Thụy Khuê
 

Nhạc và họa trong thơ Bích Khê

 

 

Khi đọc thơ Bích Khê, chúng ta không thể đọc như một bài thơ cổ điển hoặc thơ mới, vì Bích Khê không làm thơ theo logique truyền thống, nghiã là thơ phải có mạch lạch có nghiã, mà nên đọc thơ ông như xem những bức tranh, khi ấn tượng, khi lập thể, khi siêu thực, khi trừu tượng... có thêm phần nhạc đệm.

Giao cảm giữa thơ và họa

Khó phân biệt được lúc nào ông dùng bút để viết, lúc nào ông vung cọ để vẽ, lúc nào ông vung đũa để đánh nhạc. Và cũng cần phân biệt nhạc trong thơ Bích Khê khác với nhạc trong thơ Hàn Mặc Tử : nhạc trong thơ Hàn là nhạc thầm trong mỗi chữ, nhạc trong thơ Bích Khê là nhạc nổi trong thanh âm lạ, âm bằng. Ở những bài thật hay, thơ Bích Khê là sự hoà âm giữa các điệu nhạc cổ, như điệu hoàng hoa, điệu mộng cầm, bằng những màu sắc tân kỳ của hội hoạ hiện đại :

Lam nhung ô ! màu lưng chừng trời ;

Xanh nhung ô ! màu phơi nơi nơi.

Vàng phai nằm im ôm non gầy ;

Chim yên eo mình nương xương cây.

Đây mùa Hoàng hoa, mùa Hoàng hoa :

Đông nam mây đùn nơi thành xa...

Oanh già theo quyên quên tin chàng !

Đào theo phù dung : thư không sang!

Ngàn khơi, ngàn khơi, ta, ngàn khơi:

Làm trăng theo chàng qua muôn nơi;

Theo chàng ta làm con chim uyên;

Làm mây theo chàng bên nhung yên.

Chàng ơi! hồn say trong mơ màng,

- Hồn ta? hay là hồn tình lang ?

Non Yên tên bay ngang muôn đầu...

Thâm khuê oan gì giam xuân sâu ?

 - Ai xây bờ xanh trên xương người ?!

 - Ai xây mồ hoa chôn đời tươi?!  (Hoàng hoa)

Bài Hoàng hoa thể hiện rõ sự giao cảm giữa hai ngành nghệ thuật : thơ và họa. Nhà thơ như một cánh chim, bay qua các khung cảnh khác nhau, trình bày trước mắt ta những bức tranh khác nhau, trong cùng một khoảnh khắc, Vàng phai nằm im ôm non gầy / Chim yên eo mình nương xương cây / Đây mùa Hoàng hoa, mùa Hoàng hoa / Đông nam mây đùn nơi thành xa...

Những bức tranh trên đây, phần nhiều là ấn tượng, chỉ khơi gợi một cảm xúc, mà không mô tả, ví dụ, trong bức : Vàng phai nằm im ôm non gầy, chúng ta không thể thấy rõ hiện tượng vàng phai nằm im ôm non gầy, như thế nào, mà chỉ mơ hồ cảm thấy một ấn tượng nào đó.

Những câu thơ tiếp theo cũng thế : Chim yên eo mình nương xương cây, rồi đến Đây mùa hoàng hoa, mùa hoàng hoa / Đông nam mây đùn nơi thành xa, là những bức tranh gây ấn tượng lãng mạn.

Cảm tưởng mờ sương toả lên từ những bức tranh ấy, trong câu Vàng phai nằm im ôm non gầy, thì sự mờ sương toả ra ở những chữ vàng phai nằm im. Ai nằm im ? -  một màu nằm im. Và màu gì ? - màu vàng. Nhưng không hoàn toàn là màu vàng mà màu vàng phai.

