Thụy Khuê Sóng từ trường II
Hiện tượng Bùi Giáng
Sinh thời, Bùi Giáng bảo: "Hãy để cho tôi yên, tôi dại. Ðừng ai nói đến tôi. Và nhất là đừng có ai bàn đến thơ tôi ." (1) Có lẽ vì tôn trọng nhà thơ, cho nên ít ai bàn đến thơ ông (2). Ca tụng Bùi Giáng thì nhiều, nhưng phê bình Bùi Giáng thì ít. Như thơ, Bùi Giáng sống tiêu dao suốt cõi mù sa bên rừng, cả đời lục bát. Tại sao lục bát? Lục bát bởi vì, đối với Bùi Giáng: "Lục bát Việt Nam là cõi thi ca hoằng viễn nhất, kỳ ảo nhất của năm châu bốn biển, ba bẩy sông hồ." (3) Ðó là lộng ngôn Bùi Giáng. Về bản thân mình, Bùi Giáng tự họa: "Nhe răng cười trong bóng tối... Không bao giờ bắt chuồn chuồn mà cứ bảo rằng mình luôn luôn bắt chuồn chuồn... Không thiết chi đọc sách mà vẫn cặm cụi đọc sách hoài... Chán chường thi ca mà cứ làm thơ hoài... Chuốc sầu vạn đại thì bảo rằng mua vui cũng được một vài trống canh." (4) Ðó là mâu thuẫn Bùi Giáng. Hỏi về tiểu sử, Bùi Giáng trả lời:
Vẫn theo lời Mai Thảo, ông Thanh Tuệ, giám đốc nhà xuất bản An Tiêm, thuật lại: "Ảnh lang thang suốt ngày, chẳng thấy lúc nào ngồi viết hết. La cà hết nơi này đến nơi khác, uống rượu say ngất rồi về lầu lăn ra sàn ngủ, nhiều ngày bỏ cả bữa ăn. Ðêm cũng không thức, chỗ nằm tối thẳm. Tôi in không kịp, nói ảnh tạm ngừng thì ảnh ngừng. Nói có máy, có giấy, nói buổi sáng, buổi chiều ảnh đã tới ném bịch xuống cả năm bẩy trăm trang. Cứ thế đem sắp chữ thôi, đâu có thì giờ đọc." Mai Thảo kể tiếp, khi làm số Văn, đặc biệt về Bùi Giáng: "Tôi hỏi xin ông những bài thơ mới nhất. Ông gật. Tưởng lấy ở túi vải ra. Hoặc nói về lấy, hoặc nói hôm sau. Tất cả đều không đúng. Ông hỏi mượn một cây bút, xin một xấp giấy, một chai bia lớn nữa, đoạn ngồi xuống và trước sự kinh ngạc cực điểm của chúng tôi, bắt đầu tại chỗ làm thơ [...] Lần đầu tiên tôi thấy Bùi Giáng viết, thoăn thoắt, vùn vụt, nhanh không thể tả. Như thơ không thể từ đầu, từ tim chảy xuống, xa quá, lâu quá, mà ngay từ ngọn bút, từ đầu ngón thôi [...] Lần đó, tôi đã thấy, đã hiểu tại sao Bùi Giáng, cứ cánh bướm rong chơi, cứ phiêu bồng lãng du mà vẫn có ngay nghìn câu một buổi." Về những cơn điên Bùi Giáng, Phạm Xuân Ðài kể trong lời tựa tập Thơ Bùi Giáng (5): "Chỉ có thơ và những cơn điên [...] Bây giờ (năm 1992) anh ít làm thơ lắm, còn các cơn điên thì vẫn viếng thăm anh gần như định kỳ. Những lúc ấy anh đi nhiều nơi, nhưng thường xuất hiện ở vùng chợ Trương Minh Giảng (chỗ Ðại Học Vạn Hạnh, là nơi ngày xưa anh thường trú ngụ) đứng giữa đường vung tay, điều khiển xe cộ, cử chỉ rất linh động, đặc biệt đôi mắt sáng quắc bừng bừng [...] Có khi anh múa may trong một lớp áo lòe loẹt, động tác mạnh mẽ chính xác gần như múa võ, miệng hò hét như đang nạt nộ với một đối tượng vô hình." Ðó là hiện tượng Bùi Giáng, qua lời
kể của những người thân trong giới văn học.
