Thụy Khuê Cấu Trúc Thơ
XV. Thơ Tạo Sinh
Cái tôi trong thơ hiện đại Như chúng ta đã biết dòng mạch siêu thực ra đời những năm 20 với phong trào "Ða Ða" từ Zurich, sang Paris - New-York. Ðối với thi ca, André Breton, Jean Cocteau chối bỏ cấu trúc cổ điển, dựa trên nguyên lý song song: Song song trong vần điệu, song song trong điệp âm, điệp ý, song song trong đối âm, đối ngẫu, ... để mở ra một phong cách sắp xếp chữ nghĩa khác, trong đó cấu trúc du dương không còn giữ địa vị độc tôn như xưa nữa. Cấu trúc mới còn gọi là cấu trúc không vần "non vers", phát hiện ngay từ đầu thế kỷ với ý hướng giải thoát câu thơ từ hình thức thẳng sang hình thức nổi, hay hình thức âm thanh, hoặc đảo lộn ngữ pháp từ thời kỳ Ða Ða. Guillaume Apollinaire là một trong những người tiên phong bước vào thể loại vô hình thức. Trong nửa đầu thế kỷ XX, những khuynh hướng đối lập trực diện với nhau. Ðôi khi trong cùng một tác giả hoặc trong cùng một tác phẩm, xuất hiện cả hai quan niệm: Quan niệm thẩm mỹ liên tục -của bài thơ- kết hợp, đồng nhất và hài hòa với quan niệm gián đoạn, rã rời, tư tán trong cấu trúc. Sự trung thành với hình thức cổ điển và sự chối bỏ cổ điển xuất hiện thường xuyên trong các tác phẩm của Paul Claudel, Paul Valéry, Blaise Cendrars ... Ảnh hưởng vừa đối tác, vừa giao hòa của các nhà thơ này chấm dứt những năm 50, để nhường chỗ cho một thế hệ thi nhân mới, khuynh đảo thế hệ đi trước và sáng lập ra ngôn ngữ cách tân hiện đại, dựa trên ngữ căn học, chối bỏ mọi thỏa hiệp với cổ điển và lãng mạn. Họ là những Pierre Jean Jouve, Jules Supervielle, St John Perse, rồi Paul Eluard, René Char, Henri Michaux, Francis Ponge, Yves Bonnefoy, ... Ngoài khác biệt cơ bản trong cách tạo hình giữa siêu thực và cổ điển như chúng ta đã biết, sự khác biệt thứ hai giữa thơ hiện đại với thơ cổ điển và lãng mạn là ở "cái tôi". Từ xưa đến nay, cái tôi -le moi- vẫn được coi như là căn nguyên hay sự khơi nguồn của động tác sáng tạo. Thời lãng mạn, cái tôi, với trạng thái ý thức và sự nhận thức của nó, là yếu tố chủ động cấu tạo nên bài thơ. Cái tôi, được quan niệm như một dữ kiện, trọng tâm của ý thức, tiếp nhận những cảm xúc. Sự tiếp nhận đó tạo nên dược tố, kích thích nó, khiến cái tôi tô màu những nhận thức của mình về cuộc đời: tình yêu, buồn vui, hoang mang, lo sợ. Thi pháp của Eluard, dưới một khía cạnh nào đó, vẫn còn giữ truyền thống này. Nhưng đối với Paul Eluard cũng như đối với thế hệ thi nhân hiện đại, vị trí của "cái tôi" đã không còn như trước nữa: nó đã mất địa vị độc tôn, hoặc đã lu mờ, hay đã bội phân, lũy thừa trở thành cái tôi multiple tùy theo bài thơ. Ðối với thơ hiện đại, cứu cánh của động tác thi ca nằm ở sự biểu lộ, phát giác, thoát thai, giải phóng cái tôi chưa biết -le moi inconnu-, thám hiểm thế giới của nó bằng áng sáng ngôn ngữ. Paul Eluard cho rằng: Bài thơ thực hiện bằng lời, sự ngẫu hợp kỳ diệu của cái tôi và ngoại giới và là một hình thái kết hợp tình yêu. Theo Breton và Eluard, tình yêu là một phong cách thơ, ngoài tầm lý trí, là nguồn của sự hội nhập cái tôi ý thức trong cái tôi vô thức. Ðối với Henri Michaux: Không có một tôi, không có mười tôi. Tôi chỉ là vị trí thăng bằng. Và người ký tên tác phẩm chỉ là một hình thái nhất thời của nhũng yếu tố rời rạc, không ngừng chuyển động để dàn ra những thực thể bất kỳ và gián đoạn. Ðiều