong câu (7 chữ, 4 câu),
nhưng thơ Nguyễn Xuân Sanh mang nhạc điệu lạ, khác hẳn với
cung bậc trầm bổng cố định dựa theo luật bằng trắc cổ
điển. Nhịp điệu này dựa vào sự sắp xếp những hình
ảnh tân kỳ, liên tiếp cạnh nhau, theo ý thích của trí tưởng
tượng. (Sau này Thanh Tâm Tuyền gọi đó là "nhịp điệu của
hình ảnh"). Câu thơ Quỳnh hoa chiều
đọng nhạc trầm mi có thể tổng hợp ba hình (figure)
quỳnh hoa - chiều đọng - nhạc trầm mi, mà cũng có thể chia
làm sáu hình: quỳnh - hoa - chiều - đọng - nhạc - trầm -
mi. Nguyễn Xuân Sanh vừa phân tích vừa tổng hợp ảnh, đồng
thời độc lập hóa mỗi chữ trong câu thơ.
Vì thế, đọc thơ Nguyễn Xuân Sanh,
Lê Huy Vân thoạt tiên có cảm tưởng: "Không
có một cái chấm câu và toàn vần bằng cả. Người ta có
cái cảm giác rằng tác giả đã viết rất nhiều "chữ một"
vào những mảnh giấy, gập lại để vào trong một cái mũ
trắng rồi rút ra từng tờ, biến những chữ tìm thấy chữ
nọ bên cạnh chữ kia, đủ bảy chữ lại xuống dòng".
(Xuân Thu Nhã Tập, trang 81, NXB Văn Học 1991).
"Cảm giác" ấy có thể Lê Huy Vân rút
ra từ việc Breton cắt những chữ bất kỳ trong báo, xếp
lại thành thơ. Dĩ nhiên "cắt dán" hay rút thăm "chữ một"
chỉ là một cách nói, gợi ba khía cạnh độc đáo của thơ
hiện đại:
- Tính cách gián đoạn trong dòng mạch hiện đại
- đối lập với tính cách liên tục trong dòng cổ điển.
- Tính cách bất kỳ -hay tự do tuyệt đối- trong việc
ghép chữ tạo hình.
- Tính cách độc lập hình vị mà Nguyễn Xuân Sanh sử
dụng trong bài Buồn Xưa.
Về cách dùng chữ, tuy Buồn Xưa
vẫn dùng những chữ cổ như Quỳnh hoa, xiêm y, ... nhưng tác
giả đã tạo nhiều hình mới lạ vì lắp những yếu tố
rất
xa nhau với nhau: Chiều đọng, nhạc trầm mi, hồn xanh ngát,
rượu hát, cung ướp hương, ngón hường, lẵng xuân, trái
xuân sa, mùa đi, nhịp hải hà, rót nguyệt, .... Loại hình
này khác với loại hình (cũng rất mới, rất đẹp, rất lạ)
của Xuân Diệu, nhưng ghép những yếu tố tương đối gần
cận, ít gây ngạc nhiên hơn như đêm thủy tinh, biển pha lê,
chiều lỡ thì,... vì Xuân Diệu còn dựa trên thực tại lô
gích.
Khi người đọc, trong nhiều thế kỷ,
đã quen với những công thức thân thuộc như: chiều xuân,
nhạc vàng, hồn thơ, rượu nồng, nguyệt hoa, hoa nguyệt ...,
thì sự xuất hiện của những rượu hát, nhạc trầm mi
... hẳn là trái khoáy, nghịch nhĩ, bí hiểm, và không lô
gích.
Nhưng chính cái "không lô gích" ấy
là một trong những yếu tố nền tảng của thơ hiện đại.
Chính cái "không thể" ấy mở ra một chân trời khác: Biến
đổi những thực thể bị kết tội chung thân bất động
như: rượu, chiều, mùa ... có thể xoay vần, chuyển
động: rượu hát, mùa đi, chiều đọng ... và làm cho
ta biết được những ý niệm siêu hình như "hồn" cũng có
lúc xanh, lúc ngát ... Ðó là bộ mặt "nổi loạn" thần sầu
của tiềm thức và vô thức mà chỉ khi nào con người đập
vỡ phần ý thức bề mặt mới có thể tiếp cận được.
