Thụy Khuê
Sóng từ trường II
Bùi Ngọc Tấn
Chuyện kể năm 2000
Bùi Ngọc Tấn sinh năm 1934 tại
Câu Tử, Hợp Thành, Thủy Nguyên, Hải Phòng.
Ông bắt đầu viết
văn, viết báo từ 1954. Cùng lớp với Lê Bầu, Lê Mạc Lân
(là con của Lê Văn Trương nhưng không bao giờ dám nhắc đến
cha), Vũ Thư Hiên, Nguyên Bình, Vũ Bão... Truyện ngắn đầu
tay gửi dự thi báo Văn Nghệ, Chị Trúc, được Tô Hoài
khen hay, nhưng không được in và cũng không được giải vì
nói đến những mất mát của chiến tranh "hơi quá liều
lượng".
Vào làm phóng viên
báo Tiền Phong, việc kỳ cục đầu tiên ông nhận thấy là
người ta cấm nhà báo viết văn, muốn viết phải chui, viết
văn chui, ký tên khác. Thế hệ ông, nhiều người bạn đã
mắc vòng hệ lụy: như Bùi Minh Quốc, như Vũ Thư Hiên, như
Phù Thăng, như Vũ Bão...
Bùi Ngọc Tấn bị
tù năm năm, mang số CR880, như Hắn, Nguyễn Văn Tuấn, nhân
vật chính trong Chuyện Kể Năm 2000.
Kết thân với Nguyên
Hồng từ những ngày viết văn làm báo tại Hải Phòng.
Bùi Ngọc Tấn rất
gần gụi và quý trọng Nguyên Hồng. Bị đi cải tạo 5 năm
(từ 1968 đến 1972), Bùi Ngọc Tấn im lặng hơn 20 năm (từ
1968 đến 1989). Xuất hiện lại trên tạp chí Cửa Biển, hè
1989, với một bài viết về Nguyên Hồng, sau trở thành tập
hồi ức Một Thời Ðể Mất (NXB Hội Nhà Văn, 1995)
và sau đó là hai tập truyện ngắn: Những Người Rách Việc
(NXB Hà Nội, 1996) và Một Ngày Dài Ðằng Ðẵng.
Ngoài ra, trong Chuyện
Kể Năm 2000, tác giả nói đến hơn ngàn trang pelure bản
thảo chữ nhỏ li ti, bị bắt làm "tang vật cho vụ án",
gồm những tác phẩm: Hải Ðăng, tiểu thuyết; Hoa
Cau, truyện dài; Làn Sóng Thứ Nhất, tiểu thuyết;
Những
Người Ðang Sống, kịch bản phim; Những Chuyện Trên
Một Vùng Cửa Biển, truyện ngắn; Ðầu Cầu, trường
ca; ...
T.K.
|
Năm 2000, tiểu thuyết trở về sau một
thời xa vắng, với những tác giả như Bùi Ngọc Tấn, như
Nguyễn Bình Phương... Báo hiệu sự hồi sinh của văn học
ở thời điểm mà các tác phẩm có giá trị đích thực vẫn
chưa thoát khỏi cuộc giảo nghiệm của tử thần: từ án
treo, đến án chung thân, đôi khi tử hình như trường hợp
Chuyện
Kể Năm 2000 của Bùi Ngọc Tấn: "Ngày
16/3/2000, Bộ Văn Hóa Thông Tin đã ra quyết định số 395/QÐ-BVHTT,
đình chỉ phát hành và thu hồi, tiêu hủy cuốn Chuyện Kể
Năm 2000 của tác giả Bùi Ngọc Tấn" (1)
Như một nghịch lý hợp lý, bản án
trên đây xác quyết những điều Bùi Ngọc Tấn đã viết
về sự lầm than, về những vò xé, xuyên tạc, những chụp
giật, đập phá, ức hiếp của thẩm quyền và thế quyền
trên những con chữ li ti. Mà chữ thì không có khả năng kháng
cự với dùi cui, chúng chỉ là những thực thể tí hon chạy
chơi trên tờ pelure mỏng, làm sao chọi lại những bàn tay
thô bạo, những khối óc vô hồn. chữ là một vi sản trong
các di sản, là kẻ yếu nhất, trong số những nạn nhân hiện
hữu trên đời: khi bị hành hạ, cả đến côn trùng, thảo
mộc, con sâu, con kiến cũng còn có phản ứng, quằn quại
trước khi chết, nhưng chữ thì không. Tuyệt đối không. Dù
bị kết án tử hình, chữ cũng lặng thinh. Bất động.