*
*
Chúng ta thử tìm hiểu bản chất của kỷ lục ấy qua một vài trang sách của Bùi Giáng trong Con Ðường Ngả Ba Bước Ði Của Tư Tưởng, do An Tiêm xuất bản lần thứ nhất tại Sài gòn năm 1972, và tái bản tại hải ngoại. Có thể nói trong cuốn sách này, cái gọi là điên của Bùi Giáng phát hiện rõ rệt dưới hình thức loạn ngôn, ngộ chữ cao độ. Về Heidegger, Bùi Giáng viết: "Tất cả con đường tư tưởng của Heidegger là mọi lối nhiếp dẫn bước đi về những vùng u kín trong cổ lục uyên nguyên." (trang 13) Về Nietzsche, ông viết: "Nietzsche không phải là đại hải đại dương. Nietzsche đã đón vào lòng mình một dòng sông dơ bẩn. Và từ đó? Từ đó, Nietzsche biến thành một loại người mạt hậu theo mọi nghĩa thái thậm ly kỳ. Con người mạt hậu và hư vô chủ nghĩa, con người mạt hậu và sa mạc tinh hoa, con người mạt hậu và Mạt Hậu "Tử Sinh Môn" Hoạt Tinh Thể, con người mạt hậu và Siêu Hình Học Lãnh Ðịa, con người mạt hậu và Ðịnh Mệnh Phối Tiết Sử Lịch Tồn Lưu, Ðịnh Mệnh Phối Tiết Sử Lịch Tồn Lưu và Siêu Hình Học theo nghĩa Sử Lịch chân lý của Hiện Thể như là Hiện Thể, Sử Lịch chân lý của Hiện Thể và Ðịnh Mệnh Tồn Lưu thoái tàng ư mật, Tồn Lưu thoái tàng ư mật và Hằng Thể bước vào vòng di vong trầm một, từ di vong trầm một, còn chút hậu tình ân ốc nào sẽ "trột mầm" cho một trận Dịch Chuyển thông hành của Ðịnh Mệnh hay không? hay là Siêu Hình Học vẫn mãi mãi kiên trì tồn lập trong cuộc đù đỡn "trệ lưu ư ngoại" bất khả tư nghì khuyết phạp từ Hoạt Tinh Thể của Hư Vô? ..." (trang 17) Và cứ như thế, Bùi Giáng sản
xuất 499 trang Con Ðường Ngả Ba, Bước Ði Của Tư Tưởng.
Ðiểm thích thú nhất của người đọc
trong cuốn sách này là những trích đoạn thơ Bùi Giáng, phần
lớn là những câu thơ hay, tỏa ra những suy tư sâu lắng về
bản chất con người.
Dù đặc sệt những tên tuổi triết
gia, nặng ký trích dẫn thiên kinh, vạn điển, dù có một
số ý trội lên về vấn đề đọc sách, đọc Nguyễn Du,
đọc Bùi Giáng, về sự gặp gỡ giữa những nhà tư tưởng
lớn, đả kích một số nhà xuất bản không tôn trọng văn
bản của tác giả, Con Ðường Ngả Ba vẫn không phải
là cuốn sách bàn về triết học, hoặc đưa ra một hệ thống
tư tưởng mạch lạc; mà có thể nói đây chỉ là cuốn
phiếm luận bí hiểm, ngôn ngữ thần chú, nhại triết học,
nhạo người đọc. Cho nên khi Tạ Tỵ viết: "Bùi Giáng
đối thoại với Nietzsche, Sophocle, Parménide, Khổng Tử, Lão
Tử, Sartre, Camus..." thì e rằng Tạ Tỵ quá lời. Sự
tìm kiếm siêu hình nơi Bùi Giáng, như chỉ dừng ở phần
vỏ của ngôn từ: tồn sinh, tồn lưu, hằng thể, hư vô, logos,
... mà không đi vào nội tâm của suy tưởng. Hoặc có lẽ
Bùi Giáng chỉ muốn rỡn chơi. Nếu ông có nhắc tới Như
Lai, Bồ Tát, Heidegger, Parménide, Platon, Socrate cũng chỉ như
ông nói đến Nam Phương Hoàng Hậu, Dương Quý Phi, Marilyn Monroe,
đười ươi, chuồn chuồn, châu chấu v.v... vậy thôi, trong
một trạng thái "tẩu hỏa nhập ma", một tinh thần anarchiste
toàn diện. Một "người phá", để nói theo ngôn ngữ Trần
Dần. "Người phá" trong cái nghĩa tiêu cực của nó, chứ không
phải trong cái nghĩa sáng tạo, ít nhất là ở cuốn sách Con
Ðường Ngả Ba.