đó giúp ông thoát khỏi sự hỗn loạn và có thể làm chủ mình. Francis Ponge từ bỏ cái tôi để giải đáp một vấn đề khác: Ðó là làm sao thể hiện bằng động tác ngôn ngữ, mối tương quan sâu xa giữa người và sự vật. Từ bỏ cái tôi, Ponge từ bỏ những chủ đề lấy cái tôi làm gốc, như những lo âu, ám ảnh, sự tìm kiếm siêu hình ... và rất an nhiên Ponge đem vật thể objet làm thành vật chơi objeu và vật vui objoie. Trong thú vui của mình với đồ vật, Ponge tìm thấy nguyên lý: "Thế giới câm mới là tổ quốc". Tóm lại, thi ca hiện đại, đặt lại vấn đề thân phận của cái tôi đã từng chi phối hệ thống tư tưởng của con người trong suốt hai mươi thế kỷ. Với St John Perse, nhà thơ kiêu kỳ và linh thiêng vì có khả năng thiên bẩm, nhà thơ vừa là ngoại nhân mà còn là nhân chứng, tham dự vào chuyến phiêu lưu mà bài thơ đề cảm. Nhà thơ, đối với Breton, là người
giải phóng, và là tiền trạm của người tương lai.
Theo Char: "Chúng ta chỉ có thể sống trước ngưỡng cửa hé mở, đứng trên con đường niêm phong ranh giới giữa ánh sáng và bóng tối." Thi sĩ, là người dùng lời lẽ chính xác, hòa hợp con người với tình trạng trọn vẹn nắm bắt ấy. Người nghệ sĩ, theo Nietzsche, hủy
hoại những hình thức đã có để tái tạo nhũng kết hợp
mới bằng trò chơi.
Henri Michaux viết: "Ðộc giả, bạn
cầm ở tay đây một quyển sách không phải tác giả làm"
và cái không tôi -không tác giả- đề nghị với độc
giả làm chung một quyển sách khác.
Một mặt khác, cái tôi là một đơn vị cố hữu đối với tác phẩm, một tổ chức nội tại của văn bản, mà ở trong đó mạch thông không bị gián đoạn từ bài này sang bài khác, mỗi bài thoát ra một hình thức hư cấu khác nhau. Và cái tôi đó nói lên tính cách phi lý của tất cả những cách xây dựng dựa trên bất kỳ một thực tế nào. Francis Ponge là một nhà xây dựng, một người thợ; ông đã lao động 10 năm trước khi cho in tuyển tập Le parti pris des choses (1942) (Về phe sự vật). Nhận thấy mình không thể "diễn tả" được, Ponge tìm đến sự vật để chơi. Ông nói: "Tôi nhìn những vật gần nhất, nhìn những hòn sỏi dưới chân tôi, tôi quan sát nó cho đến khi nó mở ra, để lộ ra một hố sâu, và cái hố này ít nguy hiểm hơn cái hố sâu nơi con người, vì bằng những phương tiện diễn tả, tôi có thể khép nó lại được." Muốn thể hiện điều đó, trước hết phải quên đi tất cả những gì chúng ta đã biết về vật thể: tất cả những thành kiến đã có sẵn về nó. Sau đó, muốn để cho nó tái sinh trong ý thức ta, thì phải vận dụng đến kiến thức ngôn ngữ, nhưng không phải trong cái nghĩa miêu tả thông thường, mà dùng phương pháp lắp ghép -gọi là objeu- để chế tạo ra văn bản, cũng lạ lùng và đặc biệt như vật thể. Nhưng "trò chơi" chữ của Ponge dường như có những giới hạn của nó. Ponge vật hóa con người (déshumaniser, chữ của Sartre) và người hóa các sinh vật và tĩnh vật như hòn sỏi, con ốc. Ponge nhìn con người qua đôi mắt con ốc, hòn sỏi, đó là cái nhìn tuyệt vời mới trong sáng tạo nhưng gây nghịch lý: Có thể có sáng tạo nếu con người phủ nhận con người? Con người đứng ngoài con người để "diễn tả" được không? Thơ là "cuộc chơi" mà thi nhân đem cả đời người để thử nghiệm. Vậy thi nhân có thể đứng "ngoài người" để "thử nghiệm" nhân sinh? Cuộc thử nghiệm trường kỳ ấy,
những Ðặng Ðình Hưng, Lê Ðạt, Văn Cao, Trần Dần, Hoàng
Cầm, ... đều đã trải qua. Ponge "may mắn" hay "rủi ro" hơn
họ đã thoát khỏi cuộc thử nghiệm đời mình.