Nhưng sự im lặng nào cũng đáng ngờ.
Bởi làm thinh cũng là một thái độ. Làm thinh là không chấp.
Làm thinh vì biết, mình, người. Làm thinh vì biết sức mạnh
của mình, rồi mình sẽ sống khi những kẻ hành hạ mình
đã chết, biết được chất vĩnh cửu của những giá trị,
nằm ngoài thô bạo của lịch sử, trên mu muội của con người.
*
Như đường về mê ngục. Như bước
xuống âm ty. Chuyện Kể Năm 2000 mở cửa Goulag Việt
Nam. Một Goulag thâm u, tiền sử, nhuần nhuyễn bản chất Ðông
phương, không sôi nổi bạo tàn, không máu mê tra tấn như
Goulag phương Tây. Ở đây là tịch mịch Á Ðông, là hình
thức toàn trị rất thiền, cái Goulag thầm lặng nhưng vô
cùng hữu hiệu bởi người tù cải tạo đã chết khi còn
đang sống. Ðó là ý nghĩa sâu xa nhất của tác phẩm.
Với Bùi Ngọc Tấn, tiểu thuyết Việt
Nam bước vào một ngõ ngoặt, một giai đoạn mới: Giai đoạn
mà nhà văn (ở trong nước) lại có quyền được in những
tác phẩm nói lên sự thật, biện hộ cho tự do, sau mười
năm bặt vắng. In xong, có thể bị tịch thu liền. Nhưng in
là quan trọng. Là thiết yếu. Bởi đã in là thoát.
Trong gần mười năm, tiểu thuyết
Việt Nam đã trải qua thời kỳ xuyên sa mạc. Sau những Thời
Xa Vắng, những Bên Kia Bờ Ảo Vọng, những Nỗi
Buồn Chiến Tranh, những Bến Không Chồng, v.v... của
thời kỳ đổi mới, văn học trong nước chuyển sang thời
kỳ tụt hậu mười năm: trừ một vài trường hợp hạn hữu
như tác phẩm của Nguyễn Bình Phương, vượt ra ngoài "cõi
đọc" của số đông cho nên không bị thẩm xét gắt gao, hầu
như không có tiểu thuyết giá trị nào được phép ra đời.
Nhiều người nói đến sự tuyệt chủng của tiểu thuyết,
nhưng dường như với bình minh 2000, người đọc có quyền
hy vọng.
Chuyện Kể Năm 2000 của Bùi Ngọc
Tấn xuất hiện như sự trở mình của thần long ngủ trong
lòng biển. Sự trở mình này, trước tiên tùy thuộc ở những
cố gắng và can đảm xuất bản: Nhà Thanh Niên, do Bùi Văn
Ngợi trách nhiệm, chỉ trong hai tháng đầu năm 2000, đã in
ít nhất 3 tác phẩm giá trị. Ðó là Ðối Thoại Sử Học
của nhóm Bùi Thiết (7 sử gia lớp sau) chống lại khuynh hướng
bóp méo lịch sử vì nhu cầu chính trị. Quyển thứ nhì là
tiểu thuyết Chuyện Kể Năm 2000 và thứ ba, tiểu thuyết
Hai
Nhà của Lê Lựu. Ðiều này chứng tỏ khi người làm công
việc xuất bản có lương tâm văn học, những tác phẩm xứng
đáng vẫn được chào đời dĩ nhiên họ đã phải trả giá
rất đắt.
*
Trở về với tác phẩm của Bùi Ngọc
Tấn: Ðây là một tác phẩm có tầm vóc lớn. Vừa ra đời
nó đã là một tác phẩm classique, cổ điển, trong cái nghĩa
đẹp nhất của hai chữ "cổ điển". Cổ điển như
Dịch
Hạch của Camus, bởi nó đã bao trùm lên được nỗi đau
của con người trong thời kỳ Xã Hội Chủ Nghĩa.
Từ trước đến nay, độc giả -nhất
là độc giả ngoài nước- đã được đọc nhiều hồi ký
cải tạo của những người cầm bút ở hai miền Nam Bắc.
Mỗi hồi ký đều nói lên những khía cạnh khác nhau của
đời tù cải tạo. Qua những tác phẩm đó, người đọc biết
được đại cương đời sống trong tù. Nhưng thể hồi ký,
luôn luôn gò bó người viết trong tư thế nhất định của
cái tôi chủ quan nên khó có thể bước vào thế giới mộng
tưởng nghệ thuật. Ở hồi ký, người viết cũng lại gần
như bắt buộc phải đưa ra những việc thực, người thực
nghèo nàn, giết chết khả năng sáng tạo.