Phải chăng Bùi Giáng chỉ muốn "hù dọa" người đọc không chuyên môn? Hay ông muốn nhại, diễu, những hệ thống suy tưởng mà một số trí thức quen dùng như mẫu mực hoạt động tinh thần? Biến chúng thành một thứ charabia, ngôn ngữ vấn đáp chuồn chuồn, châu chấu, nói trẹ, nói xàm, nói bá láp và ông có khả năng sản xuất mỗi ngày vài trăm trang như thế? Thái độ anarchiste toàn diện này mở rộng trong đời sống, trở thành một bản năng phản kháng quẫy đời: Cởi quần áo giữa lớp học, tắm nơi công cộng, ngủ vỉa hè, trở thành clochard (hành khất say rượu), mặc áo rằn ri lính ngụy, để chỉ đường..., tất cả những "cơn điên" ấy của Bùi Giáng chứng minh sự sáng suốt của một Bùi Giáng không điên. Không điên vì ông chỉ đẩy đến
cùng trạng thái hiện sinh, chứng nghiệm ý thức trần trụi
về bản thể. Cởi dần năm bẩy lớp quần áo chẳng qua chỉ
là hình ảnh "rút gọn hiện tượng", bóc vỏ các tầng lớp
bề ngoài của "hiện tượng" để tìm ra bản chất trong hiện
tượng luận Husserl.
Trong những đệ tử của hiện sinh
thời ấy, Bùi Giáng là người đi xa nhất trong hành động
tự hủy và hành xác. Tự hủy để chứng minh: Cá nhân con
người đã chán ngấy cuộc sống, nó có một quyết định
tự do lựa chọn, và sự hủy hoại bản thân là sự lựa
chọn tiến gần nhất đến tự do tuyệt đối.
Bùi Giáng là người ngoại đạo duy
nhất dám làm lũng đoạn môi trường ổn định bằng thái
độ tự hủy. Cái điên của Bùi Giáng là cái điên sáng suốt
trong một tình thế không có cứu cánh nào khác nếu
không tìm về bản thể của con người.
Thơ Bùi Giáng, hiện sinh
trong đoạn trường và định mệnh
Những "dạ thưa", những "tồn sinh", những "phố thị", những "cố quận", "đười ươi", đã trở thành những cốt cách, những địa chỉ rất Bùi Giáng:
Thơ Bùi Giáng, ngay từ thuở đầu đã rong chơi, lãng mạn, đã tinh nghịch, nhẹ nhàng, hóm hỉnh, luôn luôn là những lời vấn đáp lẩn thẩn về ý nghĩa cuộc đời, về lẽ tồn sinh, về những chuyện phù du, dâu bể, ẩn khuất một dục tình khép mở Xuân Hương:
hoặc:
Những dòng thơ trên đây, theo như lời Mai Thảo, Bùi Giáng đã làm một mạch, tại chỗ, xuất bút thành thơ. Huyền thoại Bùi Giáng, thi sĩ bẩm sinh, poète né, trong thập niên 60-70, được xác định như một hiện tượng văn học độc đáo. Như thể ông đã biết trước đường đi nước bước của thơ. Có khả năng thiên bẩm về sự lang thang ngơ ngẩn của chữ trên đời, và chỉ cần huơ tay, bắt chúng, nhốt vào câu lục bát, như Bình Nguyên Lộc "nhốt gió", là có ngay thơ Bùi Giáng:
hay:
Bốn câu tự họa trên đây dường như
đã gói trọn bản chất thơ ca và tư tưởng Bùi Giáng. Một
bản chất đa mang nỗi hiện sinh hoang tưởng trong một "đạo
khờ" gắn bó với đoạn trường tái tân thanh (chữ
của Bùi Giáng) tiếp nhận Nguyễn Du như một thông đạo,
thông thư, thông mệnh văn học.
