Thụy Khuê
Nói Chuyện Với Hoàng Xuân
Hãn và Tạ Trọng Hiệp
Tạ Trọng Hiệp:
Phan Khôi, người xa lạ
Thụy Khuê: Hợp Lưu có ý định ra một số báo
chủ đề Phan Khôi. Người đầu tiên Hợp Lưu cần hỏi ở hải ngoại là anh, bởi vì anh
giữ tương đối đầy đủ tài liệu về Phan Khôi và anh cũng đã đọc, đã suy nghĩ nhiều
về Phan Khôi. Việc đầu tiên khi nhắc đến Phan Khôi, theo ý anh, là việc gì?
Tạ Trọng Hiệp: Xin cảm ơn Thụy Khuê đã nghĩ đến tôi. Thật ra những gì Thụy Khuê
vừa nói là do tình cảm quen biết nhau trong văn hóa cho nên Thụy Khuê khen thế
thôi, chứ tôi thấy không đúng đâu. Nếu có ai am tường về Phan Khôi thì chắc
không phải là tôi. Nếu tôi có chú ý đến Phan Khôi là vì cố gắng cá nhân, bên
cạnh công việc chính là nghiên cứu Hán Nôm cổ. Theo tổ chức trong sở tôi thì
không có chỗ cho sự nghiên cứu Phan Khôi. Và tôi xin tiếp tục cải chính, tôi
nghĩ là trong nước hình như còn có người biết hơn chúng ta nhiều lắm về thân thế
và sự nghiệp Phan Khôi. Rất tiếc vì ở xa nên không liên lạc được. Tôi đã nghĩ
đến một người, người này -ông Nguyễn Văn Xuân- là nhà văn kỳ cựu ở Quảng Nam, Đà
Nẵng. Ông đã bước vào làng văn từ những năm đầu của chiến tranh thế giới thứ hai.
Ông viết cả truyện ngắn và biên khảo về văn học và môi trường văn học ở miền
Trung và miền Nam. Đặc biệt cuốn sách Khi Những Lưu Dân Trở Lại đã khiến tôi chú
ý rất sớm về ông Nguyễn Văn Xuân. Và ông ấy lại sinh hoạt ở một vùng không xa
lắm, vùng quê hương đã sản xuất ra những người như cụ Phan Chu Trinh hay là gia
đình cụ Phan Khôi. Tôi đọc thêm cuốn Phong Trào Duy Tân của ông Nguyễn Văn Xuân,
đó mới chỉ là tập đầu của một bộ ba quyển. Cho nên tôi vẫn hy vọng phập phồng
rằng trong tập 2 và tập 3, có khi ông nói đến hiện tượng Phan Khôi chăng? Một
hiện tượng rất lớn đối với địa phương ấy.
Bây gìờ trở lại vào đề. Ngày hôm nay tôi xin được nói một hai ý kiến vụn vặt về
Phan Khôi. Nếu tôi có can đảm viết, có thì giờ, và tôi không đau ốm quá, thì tôi
sẽ viết về Phan Khôi, và sẽ đặt nhan đề là Phan Khôi: Người Xa Lạ.
TK: Tại sao anh lại chọn nhan đề như vậy?
TTH: Đây là một nhận định rất bình thường. Nếu Thụy Khuê có dịp phỏng vấn thanh
niên trong và ngoài nước, những người chưa đến tuổi 40, 45, thì tôi sợ là sẽ đi
đến một kết quả rất buồn là người ta không biết tên Phan Khôi là ai, chứ đừng
nói đến chuyện đánh giá Phan Khôi cao hay thấp, khen hay chê, chửi hay bênh. Mà
như vậy là một tình hình đã kéo dài nhiều năm rồi.
Thời còn sống thì Phan Khôi, ngày xưa là người hay đấm đá, hay cãi. Đúng là
Quảng Nam hay cãi. Cho nên ông ấy cũng gặp một số khó khăn với một số bạn làng
văn. Tôi nhớ khoảng năm 39 có một bài của Tản Đà với nhan đề rất Tây là Bài Trừ
Nạn Phan Khôi ở trong làng báo trong Nam. Vậy từ xưa đã có người đánh Phan Khôi
rồi.
Nhưng cá nhân đánh như thế thì không thấm vào đâu vì Phan Khôi có sức chịu đựng
và đối đáp. Nhưng điều mà ngày nay, tôi gọi Phan Khôi là người xa lạ, là vì từ
những năm 56, 57 trở đi, qua hiện tượng đấu tranh của nhóm Nhân Văn Giai Phẩm,
thì sau đó có một cuộc đàn áp ghê gớm của nhà cầm quyền Hà Nội. Và từ đó đến nay,
đã có rất nhiều thay đổi về tình hình trong nước, trên thế giới. Có những giai
đoạn cởi trói, đổi mới. Rồi cũng có rất nhiều bài nghiên cứu, và sách nghiên cứu
về văn học Việt Nam thế kỷ XX, và cả những năm gần đây nữa, như là giai đoạn Thơ
mới, giai đoạn Tiểu thuyết lãng mạn Tự Lực Văn Đoàn v.v...
Vậy gần đây, đã gần như không còn chỉ thị cấm kỵ gì nữa. Nhưng hình như với
riêng một số người -chứ không phải toàn bộ- cứng đầu nhất trong Nhân Văn Giai
Phẩm, trong đó có Phan Khôi, thì những cấm kỵ ấy vẫn còn, còn dưới nhiều hình
thức lắm.
Thứ nhất là không nói đến Phan Khôi. Không nói đến Phan Khôi, làm như là không
có hiện tượng Phan Khôi. Phan Khôi không xuất hiện ở trên trái đất này.
Nhưng tìm nhiều thì thấy có một vài trường hợp không thể tránh khỏi, nên miễn
cưỡng, họ phải làm ra một tiểu sử về Phan Khôi. Trong một cuốn sách, cũng lâu
lắm rồi, ra từ năm 72, tập 2 của bộ Lược Truyện Các Tác Gia Việt Nam, thì ở mục
số 50, có một trang rưỡi dành cho Phan Khôi . Nội dung bài viết và phong cách
câu văn làm ta sống lại những năm chung quanh vụ đàn áp Nhân Văn Giai Phẩm, mà
đỉnh cao là về sau, xuất hiện dưới hình thức một cuốn gọi là Bọn Nhân Văn Giai
Phẩm trước tòa án dư luận, in năm 1959.
Người nào có cuốn ấy thì thấy trong đó có ba, bốn bài gì đó, tập trung nện cụ
Phan Khôi bằng đủ mọi cách, bằng những bịa đặt rất là bẩn thỉu, để chứng minh
rằng ngay từ khi còn thiếu niên, Phan Khôi đã là người không ra gì. Và người
viết không phải là người lơ tơ mơ đâu, đây là những người nổi tiếng có cá tính
bướng bỉnh và có tinh thần phê phán rất ghê gớm như Nguyễn Công Hoan. Nếu tôi là
con cháu Nguyễn Công Hoan, thì có lẽ lúc này tôi sẽ tìm những nơi nào có cuốn
sách đó, đốt đi, để xóa một giai đoạn không tốt cho Nguyễn Công Hoan.
Còn riêng cá nhân tôi, Tạ Trọng Hiệp, thì tôi lại chủ trương ngược lại: Nhân dịp
ta ra 1 hay 2 đặc san về Phan Khôi, thì cũng nên in lại vài bài, kiểu bài của
Nguyễn Công Hoan hay là của một vài người khác đã viết về Phan Khôi, để ta nhớ
lại, nhất là để giáo dục thanh niên ngày hôm nay, là đã có những thời gian mà
trình độ văn hóa và đạo đức trong nước nó sa đọa đến một cái mức thấp mà không
ai có thể ngờ được. Đây có tính cách giáo dục, mở đường cho tương lai.
Ngày hôm nay thì những cấm kỵ, phần lớn đã được bỏ rồi. Nhưng mà người ta vừa bỏ
cấm kỵ, vừa muốn cho chúng mình nghĩ rằng trong quá khứ có một vài sự hiểu lầm
chứ chẳng bao giờ sa đọa đến nỗi bẩn thỉu như thế.
Đấy là một chuyện nó cắt nghĩa tại sao tôi muốn gọi cụ Phan Khôi là người xa lạ.
À có cuốn sách duy nhất, là
Từ Điển Nhân Vật Lịch Sử Việt Nam của hai ông Nguyễn
Q. Thắng và Nguyễn Bá Thế, tôi có bản in năm 1991, có hai trang tương đối khách
quan, không chửi rủa, không lên án cụ Phan Khôi, mà có nhắc rõ một số giai đoạn
trong đời cụ, đã hoạt động hồi đầu bị bắt mấy năm trong nhà lao vì có dính đến
hai vụ: Vụ dẹp Đông Kinh Nghĩa Thục, vụ chống sưu thuế ở miền Trung. Và cho biết
tên một số báo mà Phan Khôi đã hợp tác để kiếm ăn, đồng thời xác định chỗ đứng
của mình trong làng văn.
Ngoài cuốn của Nguyễn Q. Thắng và Nguyễn Bá Thế, thì không tìm thấy ở đâu khác,
trừ cái bài rất đáng tiếc ở tập 2, Lược Truyện Các Tác Gia Việt Nam.