Sự lựa chọn thể tiểu thuyết, nơi
Bùi Ngọc Tấn, là một sự lựa chọn độc sáng. Với tiểu
thuyết, nhà văn có thể tung hoành, sống nhiều cái tôi, đứng
trên muôn vàn khía cạnh để rọi những lăng kính khác vào
cuộc đời Goulag.
"Hắn" là Tuấn, Nguyễn Văn Tuấn,
nhân vật chính trong tác phẩm, tù số CR880, là tổng hợp
của nhiều "hắn" khác trong một đời tù. những bạn tù của
hắn, mỗi danh xưng: Già Ðô, Vũ Lượng, A Thềnh, Lê Bá Di,
Triều Phỉ... cũng lại tổng hợp nhiều nhân vật khác trong
nghìn đời tù. những khuôn mặt công an, quản giáo: Ông Trần,
ông Lan, ông Thanh Vân... tiêu biểu những khuôn mặt "có quyền"
dẵm lên con người một cách tùy tiện, tùy theo "ngẫu hứng"
của mình trong cơ chế toàn trị. Do đó, qua câu chuyện của
"Hắn" người ta đọc thấy, không chỉ có những trầm luân
của một Bùi Ngọc Tấn, một Vũ Thư Hiên, những người cùng
trang lứa với Hắn, mà người ta còn nhìn thấy cả một thế
hệ "được đi thực tế" trước "Hắn", những Nguyễn hữu
Ðang, hữu Loan, Trần Dần, Hoàng Cầm, Phùng Quán, Lê Ðạt...
và thế hệ "được cải tạo" sau hắn như Doãn Quốc Sỹ,
Thanh Tâm Tuyền, Vũ Hoàng Chương, Tô Thùy Yên, Cung Trầm Tưởng...
Ðó là những tai ương của người cầm bút, sau Cách Mạng
Tháng Tám.
Bi kịch của "Hắn" chỉ kéo dài có
5 năm.
Bi kịch của những người không-phải-hắn
kéo dài có khi gấp hai, gấp ba nữa. Vậy mà chỉ cần đọc
"Hắn" người ta đã rụng rời, người ta đã được nếm
mùi địa ngục. Bùi Ngọc Tấn viết:
"Bọn hắn
là một lũ tội phạm. Mỗi người một kiểu khác nhau, nhưng
cùng phạm những tội ác với nhân dân, với cách mạng, với
Ðảng. Bọn hắn là địch. Còn nguy hiểm hơn địch. Pháp,
Mỹ, mũi lõ mắt xanh, cầm súng bắn vào nhân dân, ai cũng
nhận ra. Nhưng bọn hắn khó nhận diện hơn, nên càng nguy
hiểm. Tội lỗi ấy không đáng được đối xử như những
con người. Không đáng thở bầu không khí chung với nhân dân.
Không đáng được gọi là người Việt Nam, một dân tộc
anh hùng. Dân tộc xấu hổ vì bọn hắn. Tuy nhiên Ðảng vẫn
tin tưởng ở cái phần người còn lại trong mỗi kẻ bọn
hắn. Ðảng nhen nhúm chút phần còn sót lại ấy. Và bọn
hắn được đối xử đúng như vậy. Con trâu cày, con lợn
giống còn được các ông quản giáo vỗ về, vuốt ve, tình
cảm. Bọn hắn, không ai dám mơ tưởng đến hạnh phúc lớn
lao ấy. Một lời động viên thông cảm cũng không dám màng.
Không được như những cây rau. Luống rau cải bắp, luống
rau muống có sâu, hắn phải đem bình vô-pha-tốc ra xịt ngay.
(Bọn hắn ốm thử đi xin viên thuốc ở chỗ ông Chắn, công
an y tá xem) Gặp ai cũng phải gọi là ông, là bà. Gặp bà
công an kế toán bế con trai lên bốn đi chơi, là phải kính
cẩn:
- Bà với ông đi chơi ạ!"