Bùi Giáng có những câu thơ rất cao, rất tĩnh, rất sâu, thanh thản, gợi đến hư vô trong một không gian lãng mạn trữ tình, ít thấy xuất hiện trong thơ Việt.
Không gian Bùi Giáng, một cõi hư không đầy dấu hỏi, bồng bế nhau đi, năm này qua tháng khác, một cõi trùng sinh, di động luân hồi.
Từ Nguyễn Du, Bùi Giáng trích tạo nên một mô típ bạc mệnh hiện đại, mầu sắc siêu thực, tài tử và tài hoa, một chất thơ giao thoa Nguyễn Du Bùi Giáng
Nơi Bùi Giáng còn một mô típ bạc mệnh, cuồng khất, tổng hợp đoạn trường, tồn sinh, ngông ngôn, rất liều và rất loạn, mà cũng là vọng âm của niềm hoang mang tuyệt đối:
Nhưng bi kịch của Bùi Giáng là ông
lập lại chính mình.
Trong gần nửa thế kỷ làm thơ, Bùi Giáng để lại hàng ngàn bài, có những câu thơ tuyệt hay, nhưng chính sự lập lại những khám phá ngôn ngữ buổi đầu khiến thơ ông trở thành khuôn sáo, về mặt từ ngữ cũng như tư tưởng. Những dạ thưa, tồn sinh, trùng lai, phố thị của Bùi Giáng, tà huy của Nguyễn Gia Thiều, mù sa, trăm năm của Nguyễn Du... ban đầu làm xuyến xao người đọc: Em về rũ áo mù sa, trút quần phong nhụy cho tà huy bay. Nhưng vì lập lại nhiều lần chúng bị phá giá. Hiện tượng phá giá này có mặt ngay ở những tác phẩm đầu và chủ yếu của Bùi Giáng. Từ Mưa Nguồn, Lá Hoa Cồn, năm 62, 63 đã thấy xuất hiện tính chất đoạn trường, tồn sinh như tinh thần chính trong tư tưởng Bùi Giáng: Nguyễn Du, Tản Ðà gặp gỡ Heidegger, Breton phóng sinh một tạng chán đời mới lạ. Bài Rượu Uống trong Lá Hoa Cồn, một thứ đoạn trường ngông rất lãng mạn siêu thực, tiêu biểu cho tính chất lang thang trong cấu trúc thơ Bùi Giáng:
Bài thơ gồm năm nhịp nối tiếp nhau
bằng điệp khúc Thưa em rượu uống bây
giờ. Mở đầu Thưa em rượu uống bây giờ,
điệp khúc mấu chốt, mở cửa dẫn đến câu thơ thứ nhì:
Là trăm năm gục hai bờ tử sinh. Cả hai nằm trong cấu
trúc song song, tổng hợp quan niệm ngông, đoạn trường và
hiện sinh của toàn bài. Câu ba, câu bốn: Ðộng hờ hững
chúa điêu linh, Em làm Hoàng Hậu mọc tình cỏ phơi, đệm
thêm chất lẳng lơ dục tính, nhưng đã loãng đi vì loại
hình này được Bùi Giáng dùng nhiều. Rồi Chìm hơi thở
đục trong lời sương xanh, một câu rất hay bị đặt bên
một câu lãng xẹt: Nhà ma cửa quỷ đi đời.
cũng vẫn thấy nguyên những nhược điểm như nhịp thơ đầu, tức là trong phần thơ đệm có những vội vàng, dễ dãi, ghép chữ, ghép ý rất sáo: Tài hoa tiếng vọng điêu linh, Phạm Ðan Phượng chết theo Quỳnh Như sao. Ở những nhịp sau, thì ngay chính điệp khúc mấu chốt:
đã có sự lập lại chính mình, như thể nhà thơ tiện tay bắt được chữ nào vội bỏ ngay vào lục bát, không màng nhìn lại những câu thơ đầu nữa. * Tất nhiên láy là một quy ước rất
thường trong thi ca. Nhưng láy chỉ làm tăng giá trị thơ khi
nó đưa đến những dồn dập hoặc trong cảm xúc, hoặc trong
nhịp điệu, hoặc trong sinh động... Tức là láy phải đưa
tới một trạng thái căng thẳng, tới một vận tốc khác
trong tiến trình âm và ý.