Bóng Chữ Lê Ðạt
Tập thơ Bóng Chữ của Lê Ðạt
do nhà xuất bản Hội Nhà Văn in năm 1994 gồm 138 bài thơ,
sáng tác trong khoảng thời gian trên 30 năm. Tác phẩm của
một đời người và người đọc cũng không thể một sớm
một chiều hiểu hết được.
Về cấu trúc, rời bỏ hình thức thẳng -forme linéaire- sang hình thức nổi -typographique-, đi vào cấu trúc không gian, không vần -non vers-, đảo lộn ngữ pháp cổ điển: cắt chữ, phân câu theo một trật tự mới. Phong cách này bắt nguồn từ quan niệm thẩm mỹ và triết lý gián đoạn, đối lập với quan niệm thẩm mỹ liên tục trong văn chương và trong cuộc sống, hiện diện trong thơ văn từ trước đến giờ. Muốn tìm hiểu tác phẩm và tác phong
văn học đó, trước hết phải đặt Bóng Chữ vào bối
cảnh của nó, vào gia đình thơ hiện đại, với dòng mạch
thế kỷ XX. Dòng mạch này, đối với phần đông chúng ta,
dường như vẫn còn là một hoang đảo, mà trước tập Bóng
Chữ của Lê Ðạt, cũng chỉ có một vài tên tuổi như Thanh
Tâm Tuyền, Ðặng Ðình Hưng, mỗi người một lối, đã tìm
cách bước vào.
Là một nhà lý luận và nghiên cứu, Lê Ðạt đã sắp xếp tác phẩm của mình theo tình tự khoa học. Song song với Bóng Chữ nhà thơ còn cho ra đời tập truyện ngắn Hèn Ðại Nhân, kết hợp những bài viết nói lên vị thế và nhân cách của người cầm bút. Riêng truyện ngắn Hèn Ðại Nhân, viết về ý nghĩa của cái chết, sự sống và sáng tác, một tự truyện của tác giả: Khi cần nhẫn nhục sẵn sàng gạt cái gọi là danh dự sang một bên, để sống còn, để sáng tác. Sống và sáng là cứu cánh của người nghệ sĩ. Nhưng khi tác phẩm đã hình thành, nếu tập bản thảo của mình bị chiếm đoạt, thì người nghệ sĩ lại là kẻ sẵn sàng đem sinh mệnh của mình để bảo vệ tác phẩm, đổi lấy sự ra đời của tác phẩm. Tập truyện xuất hiện bên cạnh tập thơ, là giấy khai sinh và là lý do hiện hình của Bóng Chữ. Bóng Chữ nằm trong dòng thơ hiện đại của thế kỷ này, mà chúng tôi xin tạm gọi là Thơ Tạo Sinh, đánh dấu sự ra đời của một dòng thơ, khác với thơ mới trong quan niệm cũ, khác với thơ tự do mà hai chữ tự do bị lạm dụng đã nhiều. Tạo trong nghĩa sáng tạo, sinh trong nghĩa sinh ra, sinh sôi, nẩy nở, phức âm đa tầng, đa nghĩa và đa ngã. Tác phẩm chia làm 4 phần:
Sự phân đoạn chỉ có tính cách rất tượng trưng, vì trong cả bốn phần đều có sự liên tục những gián đoạn, và gián đoạn những liên tục của những hệ hình:
Thơ là nghệ thuật tạo hình bằng chữ. Mật độ hình ảnh trong thơ định lượng chất thơ trong thơ. Thơ Lê Ðạt, ngoài những biện pháp tạo hình thông thường như ẩn dụ, hoán dụ, so sánh, cùng các phép tỉnh lược danh từ, tính từ, động từ, ... xóa bỏ ý niệm trung gian, còn xuất hiện những biện pháp khác dựa trên các thành tố khác:
Và trên tất cả, Bóng Chữ mang tính chất hồn nhiên, thơ dại, nói đúng ra là ngây ngô, trong ý nghĩa naïf hội họa, của một người:
*
Con chữ
của Lê Ðạt tương đương với objeu
và objoie của Francis Ponge, một trò
chơi chữ, một thú vui chữ, một mặt trận chữ, một trận
đồ bát quái mà tác giả bầy ra trong địa đồ và địa
chỉ Lão Núi.