Xuân Thu Nhã Tập không được
số đông công chúng văn nghệ hưởng ứng vì quá mới với
thời đại, bị cách mạng liệt vào loại bí hiểm, điên
loạn, cần phải loại trừ. Phải chăng đó là lý do khiến
sau này Nguyễn Xuân sanh trở về với thơ mới?
Tác phẩm Xuân Thu Nhã Tập đã
phải trầm mình 50 năm. Khi nhà xuất bản Văn Học được
phép in lại cuối năm 1991, bìa sau có ghi niên đại 1942-1992:
như một dấu ấn những phũ phàng của lịch sử.
*
Tuy nhiên, sau 45, vẫn có những nhà
thơ muốn thoát khỏi khuôn khổ thơ mới, tìm kiếm con đường
thơ hiện đại rải rác trong tác phẩm của họ như Văn Cao,
Hoàng Cầm, Quang Dũng ... mà Nguyễn Ðình Thi là một trường
hợp tiêu biểu.
Năm 48, Nguyễn Ðình Thi làm bài Ðất
Nước và năm 49 ông viết bài tiểu luận Mấy Ý Nghĩ
Về Thơ, phân tích bản chất thi ca, khai triển động lực
sáng tác và bàn về sự thể hiện một tác phẩm nghệ thuật.
Về mặt hình thức, Nguyễn Ðình Thi
cho rằng: "Không có vấn đề thơ
thơ tự do và thơ không tự do, thơ có vần và thơ không có
vần. Chỉ có thơ thực và thơ giả, thơ hay và thơ không hay,
thơ và không thơ ... [...] Thơ của một thời mới [...] chạy
tung về những chân trời mở rộng để tìm kiếm, thử sức
của nó [...]. Những hình thức ấy gồm những phát minh mới,
cùng với những hình thức cũ, nhưng bao giờ cũng dễ tái
tạo và nâng cao lên đến một độ khác hẳn xưa. [...]. Những
hình ảnh của thơ đã bao hàm một nhận thức, một thái độ
tình cảm hoặc suy nghĩ [...]. Những hình ảnh mới lạ ấy
đều ở trong đời thực, chúng ta đều thấy!
Ðứng trên quan điểm triết học duy tâm,
Nguyễn Ðình Thi đặt câu hỏi: Ðầu mối của thơ có lẽ
ta tìm bên trong tâm hồn con người chăng? Và trả lời:
- Thơ là tiếng nói bên trong, tiếng nói của tâm
hồn với chính nó.
- Thơ là tiếng nói đầu tiên, tiếng nói thứ nhất của
tâm hồn khi đụng chạm với cuộc sống.
- Làm thơ là đang sống, làm một câu thơ yêu, tâm hồn
cũng rung động như khi có người yêu trước mặt.
- Tâm hồn chúng ta có một rung động thơ, khi nó không
còn chuồi theo thói quen như một dây da trong bộ máy.
- Hiểu thơ kỳ thực là vấn đề của cả tâm hồn.
- Những "lửa căm hờn", "làn sóng cách mạng" là những
cái sáo mới của thơ hiện thời.
và Nguyễn Ðình Thi đã vẽ cho thơ một chân dung lạ và đẹp:
Ðụng chạm với hành động
hàng ngày, tâm hồn tự nẩy lên bao nhiêu hình ảnh như những
tia lửa lóe lên khi búa đập vào sắt trên đe. Người làm
thơ lượm những tia lửa ấy, kết nên một bó sáng, nó là
hình ảnh thơ. (Mấy Ý Nghĩ Về Thơ, Nguyễn Ðình Thi,
12-9-1949)
Giữa không khí "hừng hực lửa cách mạng"
và trước "ánh sáng chói lòa" của duy vật biện chứng, quan
niệm duy tâm về thơ của ông và lối cách tân trong thơ ông
đã bị chỉ trích nặng nề.
Bài thơ Ðất Nước của Nguyễn
Ðình Thi có thể xem là một trong những bài thơ đầu tiên
thoát ly khuôn mẫu của thơ cổ điển và thơ mới, từ hình
thức đến nội dung, đã gây tiếng vang trong dư luận văn
học, ảnh hưởng tới những người đồng thời và giữ địa
vị khai phá trong thơ hiện đại.
Ðất Nước
Sáng mắt trong như sáng năm xưa
Gió thổi mùa thu hương cốm mới
Cỏ mòn thơm mãi dấu chân em.