Tôi tiếp tục cái ý Phan Khôi, người xa lạ là người ta hình như cố tình xóa dấu
vết về Phan Khôi. Tôi cho một bằng chứng rất gần đây, là Phan Khôi, trong những
năm 30, có một số bài tranh biện với cụ Trần Trọng Kim, sau khi cuốn Nho Giáo
tập I, tập II của cụ Kim được in ra. Những bài của cụ Kim đáp lại Phan Khôi được
nhà xuất bản Tân Việt, khi in cuốn Nho Giáo lần thứ 3, cho vào phần Phụ lục. Cụ
Kim là người có nhã độ của một người thời còn đạo đức ở Việt Nam. Mỗi lần cụ nói
rõ là cụ đáp lại ai -tức là đáp lại Phan Khôi, bài gì của Phan Khôi- và đăng
trong báo nào. Qua đó, người ta có thể nghĩ rằng: A! Hồi đó, có một người có
trình độ kha khá, tương đương với cụ Trần Trọng Kim, để có thể đáp đi đáp lại,
và cụ Kim đã thấy cần phải thanh minh, biện đi biện lại. Có một số đoạn thì cụ
Kim nói: à tôi hiểu sai! Ông Phan Khôi ông ấy chỉnh đúng! Còn nhiều chỗ khác thì
cụ Kim nói: Không! Ông Phan Khôi ông không hiểu tôi vì ông ấy quá tả, tôi thì
tôi theo phe hữu; tôi chấp nhận tôi theo phe hữu, tôi không chống Tống Nho v.v...
Qua cái phụ lục đó, người ta cũng có thể tò mò hỏi: ờ, Phan Khôi là ai nhỉ? Mình
thử tìm đọc xem sao? Bây giờ, muốn xóa dấu vết Phan Khôi cho tốt, thà là ta bỏ
phắt cái phụ lục đi. Và quả nhiên, năm 1991, khi tái bản Nho Giáo ở Sài Gòn,
người ta bỏ hẳn phần phụ lục ấy. Ta có thể đọc hết cuốn Nho Giáo mà vẫn không
biết là Phan Khôi đã giới thiệu, đã có công rất lớn để giúp cho cuốn Nho Giáo
của Trần Trọng Kim được giới có học, tạm gọi là trí thức hồi đó, tìm đọc. Và nhờ
những biện luận của Phan Khôi mà có một số điểm sai lầm trong Nho Giáo được sửa
lại. Như vậy là riêng về một tác phẩm mà Phan Khôi có công, và cái công đó đã
hoàn toàn bị xóa bỏ, khi người ta tước cái phần phụ lục ấy đi.
TK: Ngoài những vụ việc -cố tình xóa- ấy, còn có vụ việc nào khác nữa không anh?
TTH: Còn một điểm khác nữa, tôi xin lỗi, hơi sa đà vào cá nhân. Nhưng tôi không
quen ông này. Tôi không có cái gì để trả thù cá nhân cả. Tôi muốn nói đến một
nhân vật -bây giờ cũng chết rồi- mà hình như ai có học, có yêu văn chương trong
nước đều biết cả. Tôi có nghe nói là cả tác giả mới xuất hiện vài năm nay, và
đang được nhiều người tôn sùng lắm, là cô Phạm Thị Hoài, cô Phạm Thị Hoài cũng
đánh giá rất cao ông Vũ Ngọc Phan, tác giả bất hủ của bộ Nhà Văn Hiện Đại, mà
tôi cũng như mọi người, mang ơn rất nhiều trong thời còn trẻ. Không may là ông
Vũ Ngọc Phan được trời cho sống khá thọ. Những năm cuối đời, có đủ thì giờ, ông
viết hồi ký rất tường tận. Đặc biệt ông dành riêng gần 100 trang để tả lại cái
buổi ban đầu lưu luyến ấy, ông được gặp người yêu của ông và sau ông cưới làm vợ.
Đó là cô Hằng Phương, người có quan hệ gia đình với Phan Khôi!
Tại sao tôi nhớ đến Vũ Ngọc Phan khi nói về Phan Khôi? Tôi muốn đưa ra một minh
họa, đố ai chối cãi, rằng người ta cố ý, hay là quá sợ, người ta không dám nói
đến Phan Khôi:
Ông Vũ Ngọc Phan, nhà anh hùng văn hóa này, ông anh hùng đến nỗi kể về cô gái
đẹp như tiên, ông tả Hằng Phương tóc dài mượt. Cái gì cũng đẹp cả. Thế thì bố cô
Hằng Phương là ai? Đọc hết cả tập hồi ký của Vũ Ngọc Phan nhan đề là Những Năm
Tháng Ấy, ra năm 87 ở trong nước, cả thẩy 423 trang của nhà xuất bản Văn Học,
thì ông bố có công đẻ ra nàng tiên ấy, độc giả nào mở cuốn sách ra đọc từ đầu
đến cuối, vẫn không biết ông ấy tên là gì!
Ông bố của Hằng Phương là nhà văn Sở Cuồng, tên thật là Lê Dư.
Lê Dư, hồi trẻ, có một giai đoạn bồng bột, nghe theo tiếng gọi của nhiệt huyết
yêu nước, xuất ngoại Đông du. Có sang Tầu, sang Nhật. Về sau ông ấy học khá giỏi
tiếng Nhật. Nhưng sau một thời gian -mà tôi chưa nghiên cứu rõ, tôi chưa biết là
bao lâu- ông ấy trôi giạt ở Thượng Hải. Vì đói quá, ông chuồn về Việt Nam. Và
lại gặp lúc mật thám Pháp đang tìm cách dụ những người trí thức chống đối, về
làm việc với nó, vì nó đang muốn mở ra một lối thoát cho trí thức nho học duy
tân: Các anh đi con đường chống chúng tôi thì chết; nhưng nếu các anh đừng chống
chúng tôi, mà lại có một hoạt động văn hóa, có lợi cho cả các anh lẫn chúng tôi,
thì các anh sống được. Tức là bằng sự mở tờ Nam Phong. Một người có tư tưởng ôn
hòa như Phạm Quỳnh đứng chủ trương.
Cụ Lê Dư về được bổ nhiệm làm chủ bút, giữ phần Hán văn của Nam Phong. Thì chỉ
vì những năm đó mà về sau Lê Dư bị mang một nhãn hiệu -sau khi Cộng Sản lên cầm
quyền- gần như là một người phản cách mạng.
Cho nên Lê Dư cũng bị một số phận -tuy không nặng bằng Phan Khôi, nhưng cũng gần
như thế- là trong bộ sách quý báu mà tôi hay dùng, Lược Truyện Các Tác Gia Việt
Nam, tập 2, ở mục số 19 , có một tiểu sử Lê Dư, mà người cán bộ viết sách đó,
lúc đó đang sống ở Hà Nội, có con gái cụ Lê Dư là bà Hằng Phương, con rể cụ Lê
Dư là ông Vũ Ngọc Phan, con gái út cụ Lê Dư là vợ tướng Nguyễn Sơn, còn đang
sống lúc bấy giờ ở giữa Hà Nội, mà họ dám viết tiểu sử Lê Dư bằng hai câu đầu
như thế này: Không biết năm sinh và năm mất ở đâu. Lúc đó, cụ Lê Dư đang sống
phây phây ở giữa Hà Nội. Ngày nay, tôi rất tò mò muốn biết là cụ mất năm nào ở
Hà Nội.
Có thể với người không để ý đến văn học sử, không để ý đến những chi tiết chính
xác như tôi, cho là tôi bới lông tìm vết. Tôi thì tôi cho rằng, trong văn học sử,
không có chi tiết gì là không quan trọng hết cả. Viết về tiểu sử của ai, trước
hết là phải xác định được năm sinh, tháng đẻ của người ta, rồi thứ hai nữa là
phải nói rõ tên tuổi bố mẹ; gốc gác từ đâu ra; lò nào đào tạo nên. Rồi sau đó
mới nói đến sự nghiệp văn chương.
Còn về cụ Lê Dư, đã không có năm sinh, năm mất, đó là một điều sơ sót. Thứ đến
là cụ sinh ra được ba cô con gái tuyệt vời kia, thì cụ đã phải lấy vợ, và ai là
bà vợ có công đẻ ra ba cô con gái ấy, cô đầu lấy Vũ Ngọc Phan, cô thứ hai lấy
Hoàng Văn Chí mà người Việt ở bên Mỹ nhiều người biết, hai vợ chồng chết già ở
bên Mỹ cách đây 4 năm gì đó (tôi sẽ trở lại với Hoàng Văn Chí), và cô út, lấy
ông Nguyễn Sơn, là đại tướng đã có công lớn với văn hóa Việt Nam ở Thanh Hóa
những năm 47-49. Cuối 49 thì quân đội Mao Trạch Đông liên lạc được với Việt Minh,
và cách mạng Việt Nam không kham nổi ông Nguyễn Sơn, trả lại cho Mao Trạch Đông,
nói: Thôi ông đem nó về Tầu đi, chúng tôi không có chỗ đứng cho cái anh này. Tôi
xin khép dấu ngoặc về Nguyễn Sơn, khi khác sẽ nói về Nguyễn Sơn.
Trở lại quan hệ gia đình phía vợ ông Lê Dư. Vợ ông Lê Dư là em ruột Phan Khôi.
Vì cả hai là con cụ tiến sĩ Phan Trân. Đấy là điều đố các bạn thanh niên đời nay
tìm ra được trong các sách vở in công khai ở trong nước.
Sở dĩ tôi đi đến được một vài thu hoạch be bé, rất bình thường, ấu trĩ này là
tôi rất bất mãn khi ghi chép tiểu sử người ta, mà cứ dấu cái này, dấu cái kia.