Ngựa viết hoa còn có thể là Người
viết hoa, là Nguyễn viết hoa; Ngựa có thể là hóa thân của
người trong giấc mơ Trang Châu hóa bướm. Ngựa còn gần với
gia đình bọ ngựa: ngứa, ngó, ngoáy, ... nhờ liên tưởng
âm thanh.
Chữ Nguồn viết hoa, cũng có thể là chữ Người viết hoa, mà Nguồn còn có thể là nguồn nước như:
hoặc:
Nguồn đây cũng có thể là phản nguồn, đối cực với quan niệm nguồn gốc cụ thể, cố định và hoài cổ. Nguồn gốc đối với nhà thơ ở đây mang tính chất huyền thoại và luôn luôn chuyển động nó ở bên kia biên thùy cõi biết:
Ðàng trong có thể là đối lập của đàng ngoài. Ðàng trong vừa có nghĩa là trong đục ... vừa có nghĩa là nội tâm của Nước:
Nguồn phần nào tương tự với bản lai diện mục của các thiền sư. Thế giới của các ông Lão Núi là Sáng Thế Xuân của chữ. Về mặt ngữ căn và triết lý, ba bài
thơ trên có sự tư thông giữa người và vật như người
và ngựa, ngựa và mộc; chúng là chân dung phác thảo những
kiếp người-ngựa, ngựa-người, mà cũng là chân dung gỗ,
chân dung ngựa gỗ, đánh số hoặc không đánh số, một đàn
lốc nhốc, quần cộc, lộc ngộc, nhong nhong như nhau.
Mà cũng có thể là những mảnh puzzle
của một bức dư đồ rách, trải bao thăng trầm, tụt xuống
thời ma mút, tiến lên văn minh Xahara; bức dư đồ đã
qua những ga Kỳ Lừa, những hợp tác Rừng ...
những đại lộ Rừng chưa kịp đặt tên.
Mà cũng có thể chỉ là một chuyện bạch
đàn. Một lịch sử mười năm trồng cây. Trăm năm trồng
người.
Tính chất đa ngã của chữ, hợp cùng cách xếp đặt lập thể những hình ảnh cắt nghiêng, chồng chéo, đảo lộn trật tự, những lớp lang úp mở, tất cả phối hợp thành tác phẩm đa thực (méta-réalisme) về một mệnh nước, mệnh người, mệnh ngựa, mệnh gỗ, mệnh ngựa gỗ. Chất lượng hình ảnh tùy thuộc sự khám phá, sáng tạo trong kho ngôn ngữ và lịch sử ngôn ngữ của người đọc. * Về mặt cấu trúc hình thức, Lê Ðạt dùng rất nhiều biện pháp cách tân để tạo hình mới, tạo ngôn ngữ mới. Tạo hình bằng cách cắt chữ: Một đóa mimosa mở ra ba hình: mi - môi - xa:
Mở ẩn dụ cổ điển, cắt mây mưa thành
Lê Ðạt đưa ra những hình ảnh mới
về mắt, chưa từng xuất hiện bao giờ:
như thế thì mắt không chỉ xanh thôi, mà còn to, tròn, có đuôi như lá vạn niên thanh, xanh vĩnh cửu: Câu thơ ấp ủ giấc mộng trường sinh trong biển lục. Rồi hình ảnh trưa hồ thủy bất chợt đến sau, đem trưa, một ý niệm thời gian hữu hạn, cắt đứt vạn niên, ý niệm thời gian vô hạn bằng một màu xanh khác: xanh hồ thủy. Vết cắt ấy chính là sự giao thoa giữa hai màu lục và lơ và là điểm hẹn giữa hiện tại và tương lai, giữa hữu hạn và vô hạn. Tính cách giao lưu kim cổ này tạo những hình ảnh lạ lùng và đài các trong thơ Lê Ðạt:
Và từ đôi mắt xanh, Lê Ðạt tạo những biến tố khác nhau trong nồng độ, âm độ và sắc độ, pha trộn giữa hội họa, thi ca và âm nhạc:
Từ mắt xanh thời quá khứ, chuyển sang mắt bão, thời hiện đại:
và những đôi mắt lá răm rất ca dao, rất Xuân Hương:
hoặc:
Như thế, riêng hình ảnh về mắt, tính
chất tạo sinh đã mở ra vô tận, tùy theo cách kết hợp giữa
quá khứ với hiện tại, giữa con chữ hôm qua và con chữ
hôm nay.