(Quyển I, NXB Thanh Niên, 2000, trang 88-89)
"Bọn hắn" là những ai? Là những kẻ
mang tội danh "tuyên truyền phản cách mạng", những kẻ
được liệt vào thành phần phản động, những kẻ bị quy
kết là bôi đen chế độ. Tóm lại là những tù chính trị,
công giáo có, nhà văn có, nhà báo có, cộng có, ngụy có,
Việt kiều có, nông dân có... tất cả được giam chung với
tù hình sự, đảo ngũ, trộm cắp, giết người... Chỉ khác
là tù hình sự thì có án rõ ràng, 5 năm, 7 năm, 10 năm... Còn
tù chính trị, tù tư tưởng là tù không án tức là không
biết được ngày về, không biết được tội trạng của
mình, được gọi bằng những chữ đẹp đẽ nhẹ nhàng: đi
"tập trung học tập cải tạo" chứ không phải đi tù.
Hành trình "cải tạo" đã có bao nhiêu
ngàn người trải qua? Không ai biết được. Khi Hắn được
tha, đi trên đường phố Hà Nội, Hắn đã nhận thấy những
khuôn mặt quen quen, tất nhiên đây chỉ là ảo tưởng của
Hắn. Nhưng một ảo tưởng gắn liền với sự thật: những
khuôn mặt tù hàng ngày diễn qua quãng đời năm năm của Hắn,
cứ 1000 khuôn mặt ấy (trại của Hắn giam độ 1000 người)
nhân lên với gần 2000 ngày tù là đủ có một thế giới
hai triệu khuôn mặt tù. Ấy là chưa kể những khuôn mặt
nằm ngoài phạm vi "nhìn thấy" của Hắn, ở những trại khác,
ở những thời điểm khác.
Không thể biết được bao nhiêu người
đã sống đời Goulag Việt Nam, nhưng qua câu chuyện kể năm
2000 của Hắn, của tù nhân mang số CR880, thì tất cả những
hạng sous-homme "dưới người" như Hắn, không phải là ít.
Và hầu như tất cả tầng lớp nô lệ hiện đại này đều
phải trải qua một giai đoạn mấu chốt: Ðó là sự tàn phá
con người -sau Goulag- và Hắn buồn rầu nhận thấy: "Mình
đã bị tiêu diệt. Tiêu diệt hoàn toàn."
Cái khác nhau giữa "nô lệ tiền sử",
"nô lệ phong kiến" và "nô lệ hiện đại" là ở hai thời
kỳ đầu, sự chiếm hữu nô lệ xẩy ra giữa những bộ tộc
khác nhau, ở những giai cấp khác nhau, mà thường là bộ tộc
mạnh đàn áp yếu, giai cấp giàu bóc lột nghèo. Ở hình thức
"nô lệ hiện đại", những người bị giáng xuống hạng dưới
người, thường là những văn nghệ sĩ, những trí thức, những
nhà tư tưởng... thành phần élite của xã hội. Và đó là
bi kịch thời hiện đại, của những nhà nước chủ trương
tiêu diệt thành phần ưu tú của đất nước bằng tính ưu
việt của Goulag.
*
Chín trăm trang sách, đúc kết một
đời người, nhiều đời người trong một. Ðây không chỉ
là chuyện tù ngục, lưu đầy. Ðây là những mảnh đời bị
xé nát, trù ếm, dẫm đạp của người tù và của cả những
người không-bị-tù, tức là những người có tương quan bạn
hữu, máu mủ, thân thiết nhất với người tù.
Ðây là cuốn sách viết về tình yêu,
lòng nhân ái, viết về sự thủy chung, về sự phản bội,
về nhân phẩm, về tự do, về nhân bản. Một cuốn sách trùm
phủ lên những đề tài muôn thuở về con người. Nhưng có
lẽ điểm độc đáo nhất là người viết, ở đây, đã trực
tiếp nhận trách nhiệm của mình trong sự tác thành cái guồng
máy chuyên chính toàn trị đã nghiền nát mình. Và có lẽ
đó là chỗ lớn lao nhất của tác phẩm: Vấn đề trách nhiệm.
Nếu tất cả mọi người đều nhìn
nhận trách nhiệm của mình, không dựa vào Bác, không dựa
vào Ðảng, vì "Bác-Ðảng" thực ra chỉ là cái cớ, những
hư danh hay những thực thể không thể sờ mó được. Bởi
vì Bác, một người đã khuất cách đây hơn 30 năm, và Ðảng,
một tổ chức do các đảng viên dựng lên, không thể trách
nhiệm thay cho những người đã và đang tích cực góp phần
xây dựng vào sự v"ng vàng của guồng máy chuyên chính còn
được gọi là Ðảng: Bao giờ trách nhiệm cũng về phía con
người. những người đang sống. Trong những hàng cuối của
cuốn tiểu thuyết, Bùi Ngọc Tấn đã viết rất sâu sắc
về cái quyền uy vô hình, đè nặng lên mỗi cá nhân:
"Ai cũng có
một người vô hình để mà trình bày, để mà sợ sệt và
thầm cãi lại. Người vô hình luôn bên cạnh mỗi người
như hình với bóng, cả trong giấc ngủ. Nhưng thật ít người
dám vùng lên chống lại, vì cái giá trị phải trả thường
là cuộc đời, là sinh mạng."