Nhất là cuốn hồi ký của Vũ Ngọc Phan, là người tôi mến trọng ngày xưa bao nhiêu,
thì sau khi đọc cuốn hồi ký, tôi mất đi nhiều thiện cảm với ông ấy, chỉ vì cái
chuyện hèn nhát của ông ấy: Tên bố vợ không dám nói, chỉ nói ông cụ làm ở Bác Cổ,
mỗi ngày đánh xe đi từ nhà ở phía gần đường gầm xe lửa chạy từ Long Biên qua phố
nhà Chung. Mỗi ngày đi xe nhà đến trường Bác Cổ! Suốt mấy chục trang nói về ông
bố của người mà mình sắp đến xin cưới con gái, không dám nói đến tên ông cụ là
Lê Dư.
Điểm thứ ba, khi nói về tên ông ngoại của vợ mình là cụ Phan Trân. Trong suốt cả
cuốn hồi ký đó, mỗi lần nhắc đến cụ thì cứ gọi cụ là cụ Phan Trần. Tôi rất tiếc
là khi cuốn hồi ký của Vũ Ngọc Phan in, thì hình như ông ấy mới mất, cho nên
không ai duyệt bản thảo cuối cùng. Tên cụ Phan Trân là một đại nhân vật ở tỉnh
Quảng Nam cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Đây là một điều nên cải chính. Ai có
cuốn sách Những Năm Tháng Ấy của Vũ Ngọc Phan: Tên cụ là Phan Trân chứ không
phải Phan Trần.
Và qua sự chắp nối với một vài điều đọc ở chỗ khác, thì dần dần tôi thử phác họa
Phan Khôi là con cái nhà ai, sinh năm nào? Ở đâu? Đấy, cái này đã bắt tôi bỏ ra
nhiều thời gian tìm kiếm, nó là khía cạnh khiến tôi đi đến một quyết định là nếu
viết bài, thì tôi đề tựa: Phan Khôi: Người xa lạ? Với một dấu hỏi rất lớn vì quả
thật là gốc gác, lý lịch và dấu vết về đời cụ Phan Khôi ngày nay gần như bị xóa
hết cả rồi.
TK: Thưa anh, bây giờ, giới phê bình, giới lý luận, nghiên cứu muốn viết về Phan
Khôi, thì việc trước tiên là phải viết về cái gì để giới thiệu Phan Khôi với độc
giả?
TTH: Tôi rất phân vân khi được nghe nói là phải viết về Phan Khôi, và tôi có suy
nghĩ viết thế nào về Phan Khôi? Cố nhiên cái mục đích chung của tờ đặc san Hợp
Lưu hay của ai khác, khi ra bài, ra sách về Phan Khôi là để cho người ta biết
thêm về Phan Khôi. Nhưng mà cái mà mình cần viết để cho người đọc biết về Phan
Khôi là cái gì?
Thì đấy, nó đi đến cái chuyện mà tôi có bàn với Thụy Khuê, và Thụy Khuê vừa nhắc
lại đây, tức là: Lâu nay, khi viết về một nhân vật văn học, thì đại khái, giới
bình luận, giới phê bình, giới nghiên cứu phân chia thành hai phe -tạm gọi là
như thế-: Cái phe đã thành công rất chói lọi cách đây 15, 20 năm ở bên Tây
phương, và rồi sau đó nó có ảnh hưởng sang Việt Nam và rồi lúc này có một vài
người đang thật sự đi vào con đường mới ấy, tôi tạm gọi là phê bình mới, new
criticism hoặc nouvelle critique đó. Họ có một thái độ xuất phát từ hình thức
câu văn, hình thức tác phẩm. Họ rất ghét cái lối nhìn văn học với con mắt của
thế kỷ XIX tức là yêu cầu phải cho tôi biết con người ấy là ai, rồi tôi sẽ kết
hợp với lý lịch, với hồ sơ đạo đức lịch sử con người xã hội của tác giả đó, để
tôi kết hợp với sự đánh giá tác phẩm của người đó.
Trường phái văn học mới, chống lại cái nhìn ấy. Nó phát biểu ra một cái hơi quá
thái cực. Nhưng khi người ta đưa ra một học thuyết mới, thì bao giờ cũng nên
cứng một tí. Tôi nhớ hồi trẻ, tôi rất hoan nghênh bởi vì tôi không cần biết tác
giả là ai. Không cần biết Phan Khôi là ai. Ông ấy sinh năm nào. Bố ông ấy là
Phan Trần, Phan Trân, Phan Chu Trinh hay Phan gì chăng nữa, tôi chỉ cần biết
hiện bây giờ trong tay chúng ta có tác phẩm Phan Khôi mà đọc; và qua những tác
phẩm đó thì nó lộ ra những tài nghệ, những sở trường, sở đoản của Phan Khôi. Thế
là đủ rồi. Như vậy có lẽ cái vấn đề gấp rút nhất lúc này, phải là vừa viết ít
nhiều về Phan Khôi, đồng thời phải giới thiệu tác phẩm của Phan Khôi để cho
thanh niên -hoặc là những người không còn là thanh niên, nhưng ra đi tay không,
không đem theo sách cũ- có thể nhớ lại Phan Khôi đã viết những gì và với một tài
năng như thế nào?
Đó là một bước đáp của tôi. Bước thứ hai là nếu theo khuynh hướng tôi quen thuộc
hơn, mà tôi đã được hấp thụ ít nhiều với thầy Hoàng Xuân Hãn và học ở trong
Sorbonne mấy năm cũng là cái khuynh hướng đó, tức là: Cái nhìn văn học sử. Biết
càng nhiều tư liệu càng hay. Những thông tin về thân thế, hệ thống gia đình,
màng lưới địa phương, mạng lưới bạn bè của những người cùng tuổi, cùng học, cùng
say mê những phong trào văn hóa hay là các phong trào khác trong sinh hoạt xã
hội, những năm mà thân thế của cá nhân nhà văn đó đang thai nghén, phôi thai; để
đi dần đến cái định hình cố định ấy, thì không có một thông tin nào là thừa. Sau
nữa là từ khi thành người tự lập, từ khi thoát khỏi váy mẹ và thoát khỏi sự nuôi
nấng của bố, thì người ấy tự lập bằng phương tiện sinh hoạt, bằng nghề nghiệp,
bằng tài chính, bằng kinh tế như thế nào cho đến ngày mất? Cái đó cũng rất quan
trọng. Nó ảnh hưởng đến những vấn đề như: Tại sao ông ấy lại viết loại tác phẩm
đó mà không viết loại khác. Tại sao ông ấy lại viết loại bài báo ngắn hơi, mà
không viết loại 5, 6 trăm trang như một học giả? Phan Khôi có phải là một học
giả không? v.v...
Vậy nếu biết nhiều về thời đại Phan Khôi, thân thế Phan Khôi, quan hệ của Phan
Khôi với người đương thời, đọc được những báo mà Phan Khôi đã viết để tranh luận...
cũng là những soi sáng, nó dội ngược lại để mình hiểu thêm về Phan Khôi.
Và nghĩ cho đến cùng, thì nếu mà có một quan điểm mở rộng hơn quan điểm văn học
sử của thế kỷ XIX -mà bây giờ tôi mong rằng thế nào ta cũng thực hiện được- là
quan điểm sử học. Sử học, theo nghĩa rộng thì nó chứa cả quan điểm văn học sử
của thế kỷ XIX. Đồng thời nó có chỗ cho phê bình mới. Cái nhìn sử học không loại
trừ một thông tin nào cả: Thông tin lấy từ xã hội hay thông tin lấy từ văn bản
đều là thông tin. Và nói cho cùng, thì cái gì cũng là sử liệu. Cả lời ăn, tiếng
nói, phê bình của nhà phê bình cũng là sử liệu. Thì đây là cái đích lâu dài. Nếu
về sau, nước ta lại trở lại bình thường như mọi nước, lại xây dựng một cách hợp
lý, thì lúc đó, không những Phan Khôi và các tác gia khác trong lịch sử văn học
Việt Nam sẽ được nghiên cứu tốt hơn. Hôm nay, tôi xin dội một gáo nước lạnh nhỏ
vào gáy Thụy Khuê: Chưa phải là lúc để nghiên cứu thật tốt về Phan Khôi, vì còn
thiếu nhiều điều kiện quá.
TK: Trong hiện tình thiếu nhiều điều kiện như anh vừa nói đó, thì chúng ta có
thể làm việc gì trước?
TTH: Theo tôi thấy thì cũng đơn giản thôi. Là để có thể dẫn người tiến hành phê
bình văn học theo trường phái phê bình mới có điều kiện thực hiện những công
trình mà chúng ta đều mong đợi là đọc tác phẩm với toàn bộ hồ sơ lịch sử về Phan
Khôi, đồng thời lại có phương pháp phân tích câu văn theo những cơ cấu, bề nông,
bề sâu của trường phái mới.
Tôi nghe nói ở bên Mỹ có một vài vị thanh niên và bán thanh niên như ông Bùi
Vĩnh Phúc cũng đã rất quen với phương pháp mổ xẻ văn học qua hình thức, qua bề
ngoài của câu văn, rồi đi dần đến cái nội dung sâu xa trong tác phẩm. Nếu được
như vậy, thì đó là đỉnh cao mà tôi mong ước. Nhưng mà để đi đến cái đó, ta cũng
nên trở lại trái đất rất thấp, đi từng bước nhỏ của một người hiện bây giờ gần
như không biết gì cả.