là một trong những cách láy của Nguyễn Du, vừa tăng vận
tốc miêu tả, vừa gia tốc sức ép của hiện thực, rành
rành, chính xác, chỉ mặt, chỉ tên.
Láy ở đây lũy thừa mật độ ác liệt
của Tú Bà.
Mỗi lần láy này là một lần Nguyễn Du chuyển cảnh, chuyển tình. Sự láy lại, nơi Bùi Giáng, rất thường khi chỉ là láy dập dình tại chỗ, láy lười, thấy hợp vần, tiện thể thì láy. Láy hồ đồ ít khi mang tới trạng thái mới, cảm xúc mới, hoặc một sức ép gia tăng, mà chỉ cho ta một cảm tưởng dằng dai, lai tạp:
Jacques Brel, năm 1966, khi tuyên bố ngừng
hát ở tột đỉnh danh vọng, trả lời câu hỏi: "Tại
sao ông ngừng hát lúc này?" Brel bảo: "Tôi
ngừng vì muốn giữ lòng ngay thẳng với thính giả và với
chính mình. Bởi vì khi người nghệ sĩ như tôi, đã nắm vững
được tất cả những yếu tố kỹ thuật làm lay động lòng
người, thì người đó sẽ có khuynh hướng ăn gian (tricher),
phong tỏa người nghe bằng tất cả những kỷ sảo của mình,
và khi tôi biết mình sắp đi đến chỗ bước vào kỷ sảo
, tôi ngừng." Tất nhiên, Brel chỉ ngừng hát hai năm
và năm 68, khi ông trở lại với âm nhạc, đã với một tinh
thần khác, hẳn Brel biết mình đã đoạn tuyệt được với
ý định dùng kỷ sảo để thu phục lòng người. Và Brel ở
lại với âm nhạc thêm sáu năm nữa.
hoặc:
khỏi bị lọt vào khu rừng hoang, ôm đồm những lời thơ vội vàng, mọc lên như cỏ dại. * Ám ảnh đoạn trường, tư tưởng và ngôn ngữ Nguyễn Du theo đuổi Bùi Giáng suốt đời. Những tập thơ mới nhất, in ở hải ngoại những năm gần đây càng lộ rõ. Trong những cuốn Thơ Bùi Giáng (sđd), Bùi Giáng 94 (in tại California năm 95), và một phần tập Chớp Biển (sđd), Bùi Giáng tìm về người thầy Nguyễn Du như một cứu cánh. Hầu như mỗi bài thơ của ông đều có ít nhất một chữ hoặc một câu của Nguyễn Du. Và cấu trúc toàn bài thường dựa vào ý một câu Kiều:
Ám ảnh "mù sa", ám ảnh "chỉn e", ám ảnh "vân mòng", "mai sau", "trăm năm", "ngẫu nhĩ", "phong tình", "cổ lục", "dặm về", "tử sinh"... trở thành lớp da thứ nhì của Bùi Giáng:
Từ cảnh sang tình, từ mơ sang thực, ám ảnh ngôn ngữ trở thành ám ảnh tư tưởng. Bùi Giáng đã cạn dần hồn mình và sống hồn Nguyễn Du trong đoạn cuối đời:
Những câu hỏi mà Bùi Giáng trải suốt đời thơ, thắc mắc, tìm kiếm, đặt nghi vấn về cõi đi, cõi ở, cõi có, cõi không, biết đâu hôm nay Bùi Giáng chẳng đã tìm được Nguyễn Du ở một cõi trùng lai nào đó, và ông đang chất vấn người thầy về nỗi đoạn trường ấy, từ trăm năm nào? Tháng 10/1998
Chú thích:
© 1995-2001 Thụy Khuê
|