Cái người vô hình mà Bùi Ngọc Tấn nói đến ở đây,
phải chăng chính là con khủng long toàn trị mà mỗi cá nhân,
trong đó có Hắn, đã góp phần tạo ra, dinh dưỡng để nó
nghiền nát chính mình?
*
Bùi Ngọc Tấn bắt đầu viết từ
tháng 6/1990 đến 30/11/91 hoàn tất Chuyện Kể Năm 2000.
Bản thảo được xem lại lần cuối vào tháng 8/98. Theo giới
thân cận tác giả, tác phẩm đã được viết lại nhiều
lần trong 9 năm qua, điều đó giải thích phần nào khía cạnh
nung nấu, chín mùi về mặt cấu trúc hình thức cũng như nội
dung văn bản.
Chuyện Kể Năm 2000 là một tự
truyện. Nhiều nhân vật vẫn gi" tên thật, tác giả đổi
một vài tên đã xuất hiện trong tập hồi ức văn học Một
Thời Ðể Mất (2). Bùi Ngọc Tấn rất gần gụi và quý
trọng sự nhìn xuống những người dưới đáy của Nguyên
Hồng trong Bỉ Vỏ. Một Thời Ðể Mất chủ yếu viết
về Nguyên Hồng, nhưng qua đó người đọc có thể biết rõ
về môi trường sinh hoạt văn học của lớp người cùng lứa
tuổi với tác giả và nhất là về không khí sáng tác theo
"đúng
đường lối của Ðảng" thời 1960-65; Một Thời Ðể
Mất cũng cho biết sơ lược nội dung những tác phẩm khác
của Bùi Ngọc Tấn mà sau này, trong Chuyện Kể Năm 2000
tác giả nói rõ hơn: Ðó là độ khoảng hơn 1000 trang pelure,
chữ nhỏ li ti, sản phẩm của 15 năm lao động tinh thần đã
bị tịch thu, bị đem ra mổ xẻ và không bao giờ trả lại,
trong đó có tập nhật ký ghi những tâm tư thầm kín nhất
của tác giả.
Ở tập trường ca Ðầu Cầu,
sáng tác những năm 60, đã thấy những tín hiệu của một
nhà văn nhìn xuống đáy, tìm đến nỗi đau thực của con
người trong chiến tranh, âm thầm phản đối chiến tranh và
những hồi còi lệnh giục giã lên đường:
[...] Ðầu cầu xe về
Nước sôi trong két
Anh lái xe mắt xếch
Tắt máy chờ qua sông
Ðầu gục vô lăng
Tranh thủ
Ngủ
Giấc ngủ treo bao ngày đêm mỏi
rời mi mắt
Giấc ngủ đợi chờ vụt biến
đi đâu
Khi đến đây đầu cầu,
Ðáy vực không gian sâu thăm thẳm,
Sương rơi nắp ca-pô
Sương rỏ giọt ngoằn nghèo kính
cửa,
Sương Hải Phòng ướt bụi Trường
Sơn,
Sương buông thanh bình như ngàn năm trước
sương buông
Anh lái xe, dựa vô lăng nghe đất
trời yên lặng.
Nghe máu mình khe khẽ thái dương.
Dốc cầu
Còi.
Hiệu lệnh
Lên đường!
(Một Thời Ðể Mất, NXB Hội Nhà Văn, 1995, trang
105)
*
Chuyện Kể Năm 2000 là một
tác phẩm nhìn xuống những người dưới đáy ngục bằng
cách giao hòa hai yếu tố: Thực tại và mộng du. Thực tại
trong tù và mộng du ngoài tù.
Tác phẩm ban đầu có tên là Mộng
Du. Mộng du là hình thức tự do trong trạng thái nguyên thủy
và là cơ nguyên của sáng tạo.