Chúng ta hiện nay gần như không biết gì cả về Phan Khôi. Thế thì điều đầu tiên
là ta phải điều tra về thân thế Phan Khôi. Vậy bây giờ chúng ta có một số gợi ý
để chuẩn bị cho việc nghiên cứu Phan Khôi, hơn là hôm nay, tôi xuất hiện như là
một nhà đã hoàn thành công việc nghiên cứu Phan Khôi.
Tôi xin đưa ra một số việc nên làm là:
Tiểu sử Phan Khôi, theo như tôi biết, không có nơi nào viết tường tận và bổ ích
cho chúng ta nhiều chi tiết bằng bài tiểu sử đã đăng ở mục Phan Khôi, trong cuốn
sách Trăm Hoa Đua Nở Trên Đất Bắc mà người biên tập chính là Hoàng Văn Chí. Tôi
xin nhắc lại là Hoàng Văn Chí có bà vợ là em ruột bà Hằng Phương, vậy bố vợ của
Hoàng Văn Chí cũng là cụ Lê Dư, và mẹ vợ của Hoàng Văn Chí là em ruột Phan Khôi.
Cho nên tôi đoán rằng khi viết mấy trang tiểu sử về Phan Khôi, ông Hoàng Văn Chí,
ngoài sự tự điều tra và hiểu biết của ông, chắc ông cũng có căn vặn bà vợ, cho
nên ta mới có nhiều chi tiết như thế.
Thứ nhất, mở đầu đã nói cụ sinh năm 1887 ở làng Bảo An, ông thân sinh ra cụ là
Phan Trân -nơi duy nhất nói tên ông bố Phan Khôi là Phan Trân -còn nếu đọc Vũ
Ngọc Phan, thì nghe nói có một ông cụ Phan Trần, có đứa cháu ngoại rất đẹp là cô
Hằng Phương, còn cụ Phan Trân là ai, so với cụ Phan Khôi, thì đố mà biết được,
phải nhờ cuốn sách ông Hoàng Văn Chí mới biết được- Vậy bây giờ tài liệu đầu
tiên nên in lại cho người chưa biết gì về Phan Khôi cả, là một số thông tin, chi
tiết. Tôi có kiểm tra lại một vài điểm trong tiểu sử này thì thấy đúng cả. Nhưng
rất tiếc là vẫn chưa vừa cái lòng tham vô đáy của tôi, là còn muốn biết thêm
nhiều chi tiết hơn nữa; thì qua một vài truyện ngắn của Phan Khôi, chính Phan
Khôi cũng tiết lộ thêm về một vài chặng đường văn học của mình, và về ông cụ
thân sinh ra mình. Trong Truyện Ông Năm Chuột, cũng được in lại trong Trăm Hoa Đua
Nở, có vẻ như là truyện hoàn toàn sáng tác của Phan Khôi, nhưng hình như nó có
pha hồi ký vào trong ấy, vì khi tác giả kể về một số vấn đề quan hệ gia đình: Bố
tôi nói rằng, anh tôi nói rằng v.v..., khi kiểm lại, thì thấy rằng những năm đó,
Phan Khôi đang ở nhà với bố v.v... Ta nên kiểm thêm bằng một vài sáng tác khác
của Phan Khôi, nó bổ sung cho nhau, rất quý. Nhưng chưa thấm vào đâu.
Ngày hôm nay không biết có chậm chưa hay là vẫn còn kịp để chúng ta mở một cuộc
điều tra rất cổ điển mà bác Hãn hay làm lắm. Bác hay có lời tiếc là tôi đây đang
ở xa, không tiện về quê của tác giả để điều tra. Thì cái làng Bảo An của gia
đình họ Phan ấy bây giờ vẫn còn. Yêu cầu thứ nhất, rất sơ đẳng của tôi -Tạ Trọng
Hiệp- là giá có ai, dưới sự hướng dẫn của anh Nguyễn Văn Xuân mà tôi nói lúc đầu,
về địa phương điều tra xem: Thứ nhất, gia đình họ Phan còn ai không? Gia đình cụ
Phan Trân có mấy người con trai? Con gái thì có ba cô, tôi biết rồi, cả ba đều
ra ngoài Bắc. Còn con trai, ngoài Phan Khôi còn có người nào khác? Theo tiểu sử
Phan Khôi do ông Hoàng Văn Chí đưa ra, có nói là năm 45-46, Phan Khôi bị rắc rối
với chính quyền cách mạng mới, ở địa phương, và chính quyền trung ương Hà Nội đã
đưa cụ ra Hà Nội giao cho Phan Bôi quản lý, vừa bảo vệ, vừa canh chừng luôn.
Phan Bôi được giới thiệu là em họ Phan Khôi.
Và thứ hai, cái hy vọng điên cuồng của bác Hãn và tôi là: Còn giữ được gia phả
không? Nếu không còn giữ được ở địa phương, thì hoặc nó đã bị thất lạc, bị đốt
cháy trong thời kỳ cải cách ruộng đất và bao nhiêu năm hỗn loạn của nội chiến,
ngoại chiến. Nhưng có khi lại có người trong gia đình cầm được cái gia phả đó và
chạy tuốt sang nước nảo nước nào đâu đó? Lại ở gần chúng ta? Ở Little Saigon hay
gì gì đó... Có người giữ được bản sao đó chăng? Hôm nay nhân tiện tôi lên lời
kêu gọi nếu còn con cháu họ Phan, thì các bạn làm ơn liên lạc với báo Hợp Lưu,
hoặc nhà bình luận Thụy Khuê, giới thiệu cho biết: Tôi là con cháu họ Phan, tôi
còn gia phả và cho phép Tạ Trọng Hiệp nghiên cứu!
Thứ ba là biết về thân thế cá nhân ông Phan Khôi không, chưa đủ, còn phải biết
ông trải qua những chặng đường lập thân ở trong đời như thế nào? v.v...
TK: Trong khi chờ đợi những nguồn tư liệu như thế, anh là người có thể cho độc
giả biết những điều sơ khởi về Phan Khôi?
TTH: Bài tiểu sử của ông Hoàng Văn Chí cũng nói một vài điểm rất rõ là khoảng
Đông Kinh Nghĩa Thục đang hoạt động, thì cụ Phan Khôi có liên lạc với cụ Phan
Chu Trinh và có nhận công tác gì đó, ra Bắc. Lúc đó Phan Khôi còn trẻ lắm, vì
các bạn nhớ là ông Phan Khôi sinh năm 1887. 1907 là ông mới 20 tuổi. Lúc đó hình
như ông mới đậu tú tài rồi bị bắt giam cho đến năm 1911. Sau đó được thả ra.
Kiếm ăn bằng nghề làm báo. Bắt đầu với Nam Phong.
Nhưng mà một người có cá tính gai góc như Phan Khôi thì khó mà hợp với cái ông
ôn hòa chủ nghĩa là ông Phạm Quỳnh. Đó là không nói đến vấn đề quan điểm chính
trị, Phan Khôi có những người bạn tiền bối hoặc cùng tuổi với mình, toàn là
những nhà hoạt động duy tân, cách mạng cả.
Những bài bôi nhọ Phan Khôi những năm 56-57, nói cụ là người phản động từ đầu,
là nói bậy. Qua những bài báo cũ còn giữ được, thì ta thấy rằng Phan Khôi suốt
đời là một người tranh đấu cho duy tân, cho nhân quyền, cho phụ nữ bình đẳng,
cho nhiều thứ lắm. Cụ không phải là một người an phận để chạy chọt một chỗ có
công ăn việc làm cho ngon, cho béo bổ, vinh thân phì gia đâu. Cụ long đong suốt
đời cũng vì con đường lập thân của cụ những năm đó. Bây giờ, ít nhất chúng ta
cũng nên biết rằng trong suốt thời gian từ 1918-20 đến 40-45, cái nôi hoạt động,
cái địa bàn hoạt động, cái espace sociale Phan Khôi đó là báo. Báo miền Bắc, báo
miền Trung, báo miền Nam. Trong đó có tờ Phụ Nữ Tân Văn. Phan Khôi viết nhiều
trong đó. Bây giờ làm sao có cách nào mà in lại một tuyển tập hàng trăm hàng
nghìn bài mà Phan Khôi đã viết trong 50 năm như thế, thì ta mới có cơ sở để khám
phá ra một vài nét cơ bản trong văn tài Phan Khôi.
TK: Anh có thể lược kể nội dung những văn bản mà anh hiện có về Phan Khôi?