Ai biết và ai có thể định nghĩa được màu vàng phai ấy như thế nào, để trải sự vàng phai đó «nằm im » trên « non gầy», lại đến thắc mắc : non gầy như thế nào ?  -  nếu không phải là họa sĩ, thì không thể biết cách vẽ những hình ảnh ấy. Vậy sự khơi gọi hình ảnh trong thơ Bích Khê bắt nguồn từ hội hoạ, từ cách tạo ấn tượng trong lòng người xem, người đọc thơ. 

Nhịp cầu kim cổ

Bài thơ Hoàng hoa, không chỉ bắc cầu giữa hội hoạ và âm nhạc, mà còn là nhịp cầu kim cổ. Hoàng Hoa, vùng đất Trung Hoa, thời Chiến quốc và đời Đường thường có «rợ» Hồ quấy nhiễu, là bãi chiến trường. Hoàng Hoa lại còn là hoa cúc vàng. Hoa cúc nở vào mùa thu, mùa của lá vàng và cũng là lúc các thanh niên thời chiến quốc, đến tuổi đi lính phải nhập ngũ, đi «quân dịch», năm sau mới trở về. Vì vậy Hoàng Hoa vừa là hoa cúc vàng, vừa là bãi chiến trường, vừa là thời đi lính.

Trong Chinh phụ ngâm có câu :

Xót người lần lữa ải xa

Xót người nương chốn Hoàng hoa dậm dài

Chữ Hoàng hoa trong Chinh phụ ngâm có hai nghiã : vừa là hoàng hoa thú (người lính thú ở chiến trường), lại còn có thể là trại cúc vàng, nơi người chinh phụ tựa cửa nhớ chồng ngoài quan ải.

Vì vậy, hai câu thơ : Đây mùa hoàng hoa mùa hoàng hoa/ Đông nam mây đùn nơi thành xa... tưởng như không có gì liên hệ với nhau, nhưng thực ra là khúc chinh phụ ngâm mới của Bích Khê, ngẫu hứng từ những câu : Xót người nương chốn Hoàng hoa dậm dài Trống tràng thành lung lay bóng nguyệt trong Chinh phụ ngâm.

Người chinh phụ xưa, ngâm : 

Thủa lâm hành oanh chưa bén liễu

Hỏi ngày về ước nẻo oanh ca

Nay quyên đã giục oanh già

Ý  nhi lại gáy trước nhà líu lo

Thủa đăng đồ mai chưa dạn gió

Hỏi ngày về chỉ độ đào bông

Nay đào đã quyến gió đông

Phù dung lại đã bên sông bơ xờ (Chinh phụ ngâm)

Và người chinh phụ mới của Bích Khê, cất tiếng hát :  

Oanh già theo quyên quên tin chàng !

Đào theo phù dung: thư không sang!

Ngàn khơi, ngàn khơi, ta, ngàn khơi:

Làm trăng theo chàng qua muôn nơi;

Theo chàng ta làm con chim uyên;

Làm mây theo chàng bên nhung yên

 Và đây là cảnh chết chóc nơi chiến trường, trong Chinh phụ ngâm :

Non Kỳ mộ chỉ trăng treo

Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gò

Hồn tử sĩ gió ù ù thổi

Mặt chinh phu trăng dõi dõi soi

Chinh phu tử sĩ mấy người

Nào ai mạc mặt nào ai gọi hồn?

Trong thơ Bích Khê, trở thành những bức họa mới, pha trộn cảnh chết chóc chiến trường với những cơn mộng dữ của người chinh phụ trong khuê phòng:

Chàng ơi! hồn say trong mơ màng,

- Hồn ta? hay là hồn tình lang ?

Non Yên tên bay ngang muôn đầu...

Thâm khuê oan gì giam xuân sâu ?

- Ai xây bờ xanh trên xương người ?!

- Ai xây mồ hoa chôn đời tươi?!

Thơ Bích Khê là sự gặp  nhau của hai không gian cổ điển và hiện đại, là sự hoà tan hai không gian ấy trong lòng chữ. Khi nhìn một bức tranh lõa thể, một cảnh thu, hay một vũ khúc, Bích Khê không vẽ lại những ấn tượng ấy trong hiện tại mà ông đẩy lùi chúng về hàng trăm năm, hàng ngàn năm trước, rồi mới đem chúng vào thơ. Ví dụ nhìn một điệu múa, Bích Khê viết : 

Ô trời hôm nay sao mà xanh!