Cấu trúc tiểu thuyết của Bùi Ngọc
Tấn là sự giao thoa giữa tù ngục và tự do, làm bật ra những
nét tương phản giữa tự do và tù ngục. Sự giao thoa này
đưa đến những nhận xét kinh hoàng: Con người, một khi đã
bị cải tạo thì mùi vị tù ngục sẽ pha vào óc, vào máu,
biến chứng trở thành những chấn thương nội tại, và khi
ra khỏi ngục, Hắn -kẻ bị tù- sẽ không thể rửa được
óc, máu của mình. Hắn vẫn tiếp tục sống với những người
bạn tù cùng khổ, trong một cõi mộng du khác. Cũng như, trong
khi ở tù, chính cõi mộng du đó, đã tiếp máu, đã hồi sinh
hắn, cho hắn sống với người thân tại ngoại.
*
Ðiểm quan yếu của tác phẩm là nói
lên cái nội dung cải tạo như người ta đã nói mà chưa từng
nói như thế bao giờ.
Nội dung đầu tiên của cải tạo
nhằm việc triệt hạ nhân phẩm: Hạ nhục người tù xuống
mức độ dưới người. Gặp bà công an bế con trai lên bốn
đi chơi, là phải kính cẩn: Bà với ông đi chơi ạ! Nhất
cử nhất động phải xin phép: Báo cáo ông, tôi, Lê Bá Di,
tù số 127 vào nhà mét đi đái. Tính cách đối xử này phản
ánh một trạng thái cực kỳ khôi hài: Gậy ông lại đập
lưng ông, ngay trong lời xin phép đi đái, hoặc gọi mẹ, con
bằng bà và ông: mẹ con trở thành đồng hạng. Tác giả chỉ
thuật, không bình, nhưng cái ngôn ng" trần trụi ấy đã nói
lên bản chất phi lý, phi nhân, tức cười và vô giáo dục
trong nội dung cải tạo.
Ngoài việc triệt hạ nhân phẩm qua
cách đối xử, cải tạo còn sử dụng hai vũ khí khác để
triệt hạ con người, đó là Ðói và Thời gian.
Ngoài công việc khổ sai thứ nhất
như gánh phân, bốc bùn, xẻ nứa, làm rẫy, v.v... còn có Ðói.
Ðói là khổ sai thứ nhì. Ðói đến vồ được thứ gì cũng
nhét vào miệng: từ con ếch, con nhái, con dế, con chuột, đến
quả ớt, lá ráy... A Thềnh chết vì ăn cắp ớt. Ðói triền
miên. Ðói trong lúc ăn. Ðói trong lúc ngủ. Ðói là sự triệt
hạ nhân phẩm bằng đường thực phẩm. Ðói khiến tù phải
hạ mình, phải tố giác nhau vì miếng ăn. Tiếng chim "khó
khăn", "khắc phục", "còn khổ", tiếng chim "ối con ơi!" cất
lên như tiếng định mệnh của người tù dội về từ kiếp
khác.
Nhưng yếu tố ghê gớm hơn cả vẫn
là thời gian: Thời gian vô định của người tù cải tạo,
người tù tư tưởng. Không có ngày về. Không biết ngày về.
Cái thời gian tàn bạo này có thể giết người không gươm
giáo.
Ðối diện với những phần tử triệt
hạ con người, Ðói và Thời gian, có một liều thuốc hồi
sinh: đó là Mộng du. Mộng du còn là sáng tạo. Mộng du về
với người thân yêu, về với người yêu, cõi mộng du ấy
đã giúp người tù sống được trong cõi chết. Ðời tù chia
hẳn thành hai lãnh vực: Lãnh vực thực tế, hiện tại, khổ
sai, đói rét và nhục nhã. Và lãnh vực yêu thương là những
phút "mặc niệm người thân", lấy chút dưỡng khí của
tình yêu, của gia đình, tiếp vào khí quản:
Ðầu gối lên cùm sắt gỉ
han
Nghĩ tóc em xanh mười chín tuổi
Mái sương đêm những vì sao Hà
Nội
Trong nhật ký anh.
Tóc em xanh trang nhật ký
Trong hồ sơ mật an ninh
Cả đến tình yêu chúng ta cũng
bị nhục hình
Cắn răng lại, em ơi, đừng khóc.
(Quyển I, trang 187)
Khi người vợ "góa sống"
vượt đồi núi, vượt đạn bom, đến thăm chồng "Em đem
suốt nghìn đêm thương nhớ lại" và "Anh giết dần
từng giây địa ngục chờ em". Chính cõi mộng du đã cứu
sống người nghệ sĩ. Cung Trầm Tưởng cũng nói như vậy:
Nếu
không có nó -tức mộng du, sáng tạo- thì tôi đã tự
tử rồi.