TTH: Hiện bây giờ, tôi chỉ có trong tay một tài liệu, mà với thời gian trôi qua
từ 20 năm nay, tôi thấy càng ngày nó càng quý, chứ hồi đó... Vì cái tính ưa sưu
tầm của tôi, tôi đã xin tác giả là ông Thanh Lãng, hồi Thanh Lãng còn là giáo sư
đại học Văn Khoa Sài Gòn. Ông ấy đứng trước vấn đề như mình đang nói chuyện đây,
là muốn cho sinh viên hiểu về những tác giả mà mình nói, không thể chỉ ngồi mà
bình luận với họ về cái nhân vật ấy một cách trừu tượng, ông này hay, ông kia
dở, ông này yêu nước, ông kia phản bội, câu văn ông này du dương, ông kia chán
ngắt. Phải đưa cho họ cái đương sự bị phê bình. Thế thì Thanh Lãng đã thử giải
quyết vấn đề đó bằng cách bỏ tiền ra, thuê người ta đánh máy lại rất nhiều số
báo, trong đó rất may cho chúng mình là có tờ Phụ Nữ Tân Văn mà ở đấy có gần 5,
6 trăm trang dành cho các bài của Phan Khôi. Bên cạnh cái mớ đó còn một vài xấp
khác nữa. Thỉnh thoảng cũng có lạc bài của Phan Khôi vào. Hôm nay, chưa phải là
lúc để tìm hiểu xem Phan Khôi, với tư cách nhà báo, đã có tài năng và tung tích
gì không? Hôm nay việc đầu tiên là Thụy Khuê phải ngồi mà đọc Phan Khôi nhà báo
để xem ông ấy đã có những đặc tính gì? Hôm nọ tôi đã thử đọc lướt qua rồi, đọc
hết 5, 6 trăm trang của Phan Khôi. Vừa thú vị. Vừa hơi mệt. Bởi vì ông này, ông
cãi nhiều khi cũng gàn, cũng bướng lắm. Giống cụ Phan Chu Trinh hay cãi. Đấy là
một việc.
Rồi có những tác phẩm đã được in thành sách. Có lẽ nên kết hợp với gợi ý của
tôi, đó là có cách nào để xuất bản trong một tuyển tập, một số bài báo xuất sắc
nhất của Phan Khôi, đồng thời tái bản một hai cuốn sách của cụ. Cuốn đầu tiên là
cuốn Chương Dân Thi Thoại. Mà tôi tin rằng nhà lý luận và phê bình Thụy Khuê thế
nào cũng sẽ có những phản ứng để bình luận. Đây là một cuốn rất có duyên. Cụ
viết theo cái truyền thống thi thoại của Trung Quốc, từ đời Tống là Âu Dương Tu,
cha đẻ ra dòng văn học thi thoại, cho đến cụ Phan Khôi, là nó có một mạch như
thế, trải 10 thế kỷ. Cái lối bình luận về thơ văn của nhà nho. Nó không kênh
kiệu, không lý luận như cái gọi là phê bình mới đâu. Nhưng nó có cái duyên của
nó. Thì cái duyên đó là gì? Tôi hy vọng là Thụy Khuê đủ tài tế nhị để cho độc
giả Hợp Lưu thấy.
Cuốn thứ hai là cuốn Việt Ngữ Nghiên Cứu, tập hợp một số bài cụ Phan Khôi đã
thai nghén từ trong những năm kháng chiến, từ năm 46-47 ở Việt Bắc, cho đến khi
trở về Hà Nội năm 56. Thì được hội Văn Nghệ họ in cho thành một tập sách, tương
đối mỏng thôi, nhưng rất quý. Ngày hôm nay, giới nghiên cứu ngôn ngữ và văn tự
cổ của Việt Nam rất cần có. Cuốn sách nhỏ độ 178 trang, trong đó có những bài
xuất sắc như là Nghiên cứu hư từ trong truyện Kiều (2 bài), hoặc là Tiếng ta
trong chữ Nôm, không kể bài đầu, cụ Phan Khôi theo gương nhà ngữ pháp học bên
Trung Quốc là Lê Cẩm Hy, đưa ra một phương pháp họa đồ, để mổ xẻ hệ thống ngữ
pháp của một ngôn ngữ, thì cụ Phan Khôi áp dụng đúng như thế: Tân Quốc Văn Ngữ
Pháp của Lê Cẩm Hy.
Rồi có những cái khác nữa, có lẽ cũng nên tái bản. Tôi tiếc rằng hồi sáng lập ra
ban Việt Học cho đại học Paris VII, năm 69-70, trường hồi đó không có tiền để
xây dựng thư viện, cho nên tôi đem một mảng lớn thư viện cá nhân của tôi để
trong trường cho người ta có cái đọc, trong đó, tôi để 2, 3 cuốn sách của Phan
Khôi. Thứ nhất là cụ dịch tuyển tập truyện ngắn của Lỗ Tấn. Thứ hai là cụ dịch
tuyển tập tạp văn của Lỗ Tấn, thì mười mấy năm sau, khi tỉnh ngộ ra, tôi chạy
đến cứu những cuốn đó, thì những cuốn đó đều đã mất gần hết cả. Chỉ còn cứu được
cuốn Tạp Văn của Lỗ Tấn. Còn cuốn Truyện Lỗ Tấn thì rất tiếc là nó đã nằm ở
trong tủ sách nhà ai trong đám sinh viên hay là bạn đồng nghiệp của tôi ở Paris
VII rồi, không có hy vọng tìm ra nó nữa. Đấy là những cái nên tái bản.
TK: Anh thích cả Phan Khôi lẫn Lỗ Tấn. Xin anh so sánh Phan Khôi với Lỗ Tấn.
TTH: Đấy là cái điều tôi rất muốn nói. Tôi sẽ đáp trúng câu hỏi này. Nhưng trước
đó, tôi xin nói thêm về một vài vấn đề, một vài ý kiến. Mấy hôm nay tôi đang suy
nghĩ về Phan Khôi.
Cụ Phan Khôi tập trung dịch nhiều sau khi đi kháng chiến. Trong kháng chiến, cụ
có dịch một vài tác phẩm rất ngắn, của văn học Trung Quốc mới, của Mao Trạch
Đông. Ví dụ như cuốn Thù Làng của Mã Phong. Loại bỏ túi để phục vụ cho cái gọi
là tinh thần cán bộ trong cải cách ruộng đất. Đây là công tác kháng chiến của cụ
đấy. Thì cái này có thể bỏ qua, không có gì đáng đọc: Văn chương công nông binh!
Sau khi trở về Hà Nội, cụ có tập trung dịch nhiều về Lỗ Tấn. Nhưng trước đó,
Phan Khôi đã xuất hiện trong văn đàn, trong giới làm báo, giới xuất bản của nước
ta từ 1920 trở đi. Nhất là qua bài giới thiệu của Vũ Ngọc Phan -Vũ Ngọc Phan
ngày xưa, tôi không nói đến cái ông Vũ Ngọc Phan viết hồi ký đâu-. Tôi muốn nói
đến cái ông tác giả bất hủ của Nhà Văn Hiện Đại đó. Thì đấy là tài liệu đầu tiên
người ta đọc để biết Phan Khôi là ai -không biết có sai không- là nhờ Vũ Ngọc
Phan. Vũ Ngọc Phan đã gợi thêm cho người ta biết: Qua cuốn Chương Dân Thi Thoại,
Phan Khôi đã tỏ ra mình là một nhà bình thơ như thế nào.
Cuốn Chương Dân Thi Thoại tập hợp một số bài đã đăng ở trong báo, kể cả trong
Nam Phong, có thể tóm lược trong hai ba chữ:
- Văn viết có duyên, không nặng nề, không có phương pháp luận, không có lý luận
học.
- Nửa tính cách sưu tầm, những điều dật sự chung quanh một bài thơ, thêm một số
thông tin thú vị về một bài thơ. Thỉnh thoảng cũng có một vài nét chấm phá về
tinh thần bài thơ. Khi viết câu này, câu kia, đáng khen hay vì nó hơi kín đáo.
Thế thì người viết bình luận mới giới thiệu cho ta là đấy, cái câu thầm nó nằm ở
chỗ đó, vì sao, vì sao, v.v...
Ta tiếc rằng sau đó hoàn cảnh không đưa Phan Khôi đến sự nghiệp một học giả chân
chính, viết sách sâu rộng 5, 6 trăm trang khảo cứu về lịch sử thơ ca Trung Quốc,
lịch sử thơ ca Việt Nam. Thành một học giả kiểu Hoàng Xuân Hãn.
Cuộc đời làm báo, nửa chết đói, nửa thất nghiệp của nhà văn ngày xưa không cho
phép Phan Khôi ngồi rảnh để làm những công trình đó. Cũng là một điều đáng tiếc.
TK: Anh cho rằng Phan Khôi, vì phải làm báo nên đã không có thì giờ ngồi viết
biên khảo. Và cái không gian báo chí thời Phan Khôi cũng đáng nói lắm?
TTH: Lịch sử báo chí Việt Nam thì đã bắt đầu có người viết ít nhiều bài báo, có
người làm luận án rồi. Nhưng theo tôi, không gian văn hóa vẫn còn đáng giới
thiệu lắm. Trong không gian văn hóa có nhiều chiếu. Mấy chiếu mà Phan Khôi đã
ngồi, mấy tờ báo mà Phan Khôi đã viết, đã đóng góp rất lớn trong sự xây dựng
những câu văn xuôi hay những quan niệm đổi mới thơ ca. Ai cũng biết bài Tình Già
của Phan Khôi đã có công dụng như thế nào năm 32. Hoặc là bài Cảnh Cáo Các Nhà
Học Phiệt, Phan Khôi viết 13 năm sau khi cụ Ngô Đức Kế đã phê phán rất ác liệt
Phạm Quỳnh trong vấn đề bình luận truyện Kiều. Thì trong 13 năm Phạm Quỳnh giữ
im lặng, không đáp. Rồi vì bài của Phan Khôi, chính Vũ Ngọc Phan cũng có nhận
xét là Phạm Quỳnh nhịn không nổi đành phải cầm bút viết để thanh minh với Phan
Khôi. Thế là phải biết Phan Khôi có tài châm chọc khiến cho người ta không thể
ngồi yên được. Anh không thể tiếp tục giữ ngôi học phiệt như thế. Bây giờ tôi
đặt anh trước vấn đề: Anh không đáp là anh khinh người. Lúc đó ông Phạm Quỳnh
mới phải đáp.