và nhà thơ vẽ tranh khỏa thân thủy mạc:
Có khi ông đem hội họa về miền điền dã:
Với Bóng Chữ, trạng thái u mê có thể mở ra thành một quang cảnh đầy âm thanh và thiết tha tâm cảm:
và Bóng Chữ vẽ "đèn phố" dưới dạng khỏa thân, phân thân và phức âm:
và nhà thơ bỏ cách ngắt câu cố định:
Mỗi câu thơ trên đây bầy ra ít nhất
hai cách ngắt câu khác nhau. Linh động cách ngắt câu như thế,
nhà thơ tạo chuyển động cho câu thơ và cho hình ảnh, khiến
các từ có thể kết hợp theo những ngữ nghĩa khác, những
mô hình khác:
Rồi
Tính cánh di động ảnh theo cách ngắt câu, phát xuất từ sự gián đoạn những liên tục và liên tục những gián đoạn trong mạch câu. Nói khác đi, mỗi chữ trong câu vừa có vị trí độc lập đối với những chữ khác, vừa có khả năng kết hợp với những chữ khác, không nhất thiết phải theo một trật tự nhất định. Bóng Chữ còn tạo hình nhờ cận ảnh (gros plan) bằng cách đẩy vào giữa mạch câu thơ một âm thanh xa lạ, khác hẳn với nhịp câu:
Những chữ ò e , cong , ồ, u ú , bổi hổi lạc vào câu thơ như những trái phá, cắt đứt mạch văn, gián đoạn không gian, tạo sự ngạc nhiên. Ngoài tác dụng gợi thanh, gợi hình, tạo linh hồn cho khung cảnh và động tác, chúng còn là những âm được chiếu gros plan thành âm thanh nổi, tựa những hình cube của Cézanne trong không gian phẳng của hội họa, làm đổi toàn diện cục bộ nghệ thuật tác phẩm. Trong trường hợp câu đối cổ điển "Da trắng vỗ bì bạch" của Ðoàn Thị Ðiểm, Bóng Chữ tách làm hai ảnh em, rồi tổng hợp lại, chiếu gros plan lên âm thanh "ồ hô" gợi hình ảnh khỏa thân:
Nhà thơ đã tái sinh câu đối của người
xưa trong trận đồ ngôn ngữ hiện đại.
*
Ðến đây, chúng ta đã có gần đầy
đủ phương tiện để phân tích bài Bóng Chữ, bài thơ
quy tụ những yếu tố tiêu biểu cho phong cách tạo sinh trong
thơ Lê Ðạt.
Bài thơ 49 chữ + bóng chữ = 51 chữ.
Dưới hai dạng thức này, thơ và thiếu đã biến nghĩa: Thơ có thể là thơ ngây, nàng thơ, mà cũng có thể chỉ là thơ không thôi. Thiếu trở thành biến từ, nghĩa là vắng hoặc chưa đủ:
hoặc còn có thể đọc A và B như hai câu thơ độc lập, và như thế, B được hiểu như một phép tỉnh luợc chủ từ:
Và hai hình ấy lại có khả năng tạo
hình bằng phiếm định, dường như chúng hỏi nhau trong câu
thơ, về "chuyện ấy". Mấy: Bao nhiêu? Vài? Một ít?