Mộng du giúp Bùi Ngọc Tấn sống lại
những giờ phút thiêng liêng nhất của cuộc đời: sống hoang
toàng, xả láng với hạnh phúc, từ những nhục cảm đầu
đời, đến những giây phút cực cùng với bạn tù trong cõi
chết.
*
Và cũng chính cõi mộng du ấy đã triệt
hạ con người sau Goulag. Nó bắt người tù được thả, phải
trở lại với thế giới trong tù, với những người bạn
còn đang dưới đáy, nó là một thứ lương tâm nhân loại,
tàn ác không thể loại trừ, nó theo đuổi con người như
một bóng ma. những người đã thoát ngục, không thể nào
quên được những bộ xương còn nằm dưới đáy ngục, chính
cái lương tâm nhân loại ấy đã dấy lên, đã bắt Bùi Ngọc
Tấn phải viết, phải làm chứng cho những linh hồn oan khuất,
đã vội sớm ra đi, không kịp để lại bút tích về sự
hiện hữu của chính mình.
Bùi Ngọc Tấn dùng tâm, não, xương,
thịt, đời tù của mình để tạo ra tác phẩm. Trọng lượng
cây thánh giá của người tù trên đường hành hương vào
cõi chết đã được tác giả mổ xẻ, cân đo, phân chất
đến cội nguồn của cội nguồn, gốc gác của gốc gác.
Ngay từ khi nghe lời tuyên bố "lịch
sử": "Anh Nguyễn Văn Tuấn, hôm nay chúng tôi đến bắt
anh đây", rồi qua những cửa ải đầu tiên mà Bùi Ngọc
Tấn gọi là bản dạo đầu, là xà lim, rồi cung vấn Nguyễn
Văn Tuấn, rồi lại xà lim, chờ đợi nhận tội. Anh không
nhận đã có thời gian: Anh không nhận chúng tôi cứ chờ.
Chúng tôi kiên trì, chúng tôi có thời gian hậu thuẫn. Cái
thứ thời gian ác ôn, chôn vùi hàng vạn đời người trong
lòng ngục.
*
Bữa bún chả đầu tiên, ngoài tù,
do Mạc bán máu lấy tiền khoản đãi "Chúng
tao không dám nói. Sợ mày khinh, ăn không ngon. Sợ nghĩ là
mày ăn thịt nó. Nó bán máu và bán luôn cả cái phiếu đậu
bồi dưỡng." (Quyển I, trang 201)
Từ đây bắt đầu cuộc đời "tại
ngoại".
"Tại ngoại", người tù trở
thành một thứ "phó dân".
Xã hội tại ngoại, dường như còn
tanh tưởi, vấy máu hơn xã hội trong tù.
"Thịt chỉ bán cho những
người bán máu. Hắn về tay không và nghĩ đến Vũ Mạc. Thịt
hiếm thế này Vũ Mạc kiếm được đây. Mạc bán máu và
bao giờ cũng bán nốt mọi thứ phiếu bồi dưỡng."
(Quyển II, trang 77)
Xã hội tại ngoại không dung những thứ
phó dân như già Ðô, như Giang, như Tuấn... Hệ thống công
an như một con mắt khổng lồ vô hình, vẫn tiếp tục chõ
vào cuộc đời của người tù được thả cũng như đã từng
soi sáng hết cả huyệt lộ cuộc đời những người thân,
bạn thân của tù, như Bình. "Bình bàng hoàng
khi biết mình có đuôi [...] Anh ngửi thấy cái mùi của nhà
tù. Anh bắt đầu biết anh bị theo dõi vào một buổi chiều
thứ bẩy [...]
Anh sôi lên vì sợ hãi, tuyệt vọng.
Và có cảm giác của một con thú bị nhốt trong chuồng, lồng
lộn nhưng không sao thoát được. Thì ra họ có toàn quyền
làm những việc họ thích. Họ huy động cả guồng máy khổng
lồ để hại mình. Ðạp xe đi, anh cứ thấy vương vướng
ở phía sau lưng. Dinh dính ở gáy. Một cảm giác lạnh ở
phía sau. Và bẩn. Và dính. Anh thở dài." (Quyển
I, trang 460-461)
"Anh biết anh chưa bị bắt thôi
chứ anh đã mất tự do rồi. Không thể gọi là tự do khi
mình đi đâu, làm gì (kể cả đi đái), gặp ai, trò truyện
bao lâu, cũng có người quan sát và ghi sổ "Ðối tượng P2
về thăm con. Không đi la cà các nhà hàng xóm. Ngủ ở nhà
...". Vì chắc anh cũng phải có một con số bí. Nhưng không
biết họ đặt cho anh số bí gì nhỉ? P2 hay A18. Hay T5? Thật
là một trò chơi chết người. Và thật buồn là mình lại
ở trong vòng chơi đó [...]