Qua những cái đó, mình mới nhận thấy vocation lớn của Phan Khôi phải chăng chính
là làm báo đây. Làm báo chính là cái đất múa gậy, múa võ. Tuy có đụng chạm nhiều
lắm, vì cũng có kiểm duyệt đấy, nhưng khi ông viết, trong Phụ Nữ Tân Văn chẳng
hạn, thì không bao giờ thấy nói trực tiếp về thời sự chính trị, đuổi giặc Pháp,
giành độc lập. Nhưng ông gieo những cái mầm mới, những quan niệm mới về luân lý,
bình đẳng và dân chủ, về tình trạng ác liệt mà phụ nữ Trung Quốc và Việt Nam đã
sống mấy chục thế kỷ vừa qua, và vẫn còn đang sống khi những loại bài ấy được in
ra. Qua cái đó ta thấy ông là một nhà báo rất năng động và có công với sự thay
đổi, cái tôi tạm gọi là Tân trình tập thể của người Việt những năm 20-40. Người
ta chỉ để ý đến Phong Hóa, Ngày Nay. Chúng ta nên nhớ là có nhiều tờ báo khác
nữa.
Cái nét thứ ba là ngay trong Phụ Nữ Tân Văn, nói như ông Nguyễn Vỹ trong bài thơ
gửi Trương Tửu, là làm báo của phụ nữ, nói về phụ nữ, thì ông Nguyễn Vỹ gọi là
anh đi buôn thúng theo đàn bà kiếm ăn. Ông Phan Khôi được chỗ ngồi rất yên ổn
trong tờ Phụ Nữ Tân Văn. Đồng thời ông lại đưa vào đó, một điều tâm đắc của ông:
Trong những năm bị bỏ tù trong nhà lao Quảng Nam, ngay quê hương mình, ông học
tiếng Pháp. Ông này có những điểm rất giống các cụ Huỳnh Thúc Kháng, Phan Chu
Trinh: Cái vốn tiếng Pháp của họ không phải là học với nhà trường của Pháp đâu,
vì gia đình chống, không cho họ đi học chữ quốc ngữ và tiếng Pháp. Những người
này có tinh thần cởi mở cho nên họ học tiếng Pháp.
Phan Khôi học rất nhanh. Học đến nỗi say mê. Và ông đi tìm khám phá những học
thuật, những phương pháp mới của Tây phương có cái gì hay. Ông nhận thấy là
người mình chưa có ai chịu học cho sâu, tức là logique. Ông Phan Khôi, trong mấy
chục năm, cứ bị người ta đem ra chế giễu Phan Khôi là người điên vì logique. Đi
đâu cũng nói chuyện logique. Cãi nhau với Trần Trọng Kim về Nho giáo, cũng có
bài nhan đề là Xin mời Trần Trọng Kim tiên sinh trở về nhà cô Logique với tôi.
Ông ấy có vẻ hơi điên điên đấy, nhưng mà tôi nghĩ không phải điên đâu. Đây cũng
là một cá tính của người vùng ông Phan Khôi, cái vùng Quảng Nam, Đà Nẵng.
Tôi rất ao ước là làm sao sức khoẻ của anh Nguyễn Văn Xuân cho phép anh ấy viết
vài chục trang thật là đích đáng, thấm thía về cái quan hệ giữa môi trường địa
phương Quảng Nam - Đà Nẵng, nó đã hun đức những người như Phan Chu Trinh, Phan
Khôi... Phan Khôi thì không ai xếp bên cạnh Phan Chu Trinh. Bởi vì Phan Chu
Trinh nổi tiếng là một người hoạt động chính trị hơn là một người làm báo hay
sống cho văn học. Nhưng mà họ có những cái nét giống nhau. Phan Chu Trinh thì đã
được Trần Huy Liệu tặng cho một chữ, tôi cho là đúng lắm: Sửng cồ. Tức là ăn nói
lơ tơ mơ với cụ là bị cụ choảng ngay lập tức. Hay cãi, và cãi rất hăng. Rất giận
dữ. Thì đấy là Phan Chu Trinh. Phan Khôi cũng có những nét đó. Nhưng đồng thời
có những nét khiến cho mình yêu Phan Khôi hơn, là ông già này có humour. Trong
những bài báo, trong các sách của ông, ông đang viết nửa câu nghiêm trang, ông
phang thêm vào những câu rất bình dân, rất hài hước, rất dí dỏm. Và nó tăng
cường cái thành công của những câu văn ấy. Một trong những lý do tôi thích Phan
Khôi vì hình như, trong người tôi cũng có một cái đứa thích dí dỏm, hài hước.
Thì đây là nói về nhà báo Phan Khôi.
TK: Anh sa đà vào nhà báo Phan Khôi cũng nhiều rồi, có lẽ anh nên trở về Lỗ Tấn
- Phan Khôi đi.
TTH: Bây giờ tôi xin trả nợ Thụy Khuê. Tôi nhích gần đến đề tài Lỗ Tấn-Phan
Khôi. Tôi vẫn chưa chịu vào đề ngay. Tôi xin thêm một câu cuối cùng nữa về những
tư tưởng mà Phan Khôi đã chuyên chở và đã bảo vệ một cách khá tài hoa. Ngày hôm
nay, đọc lại những bài báo cũ đó, mình vẫn thấy chưa cũ. Vừa rồi Thụy Khuê có
ngó qua một vài bài đó thì đã có một phản ứng rất tự nhiên là: Sao ta chưa tái
bản những bài báo này?
Tôi hoàn toàn tán thành. Tôi muốn nói một câu cuối cùng về cái thời gian làm báo
của ông Phan Khôi. Về nội dung, thấy rất rõ là ông theo chủ trương đổi mới của
những người tân tiến nhất của Trung Quốc và Việt Nam những năm đó: Chống Tống
nho, yêu cầu giải phóng phụ nữ. Tố cáo tục bó chân đàn bà, tố cáo một trăm cái
chuyện trói đàn bà bằng dư luận, bằng bố mẹ chồng, bằng em chồng, bằng ông già
mụ O. Tiếng của ông Phan Khôi là mụ O, là kinh lắm. Trong làng ai cũng sợ mụ O.
Thì cái người nạn nhân nặng nhất của mụ O là các nàng dâu.
Đấy, thì cái cuộc tranh đấu này, nói chung, nó rất giống các cuộc tranh đấu của
các nhóm tân học Trung Quốc, từ Lương Khải Siêu cho đến Hồ Thích, và các người
cầm bút ở bên Trung Quốc những năm 20-30.
Nhưng cái điểm mà tôi vừa nói lúc nãy, nó xuất hiện khiến cho Phan Khôi gần Lâm
Ngữ Đường hơn là gần Hồ Thích. Hồ Thích là giáo sư đại học, có lương bổng tháng,
tương đối an nhàn, có thể tới các viện khảo cổ viết những bài sưu tầm ghê gớm.
Còn Lâm Ngữ Đường thì tuy có một thời gian ngắn làm giáo sư đại học, nhưng về
sau viết báo thành công, vì kiếm được hai cái trái ngược, rất khó sống với nhau,
đó là khi cần thì đưa học vấn ra biện luận nghiêm chỉnh, và đồng thời biện luận
với humour, với con mắt hóm hỉnh, nhẹ nhàng. Vừa giáo huấn người ta mà vừa khiến
cho người ta cười vui vẻ, nhẹ nhàng. Thì đấy, ông Phan Khôi ông ấy kiêm được cả
hai cái đó.
Bây giờ tôi mới đi đến câu hỏi của Thụy Khuê. Trong lịch sử văn học thế giới, nó
có cái hiện tượng gọi là văn dịch thuật. Chuyện này ai cũng biết rồi. Nhưng
không phải hễ có nhà văn dịch là thành công. Hễ có sự cần dịch, là người dịch
dịch thành công. Phần lớn là dịch không thành công.
Tôi là người rất say mê đọc các bản dịch nhiều chiều, dịch từ Pháp sang Việt, từ
Việt sang Pháp, Hán sang Việt, Việt sang Hán, v.v... Tôi bỏ rất nhiều thời gian
trong cuộc đời nghiên cứu của tôi, để dò xét tài nghệ của người dịch, tâm địa
của người dịch đối với tác giả bị dịch như thế nào. Đây, cái điều tôi muốn tặng
độc giả Hợp Lưu và các bạn sẽ chú ý đến Phan Khôi đó là: May thay cho văn hóa
ta, cho ngôn ngữ ta, người dịch Lỗ Tấn mà tôi cho là thành công nhất, không phải
là Đặng Thai Mai -là người có công giới thiệu tên tuổi của Lỗ Tấn ở Việt Nam
những năm 30-40-. Không phải là những người về sau như ông Giản Chi ở trong Nam,
hoặc ông Trương Chính ở ngoài Bắc. Mà riêng cá nhân tôi, Tạ Trọng Hiệp, thì tôi
đánh giá rằng, trên đời này, Lỗ Tấn nếu cần được dịch sang tiếng Việt thì Lỗ Tấn
rất cần Phan Khôi gặp mình và dịch mình. Cái phép lạ, ơn chúa, ơn trời đã khiến
cho Phan Khôi gặp Lỗ Tấn.
Tại sao tôi nói thế? Bây giờ tôi xin minh họa. Tôi xin bảo vệ ý kiến của tôi.