Gió thổi mùa thu vào Hà Nội
Phố dài xao xác heo may
Nắng soi ngõ vắng
thềm cũ lối ra đi lá rụng đầy
Ôi nắng dội chan hòa
nao nao trời biếc
Nắng nhuộm hương đồng ruộng
hương rừng chiến khu
Tháp Rùa lim dim nhìn nắng
mấy cánh chim non trông vời nghìn nẻo
Mây trắng nổi tơi bời
Mấy đứa giết người hung hăng
một buổi
Tháng Tám về rồi đây
hôm nay nghìn năm gió thổi
Ðàn con hè phố môi hồng hớn
hở
ngày hẹn đến rồi
Hôm nay nghìn năm trời muôn xưa
Các anh ngậm cười bãi núi ven
sông.
Hà Nội ơi núi rừng.
Nguyễn Ðình Thi (1948), theo bản chép tay của
Phạm Duy
Sau này bài Ðất Nước được in
trong tập Tia Nắng (NXB Văn Học, 1983), dài hơn, thêm
những hình ảnh vô cùng, đớn đau:
Ôi cánh đồng quê chảy máu
Dây thép gai đâm nát trời chiều
Những đêm dài hành quân nung nấu
Bỗng bồn chồn nhớ mắt người
yêu
Nhưng toàn thể "khuôn khổ" hơn, và rất tiếc là đã
phải thêm vào những đoạn không thơ:
Thằng giặc Tâ, thằng chúa
đất
Ðứa đè cổ, đứa lột da
...
Lòng dân ta yêu nước thương nhà
và đã loại bỏ hẳn những hình ảnh vào loại đẹp nhất
trong buổi bình minh của thơ hiện đại như: Cỏ
mòn thơm mãi dấu chân em, Tháp Rùa lim dim nhìn nắng ....
Thơ Nguyễn Ðình Thi khác thơ Xuân Thu Nhã
Tập. Nguyễn Xuân Sanh, Nguyễn Văn Hạnh, Ðoàn Phú Tứ, tuy
làm "cách mạng thơ" nhưng vẫn hoài cổ: Trừ một vài ngoại
lệ, vẫn giữ số chữ nhất định trong câu; dùng nhiều
từ Hán Việt: quỳnh hoa, xiêm y, tỳ bà, ngọc quế, dung nhan,
nghê thường, tần phi, quân vương ...
Nguyễn Ðình Thi biến đổi cả
nhịp điệu lẫn số chữ trong thơ, hầu như chỉ dùng tiếng
thuần Việt, và lời thơ của ông là lời nói đơn sơ,
không trau chuốt nhưng dội sâu vào tâm hồn, vì dường như
nó thốt ra tự -đáy của- tâm hồn.
Những lời giản dị như: "Sáng mát
trong như sáng năm xưa, nắng soi ngõ vắng, thềm cũ lối ra
đi lá rụng đầy ..." vừa nhận diện một thực tại,
vừa như mình nói với chính mình, vừa như mình chưa từng
nói với mình như thế bao giờ. Những hình ảnh trong suốt,
trực tiếp, chưa được thanh lọc qua những phép tu từ, chưa
bị bàn tay của lý trí vày vò, sửa sai, cho nên nó thật,
sâu, đậm và tự nhiên như Tháp Rùa lim dim nhìn nắng,
như gió thổi mùa thu, hoặc nhẹ nhàng trong sáng như
"em mát trong toa đầy nắng ấm", đôi khi âu yếm như
một thì thầm: "em có anh rồi em có anh", hoặc diụ dàng
như một "dòng sông hiền hậu trôi không nói", cũng có
lúc ngậm ngùi như "Tháp Rùa rơi lệ cười trong mưa", hoặc
trầm u bát ngát như
Ðám mây trắng ngần
ôm lấy nỗi buồn của núi,
hoặc lung linh âm thầm như: "đêm đêm thầm lặng ánh sao
trời". Chúng ta sẽ tìm thấy loại hình trực tiếp này
trong thơ Thanh Tâm Tuyền, nhưng ở một phong độ khác hẳn
Nguyễn Ðình Thi. Những lời nói đơn sơ và thuần khiết như
thế, trong sáng và dịu dàng như thế, chưa mấy khi xuất hiện
trong thơ Việt.