Biết bao nhiêu mà kể? Chẳng bao giờ? ... Mấy mang trong
mình một quá trình văn học, trải hơn một đời tình:
Chưa dứt chia ly, đã tràn sang nhung
nhớ:
Âu Lâu là quê hương của Lê Ðạt, một
bến sông ở Yên Bái. Âu Lâu đồng âm với Âu Lạc, cũng
quê hương của Lê Ðạt và của nhiều người. Mà âu
còn là có lẽ:
Trong chiều âu lâu ấy, bóng chữ động
chân cầu.
lại mở ra một thực tại khác vô cùng đắm say và thơ mộng
giữa hai thực thể chữ và câu .
*
Bóng Chữ là tập thơ tình, là mối sầu riêng, không tên - không tôi - không địa chỉ. Nấp sau bóng của những hình hài hóm hỉnh, trêu ngươi, là một tình yêu thiết tha, trầm lắng, là nỗi buồn riêng tìm kiếm triền miên tình yêu và nghệ thuật: Tình yêu đã lẩn trong nghệ thuật hay nghệ thuật đã trốn trong tình yêu:
Cũng có khi là sự hoài vọng một vết yêu chưa lành:
Ở phần sầu riêng ấy, bóng chữ ẩn bóng tôi, bóng ta, mà cũng không tôi, không ta, để trở thành cái tôi phổ quát của con người lạc loài rồi tan loãng trong thiên nhiên, trong vũ trụ như những cánh thư lạc trong hư vô:
Ngay cả những cánh thư có người nhận cũng hóa thân sang kiếp khác:
Và trong cõi âm dương hòa hợp chung sống ấy, cả đến bước chân cũng vô chủ:
Trên ngã rẽ đôi âm - thế, sầm uất cộ xe, chiều cũng lạc loài:
Sự hoang vắng, xa lạ chiếm đoạt cả linh hồn Ðức Mẹ dồng trinh:
Và chúa vô ngôn, lang thang, đi hoang ngoài cửa Bắc:
Vô vàn hình ảnh vượt trùng u uẩn như thế mang tính cách giao hòa giữa hai cõi tử sinh, giữa ngàn xưa và hiện tại trong những góc cạnh thiết tha và sâu lắng nhất. Sự hợp tác giữa mơ và thực, giữa con người và thiên nhiên, giữa lịch sử và văn hóa kết tinh trong thơ Lê Ðạt:
Cây ải cây ai (gợi nỗi buồn Tú
Xương: Ðêm nảo đêm nao tớ cũng buồn) gập cơn gió sải
(anh gió này đang phóng bước thật dài, hai tay giăng ra), thì
lập tức cây aỉ cây ai hóa thân thành người con gái tóc
buông thề.
Bóng Chữ là tác phẩm của một đời. Người yêu thơ không thể khám phá hết cái hay trong một lúc. Nhưng chính vì mỗi lần đến với Bóng Chữ chúng ta lại thấy một khía cạnh liêu trai mới, một chập chờn hư thực mới mà tác phẩm gắn bó với ta và biện minh cho hình thức cộng tác sáng tạo giữa người viết và người đọc. Thơ Lê Ðạt khó và tối. Tác giả niêm phong tác phẩm của mình bằng sự cô đọng chữ nghĩa. Nhưng đó là cái khó của sự tìm tòi khoa học, cái tối là ẩn số của bình minh, là sự niêm phong gạn lọc tư tưởng. Cho đến nay chúng ta chưa có một tác phẩm nào thể hiện sự thay đổi toàn diện trong phong cách thơ, từ bản sắc triết học, đến cấu trúc hình thức và nội dung như thế. Với Bóng Chữ thơ mới đã thực sự nhường ngôi cho một dòng thơ khác, Thơ Tạo Sinh hiện đại trong tinh thần khuynh đảo và tái sinh những giá trị cổ điển. Paris tháng 4/1995
Chú thích
Chú thích
© 1991-1995 Thụy Khuê
|