Chứ đây mới chỉ là một khẳng định giáo điều thôi, là người nào có học chữ Hán,
đọc được văn học Trung Quốc thời Lỗ Tấn, có đủ sức đọc Lỗ Tấn, thì chắc còn nhớ
rằng Lỗ Tấn, trong văn đàn thời ấy và cho đến ngày hôm nay vẫn thế, ông ấy là
một hiện tượng quái kiệt, chứ không phải là một nhà văn thông thường, viết văn
xuôi xẻ đâu. Tư tưởng của ông rất cứng, rất có góc cạnh. Ông ấy rất bướng. Khi
chống phái bảo thủ, khi chống Tống nho, khi chống truyền thống tâm tình dân tộc
Trung Quốc là nô lệ, văn hóa Trung Quốc là văn hóa ăn thịt người. Ông ấy là cha
đẻ của cái câu ấy đấy.
Khi ông ấy viết ở A.Q. Chính Truyện, 100 bài tạp văn ác liệt để phê phán nhóm
quân phiệt lúc đó đang xâu xé Trung Quốc, hoặc những đám bồi bút lúc đó đang đem
tài nghệ ra theo đóm ăn tàn, thì ông ấy dùng một hình thức câu văn, khiến cho
sinh viên khi bắt đầu đọc Lỗ Tấn rất khổ, là nó rất cô đọng, nó nặng về văn
ngôn, đồng thời về phong cách, về tính tình đó. Khi thì tàn nhẫn. Khi thì dí dỏm
một cách không thể nhịn cười được. Và Lỗ Tấn, cũng như Phan Khôi và nhiều nhà
văn lớn trên thế giới, là hay viết về quê hương, về cái làng của mình ở tỉnh gần
Hàng Châu, tỉnh Triết Giang ấy.
Về mặt thuần sáng tác, bây giờ tôi chưa nói đến mặt cà khịa tạp văn, hãy nói về
cái địa hạt mát mẻ, ấm áp hơn, mà có lẽ độc giả Hợp Lưu thích hơn, tức là Lỗ Tấn
sáng tác gì hay, và Phan Khôi đã dịch những sáng tác ấy hay như thế nào? Khiến
cho chúng tôi, lớp thanh niên mới lớn lên, không có quan hệ dính líu, về tình
cảm hay những cuộc thanh toán cũ của các ông già kiểu Tạ Trọng Hiệp còn oán
người này, mê người kia đó; chúng tôi muốn yêu cầu ông dẫn cho biết xem có gì
đáng đọc...
Thì bây giờ tôi xin đưa một hai thí dụ là trong những truyện ngắn, vừa có tính
cách thi vị, đồng thời có tính cách xác thực của Lỗ Tấn, cái chuyện Chúc Phước,
trong có mụ Tường Lâm, mụ này cứ kể cho mọi người nghe về số phận thảm hại của
đứa con trai duy nhất bị chó sói tha, đem về núi ăn thịt. Mụ Tường Lâm là mụ vú
già được người ta thương, người ta nuôi trong gia đình, và mụ nói không ai đáp,
không ai nghe. Trẻ con cứ hay chế giễu mụ là người lảm nhảm. Cái thần tình của
Lỗ Tấn, khi viết câu chuyện thương tâm ấy, là ông viết với cái bề ngoài thật
lãnh đạm. Ông làm chủ ngòi bút. Không có một chữ nào tỏ ra là ông xúc động sướt
mướt vì thảm cảnh bà Tường Lâm. Ông viết về mụ Tường Lâm với con mắt Lỗ Tấn, khi
ấy lên tám hay lên mười gì đó. Nhưng đọc xong, ai cũng thấy đây là một thành
công lớn. Qua cái hình thức lạnh lùng ấy, ông đã lột được thảm cảnh hơn là bù lu
bù loa nhiều.
Khi Phan Khôi dịch truyện đó, Phan Khôi cũng nắm được tinh thần của câu chuyện.
Và tôi, tôi rất thú vị bản dịch của Phan Khôi, vì đã theo sát câu văn của Lỗ
Tấn. Khi nó cộc, ông dịch cộc. Khi nó cay chua, ông cay chua. Khi nó kể chuyện
trong làng, nói những chữ có vẻ... gọi là thô tục, hay nói tục, thì Phan Khôi
dùng được đúng cái ngôn ngữ vùng Quảng Nam, Đà Nẵng của ông, để dịch, làm cho
mình có cảm tưởng ta đang đọc truyện ngắn của người vùng Quảng Nam-Đà Nẵng, mà
có hương vị Tầu, sao mà câu văn thành đạt như thế. Đó không phải là văn dịch. Và
tôi là người rất say mê, như con gái ngày xưa hay ăn ô mai đó, tôi thì tôi ăn ô
mai ngôn ngữ. Chữ nào mà đậm đà, thì tôi đọc đi một lần, rồi tôi đọc lại. Đêm
nằm tôi lại nghĩ lại. Sáng hôm sau tôi lại sau mở ra đọc lại. Tôi vừa mê Lỗ Tấn
lẫn Phan Khôi như thế. Đọc xong còn nhớ mãi. Đọc xong còn đọc lại. Chuyện Chúc
Phước. Chuyện Xã Hí... Một hôm cậu bé con Lỗ Tấn buồn ngủ, cả nhà đưa cậu ấy
xuống thuyền, đi từ làng, đi trên sông, trên lạch, ra tới thị trấn huyện để xem
một rạp hát nhân dịp lễ thần hàng năm. Trên đường về thì cậu ngái ngủ, lại được
ăn một thứ gần như là tào phở nóng, làm bằng bột đậu tươi. Cậu kể theo cái giọng
thằng trẻ con, vừa thích xem hát, vừa ngái ngủ, vừa mê ăn, ăn tào phở. Tôi còn
nhớ lúc đó tôi đọc, tôi ba mươi mấy tuổi rồi, mà tôi tiếc quá, sao hồi bé mình
không được sống trong làng để được hưởng cái thú đi xem xã hí, vừa được ngủ, vừa
có cha mẹ dẫn đi, vừa trèo lên thuyền, vừa có người ru, lắc dậy nói: Này, dậy ăn
tào phở! Thế thì, đấy, qua bản dịch của cụ Phan Khôi, nó đậm đà, nó vừa trung
thành có thể nói là tuyệt đối với Lỗ Tấn, vừa có cái hương vị thuần túy Việt
Nam. Tôi là người Bắc Kỳ, Hà Nội, tôi có rất nhiều thiên kiến với anh em ở miền
Trung và miền Nam; nhưng khi tôi gặp những hiện tượng như là thơ văn của những
ông "sửng cồ" như Huỳnh Thúc Kháng, Phan Chu Trinh, Phan Khôi, hoặc những ông
còn sống, tuy đã cao niên, như ông già Bẩy Trấn ở trong Nam, thì tôi là người
đầu tiên muốn hô cao khẩu hiệu: Hoan hô tính cách địa phương trong văn học.
TK: Vũ Ngọc Phan đã cho Phan Khôi vai trò ngự sử văn đàn, anh nghĩ sao về việc
này?
TTH: Tôi may mắn còn giữ được nguyên bản, bản in lần đầu tiên Nhà Văn Hiện Đại,
không có đủ bộ, chỉ có quyển I và quyển II, thì đây, để tìm lại xem Vũ Ngọc Phan
viết gì? Vũ Ngọc Phan có nói: "Phan Khôi mà đóng vai ngự sử đàn văn thì thật là
xứng đáng, không mấy người kiêm được nhiều điều kiện như ông: Có óc tỷ mỷ, soi
mói, lại dùng chữ rất đúng, học rộng, kinh nghiệm nhiều. Từ ngày cái mục ấy
không còn, tôi thấy rằng về sau các tạp chí văn học khác cũng có nêu lên những
mục tương tự như thế, nhưng không mấy người đủ tài để viết." Bây giờ phải đọc
lại Phan Khôi, nhưng tôi nhớ là ông Vũ Ngọc Phan rất tán thành cái ám ảnh của
Phan Khôi, đó là nhắc cho những người viết báo, viết đúng chính tả tiếng Việt.
Khi ông Phan Khôi viết bài đầu tiên, hình như ông có định nghĩa chữ ngự sử văn
đàn. Nó không kênh kiệu như mình tưởng đâu. Hình như ông có thanh minh. Ông
không tự cho mình là người gì cao hơn những người khác đâu. Nhưng mà ông bỏ ra
hàng mấy chục năm trong đời ông, để học viết câu văn tiếng Việt cho có nguyên
tắc, có phương pháp, và theo ông kinh nghiệm, thì nếu chỉ cố gắng bình thường
thôi, ai cũng có thể tránh được những sơ hở quá khả ố. Ta hồi đó và bây giờ vẫn
thế. Ta gặp đầy dẫy trên sách báo, mà nhà trường hình như là cũng không góp công
giải quyết tốt lắm, vì chính các thầy giáo cũng cần có người giáo huấn, chỉ cho
các thầy, đâu là những nguyên tắc về chính tả, đặt câu thế nào là kín hay hở,
què hay không què, thì đây ông Phan Khôi cũng là người ăn ô mai với ngôn ngữ
đấy. Ông chịu không nổi khi thấy người ta biến ô mai thành sỏi đá.
Trong Phụ Nữ Tân Văn có mấy nhà văn trong Nam viết thư phản đối Phan Khôi vì dám
nói rằng: Chính tên của mình còn viết không đúng chính tả thì còn nói gì đến làm
văn hay không làm văn.