Thơ Nguyễn Ðình Thi là những lời
nói thật bình dị, nhưng tự nó có chất sống, tự nó là
cuộc đời, thầm lặng vô cùng sinh động, say đắm, thiết
tha. Sau này, thơ ông trí tuệ hơn, chín hơn và đau hơn, vẫn
trong phong thái ấy, lời ông gay gắt và hiện thực hơn xưa.
Một khoảng trời xanh kia
Một khoảng trời xanh kia
Không phải là chuyện đùa
Bão điên cuồng muốn dập tắt
mọi ánh đèn trong ta.
Lớp lớp mây đen đùn lên đe dọa.
Những cơn lốc cuốn bụi rác bay
mù
Hắt vào chúng ta
Một khoảng trời xanh kia
Ðâu phải chuyện đùa
Trong ngõ tối
Thêm một lời phóng đi
như mũi dao găm tẩm độc
Thêm một hòn đá từ trong bụi
rậm
ném vào gáy người qua đường kia
Chiều nhập nhoạng dơi bay
Hắn rẽ vào ngõ tối cười gằn
Nhìn những móng tay hắn mọc vuốt
dài.
Sau nhiều thăng trầm, cay đắng, Nguyễn
Ðình Thi vẫn nói với chính mình -như Zarathoustra của Nietzsche
nói chuyện với tim mình: "Một khoảng trời xanh kia, đâu
phải là chuyện đùa" và bằng những hình ảnh bạo liệt
hơn xưa: "bão điên cuồng muốn dập tắt mọi ánh đèn
trong ta", "lớp lớp mây đen đùn lên đe dọa", "một lời phóng
đi như mũi dao găm tẩm độc", v.v...
Thơ Nguyễn Ðình Thi phản ảnh phần
sâu lắng của nội tâm - một nội tâm sóng gió trầm u trong
bão loạn của thế sự mà ông vừa là nạn nhân vừa là người
nhập cuộc.
Không chủ trương lật đổ quá khứ, có khuynh hướng
bắc cầu giao lưu nhưng rất khác thơ mới của những người
cùng thời, thơ Nguyễn Ðình Thi ban đầu là những thôi thúc
lãng mạn, chênh vênh giữa tình yêu đôi lứa và tình yêu
đất nước, chuyển sang tình yêu đất nước. Ở mặt trái,
sau này, là hiện thực bất trắc, hiểm họa, với những hệ
lụy trong cuộc sống mà ông đã trải qua.
Những hình ảnh trong thơ Nguyễn Ðình Thi là những
hình ảnh đơn, đối lập với loại hình kép trong thơ Lê
Ðạt sau này; luôn luôn dựa vào thực tại, trái ngược với
quan niệm siêu thực; đưa lời nói trực tiếp vào thơ,
không qua trung gian những biện pháp tu từ hay những thuật
ngữ khác và là một tác phong độc đáo trong thơ Việt hiện
đại.
...
Anh yêu em mỗi ngày thành dòng suối
mới
Và đêm thành cánh đồng sao cho
anh lượm đầy tay
Những nỗi vất vả thành niềm
an ủi
Giọt nước mắt thành giọt mặt
trời
Anh yêu em nắm chặt bàn tay anh cùng
đi
Nắng cháy mưa rơi Anh đi bên em
Gió mờ đêm lạnh Anh đi bên em
Mặt đất thành than đỏ Anh đi
bên em
Mặt đất đầy hoa nở Anh đi bên
em
Anh yêu em - vậy thôi - anh có em trong
đời
Em dịu dàng cánh chim của anh
Niềm thương của anh lo lắng của
anh
Dòng sông không bao giờ yên của
anh
Ánh đèn đường xa của anh
...
(Trên Con Ðường Nhỏ, Nguyễn Ðình Thi, trích
tập Tia Nắng)
Tháng 9/1995
Chú thích
(1) Nguyễn Phan Cảnh trong Ngôn Ngữ Thơ cho rằng "Tản
Ðà đã dành một trong những bài thơ hay nhất của mình cho
thể loại 'tự do' - Tống Biệt."
(2) Hoài Thanh, Hoài Chân, trong Thi Nhân Việt Nam trích
trong Chương Dân Thi Thoại của Phan Khôi in năm 1936 tại
Huế.
(3) Theo Hoài Thanh, Hoài Chân, Thi Nhân Việt Nam.
© 1991-1995 Thụy Khuê
|