Anh uống trà với chú em mà không
biết mình uống gì. Anh đang nghĩ đến những cái đuôi. Cẩn
thận thật. những hai cái đuôi." (Quyển I, trang
462-463)
Cái cảm giác trên đây của Bình, không
ít người đả trải qua. Ðó là cảm giác dinh dính ở gáy.
Một cảm giác lạnh ở phía sau. Lạnh. Và bẩn. Và dính. Bùi
Ngọc Tấn đã đi đến ngọn nguồn cảm giác của kẻ thấy
mình có đuôi. Cảm giác dinh dính này trong thơ Ðặng Ðình
Hưng có nhắc đến, nhưng dùng trong một hình tượng khác:
Kẻ bị theo dõi thấy chân dinh dính dưới đất, và hắn đi
vòng con số 8 lộn ngược. Ðặng Ðình Hưng đưa ra một hình
tượng tù ngục khác của nhà thơ. Biệt tài của nhà văn,
nhà thơ là họ có thể chỉ dùng vài chữ ngắn gọn, nhỏ
bé để bất tử hóa một hiện tượng rộng lớn, bao trùm
xã hội. Hiện tượng bị công an theo dõi dường như ai cũng
đã trải qua khi đặt chân lên đất Việt, nhưng ghi lại cái
cảm tường Dinh dính. Lạnh. Và Bẩn thì chỉ có những ngòi
bút biệt tài mới chụp được để đưa nó vào cõi bất
tử.
Với một bút pháp như thế, những
khuôn mặt như già Ðô, Triều Phỉ, Sáng, Giang, A Thềnh, Lê
Bá Di, Vũ Lượng... đã được nhà văn khắc tạc trong hang
đá của thời gian, dù họ đã suối vàng hay còn trần thế,
những chân dung của họ đã đi vào lịch sử, không phải
lịch sử tầm thường của đời sống, cũng không phải lịch
sử khốc liệt của chiến tranh, mà là lịch sử chữ, lịch
sử văn hóa của con người.
Vì những già Ðô, những Triều Phỉ,
những Sáng, những Giang... mà Hắn, nhà văn, phải viết, Hắn
bắt buộc phải tự do. Nếu không có tự do hắn cũng phải
sáng tạo ra tự do để viết. Viết về nỗi đau của những
người đã nằm xuống. Viết về nỗi đau của một người
và cũng là nỗi đau của dân tộc, của loài người. Ðó là
vấn đề trách nhiệm và nhân cách của hắn, nhà văn.
Chú thích
(1). Ðây là nguyên văn của nghị quyết: "Ngày
16/3/2000, Bộ Văn Hóa Thông Tin đã ra quyết định số 395/QÐ-BVHTT,
đình chỉ phát hành và thu hồi, tiêu hủy cuốn Chuyện
Kể Năm 2000 của tác giả Bùi Ngọc Tấn do nhà xuất bản
Thanh Niên xuất bản vì đã vi phạm khoản 1 và 2, điều 33,
luật xuất bản. Ðiểm 1, điều 3, quy chế lưu chiểu xuất
bản phẩm của Bộ Văn Hóa Thông Tin (số 01/1998 QÐ-BVHTT ngày
30/7/1998). Ðiều 8 quy chế liên doanh về in và phát hành xuất
bản phẩm của Bộ Văn Hóa Thông Tin (số 75/1999 QÐ-BVHTT ngày
8/11/1999). Cũng theo quyết định này, Ban Bí Thư Trung Ương
Ðoàn Thanh Niên Cộng Sản Hồ Chí Minh, cơ quan chủ quản Nhà
Xuất Bản Thanh Niên có hình thức kỷ luật nghiêm khắc Ban
Giám Ðốc Nhà Xuất Bản Thanh Niên và những người có liên
quan trong việc xuất bản và phát hành cuốn Chuyện Kể
Năm 2000." (trích báo Tin Tức số ra ngày 17/3/2000)
(2). Nxb Hội Nhà Văn, Hà Nội 1995
© 1995-1-2001 Thụy Khuê