À còn cái này mà tôi chưa kịp tìm được là cuốn tiểu thuyết duy nhất của Phan
Khôi. Cuốn Trở Vỏ Lửa Ra, tôi chưa hề thấy nó ở đâu cả.
Về công tác mà Phan Khôi đã nghiên cứu rất nhiều năm, đó là nghiên cứu ngôn ngữ
và văn tự tiếng Việt, sau này đúc kết thành cuốn Việt Ngữ Nghiên Cứu. Cho nên,
khi làm báo, Phan Khôi có phụ trách mục Văn Sử Trên Văn Đàn. Phan Khôi có đăng
từng kỳ, từng kỳ, từ năm 31 trở đi.
TK: Về Vũ Ngọc Phan, lúc nẫy anh có trách là trong cuốn hồi ký, không nhắc đến
Phan Khôi. Có thể là Vũ Ngọc Phan có viết về Phan Khôi mà bị kiểm duyệt hay
không?
TTH: Điều này thì phải điều tra với con cháu Vũ Ngọc Phan còn sống ở Hà Nội, có
ông làm quan chức, sĩ quan gì đó trong quân đội, không phải là hạng nhỏ đâu. Tôi
tiếc rằng mấy lần tôi về làm việc ở Hà Nội, không có dịp gặp những người ấy. Có
một lần, có ai hẹn để gặp cậu con trai, nhưng về sau, giờ chót, thì ông ấy hay
tôi bận, nên cái vụ hẹn đó không thành. Cái này muốn điều tra thì cũng dễ thôi,
trong hồ sơ nhà xuất bản có dấu vết của vụ đó chăng? Tôi thì tôi chỉ tin vào cái
khả năng là ông ấy có viết mà ông ấy bị kiểm duyệt, tôi tin một cách yếu ớt
thôi. Vì tôi muốn nói đến một người, nhẹ tội hơn nhiều là ông Lê Dư, là bố vợ mà
Vũ Ngọc Phan còn không dám viết nữa là, nói gì đến Phan Khôi. Tôi nghĩ rằng ông
Vũ Ngọc Phan tự kiểm duyệt.
Khi người ta đã khiếp sợ rồi, người ta tởn cho đến già, cho đến lúc xuống mồ
người ta vẫn còn run. Đây có lẽ là một trong những điều đáng buồn nhất trong
những điều đáng buồn xẩy ra ở Việt Nam từ những năm 49-50 gì đó. Khi bắt đầu có
rèn cán, chỉnh quân, học tập cán bộ, v.v... thì tất cả những giá trị cao đẹp mà
người yêu nước, anh hùng đã nương theo để đứng dậy năm 44-45, cùng nhau đi kháng
chiến để đuổi giặc ngoại xâm, thì đến cuối năm 49-50 là kết thúc hết cả. Và
người ta thay bằng một cái bảng giá trị mới. Bây giờ, ngày hôm nay, vẫn còn đầu
độc tất cả tinh thần làm việc ở trong nước. Đây là đạo đức cổ truyền -chúng mình
gọi là đạo đức cổ truyền- không có. Người ta thay bằng những cái khác, trong đó
có nhiều cái rất xấu.
Một trong những cái xấu mà người trí thức đã phải học tập, đó là phải biết nhút
nhát, đầu hàng, sợ hãi thì mới sống được. Tôi là người ăn nói có vẻ anh hùng
đấy. Nhưng mà nếu sống ở trong hoàn cảnh với họ, chắc tôi cũng là người đầu hàng
đầu tiên. Vì cái guồng máy này nó nghiến nát, nó không chừa ai cả. Bên Trung
Quốc, người ta đã nói rồi, trong 10 năm đại văn hóa cách mạng từ 66 đến 76, may
là Lỗ Tấn đã chết rồi. Nếu còn sống, ông ấy cũng đi đổ phân ở vùng Tân Cương
đấy, không có ai thoát được đâu. Ông Vũ Ngọc Phan không đến nỗi bị đe dọa đi đổ
phân, nhưng mà khi đã tởn rồi, thì thôi, nhất là sau vụ học tập chỉnh huấn năm
49-50, rồi đến vụ học tập phê phán nọc độc Nhân Văn Giai Phẩm năm 56-57. Tôi nhớ
lờ mờ là hình như có một lần, nhà phê bình Nam Chi, trên báo Diễn Đàn, có nói
khi ông Vũ Ngọc Phan chết, có khen ông ấy một câu đại khái là từ khi cái môi
trường phê bình văn học Việt Nam bị ô nhiễm bởi những giáo điều của Đảng v.v...
thì Vũ Ngọc Phan treo bút, không viết phê bình nữa, và đi vào nghiên cứu
folklore. Câu của ông Nam Chi đã được nhiều người trong nước đọc. Và gần đây,
không nhớ tôi có đọc ở đâu, người ta có cãi lại: Nói như thế là không đúng,
không ai cấm đoán gì ai cả.
Có thể là không ai cấm đoán ra mặt, vì chỉ cần bắt học tập một lần thôi là người
ta tởn suốt đời. Có người chịu không nổi rồi điên lên, mỗi lần bạn bè đến chơi,
cứ chỉ lên trần nhà nói: Chúng nó ngồi trên kia kìa, muốn gì thì viết trên miếng
giấy, tôi đọc xong tôi lại đốt đi. Không những một người như Trần Đức Thảo, mà
qua hồi ký của ông Bảy Trấn, mình thấy, một đảng viên kỳ cựu, một người trong 10
người quan trọng nhất của đảng Cộng Sản Việt Nam là ông Bùi Công Trừng, thì lần
cuối cùng mà ông Bảy Trấn ra thăm ông Bùi Công Trừng, ta thấy ông Bùi Công Trừng
cũng làm những động tác hoàn toàn giống Trần Đức Thảo, chỉ tay lên trần nhà để
nhắc lại: Chúng nó ngồi trên kia kìa, nó đang nghe đây này, và viết cho nhau một
hai câu trên miếng giấy, xong rồi lại châm lửa đốt ngay trên cái hộp đựng tro
tàn. Vậy có lẽ cũng không nên nghiêm khắc quá, khi tôi đã tỏ vẻ bực mình khi nói
về ông Vũ Ngọc Phan hồi đầu buổi nói chuyện này. Có lẽ bây giờ chỉ cầu mong cho
nó qua cho nhanh đi, đến một lúc nào đó, rồi ta lại có quyền làm cái công việc
mà tôi đã nói với Thụy Khuê cách đây 3, 4 năm rồi, đó là đối đãi với văn học như
là văn học. Văn học không phải là cái bung xung cho nhà chính trị đem ra... đá
bóng và cởi trói, và lại trói rồi lại cởi trói.
TK: Những điều anh vừa nói, cũng phù hợp với thực tế, bởi vì chính trong cuốn
hồi ký, Vũ Ngọc Phan đã có những dòng viết về Khái Hưng, Nhất Linh rất tệ.
TTH: Tôi thì tôi rất mong -bây giờ mắt tôi kém, sức tôi yếu rồi- có những người
như Thụy Khuê, có thì giờ, có minh mẫn, đọc những sách mà tôi cũng vừa đọc hay
là mọi người vừa đọc gần đây, để góp phần thêm, ta suy nghĩ qua cái trường hợp
cá nhân của Phan Khôi thôi. Ta suy nghĩ về một thời đại trong thơ văn. Ngày xưa
có cái nhan đề rất hay của Hoài Thanh trong cuốn Thi Nhân Việt Nam, là Một Thời
Đại Trong Thi Ca theo cái nghĩa rất đẹp. Thì một lúc nào đó, chúng ta nên có cái
gì là Một Thời Đại Trong Phê Bình Thơ, Văn, Một Thời Đại Bẩn Thỉu mà tất cả trí
thức ta đã bị chà đạp xuống đáy bùn như thế, để ôn lại một bài học là khi nào mà
không may, chính quyền rơi vào tay kẻ vô học thì văn hóa không ra gì. Đừng trách
riêng một cá nhân nhà văn nào cả. Tất cả đều là nạn nhân, thế thôi.
Có thể là có những mức độ khác nhau, như nghĩ lại về hai nhà thơ lớn của phong
trào Thơ Mới như Xuân Diệu và Huy Cận, thì nếu tôi phải viết đánh giá về hai ông
này, tôi sẽ thấy là Xuân Diệu đáng thương nhiều hơn đáng ghét. Tôi đã quên rồi,
những bài ông ấy viết thời 56-57 về Phan Khôi hay là về ai khác. Tôi có gặp Xuân
Diệu, tôi thấy có nhiều điểm đáng thương hơn. Còn cái ông bạn kia của ông ấy,
ông Huy Cận đó, tôi có gặp nhiều rồi, thì tôi thấy ông này ít điểm đáng thương,
ông này tội nặng hơn. Bây giờ vẫn còn kiên trì đấy. Hôm nọ còn thấy tên Huy Cận
với cái văn kiện gì của Bảo Định Giang tâng công, làm tình báo cho Đảng về những
nhà báo nào, những cuốn sách nào chệch đường, chệch lối. Đó là ta lại tố cáo,
trong đó có tên Huy Cận đó, tên Nguyễn Đình Thi gì đó...
TK: Xin cám ơn anh Tạ Trọng Hiệp.
Thu thanh ngày 10 tháng 7, năm 1996,
tại Gentilly, Pháp, nhà anh Tạ Trọng Hiệp.
Hợp Lưu số 33, tháng 2&3 năm 1997.
|