Ngọc trăng xây vàng trên muôn cành,

Nhung mây tê ngời sao kim cương,

Dạ lan tê ngời say men hương;

Lầu ai ánh gì như lưu ly?

Nụ cười ai trắng như hoa lê?

Thủy tinh ai để lòng gương hồ?

Không gian xà cừ hay san hô? (Nghê thường)

Thơ và Ánh sáng

Vũ điệu trong thơ không còn là một vũ điệu trước mắt ta nữa mà đã trở thành vũ điệu nghê thường của một Đắc Kỷ, Bao Tự... trên cung Quảng hàn. Những khơi gợi ấy, đến từ ánh sáng, một thứ ánh sáng mơ hồ huyền ảo của đêm trăng giữa ban ngày :

Ô trời hôm nay sao mà xanh!

Ngọc trăng xây vàng trên muôn cành.

Nhung mây tê ngời sao kim cương,

Trong luồng sáng huyền ảo ấy, một đoá lan đem mùi hương lạ đến chia thế giới làm hai : thế giới của ánh sáng và thế giới của bóng tối qua một chữ dạ (nghiã là đêm). Dạ lan tê ngời say men hương. Rồi tiếp theo đó là một chuỗi những ánh sáng lạ khác :

Lầu ai ánh gì như lưu ly?

Nụ cười ai trắng như hoa lê?

Thủy tinh ai để lòng gương hồ?

Không gian xà cừ hay san hô?

Không thể biết những luồng sáng như ánh lưu ly, ánh hoa lê, ánh thuỷ tinh, ánh gương hồ, ánh xà cừ, ánh san hô... chiếu vào người đẹp trên lầu hay chính người đẹp trên lầu toát ra những ánh sáng huyền ảo ấy.

Tất cả bí mật ở đây nằm trong ánh sáng và thơ dựa vào ánh sáng để thành, y hệt như trong hội hoạ ấn tượng. Nhà thơ chưa vẽ, chưa đả động gì đến người đẹp, nhưng nàng đã xuất hiện : một sự xuất hiện liêu trai, mờ ảo, nghê thường, qua ánh sáng của vật chất chung quanh. 

Và đó là lối tạo chân dung bằng ánh sáng trong thơ Bích Khê.

Trong bài Hiện hình, lại một chân dung khác, vẽ theo lối hiện thực hơn :

Tôi ráp lại xem. Ồ! sự lạ!

Một người thiếu nữ hiện trong trăng.

Khăn hồng chùi lệ ngấn đôi mắt;

Da thịt phô bày ý tuyết băng.

Nường hé môi ra. Bay điệu nhạc

Mát như xuân mà ngọt tợ hương:

Ôi sao là khúc Ba sinh lụy

Rào rạt như đầy nỗi cảm thương

Tiếng ngọc, màu trăng quấn quýt nường

Phút giây người lộ mỏng như sương

-Nường tan ra nhạc? - tan ra nhạc!

Khung trắng trời mây trắng lạ thường!  (Hiện hình)

Người con gái trong bức tranh này, là hội tụ của tiếng và màu : tiếng ngọc màu trăng.

Chân dung nàng được vẽ bằng nhạc hay nàng chính là âm thanh.

Bút lông của hoạ sĩ chấm vào nhạc để vẽ ra chân dung nàng, rồi, cát bụi nàng lại trở về với cát bụi :

-Nường tan ra nhạc? - tan ra nhạc!

Khung trắng trời mây trắng lạ thường!

Mỗi chân dung người đẹp mà Bích Khê vẽ thường có những nét Bích câu kỳ ngộ. Bức Tranh loã thể là bức tranh Giáng Kiều khoả thân trong óc người con trai hai mươi tuổ i:  

Nàng ở mô? Xiêm áo bỏ đâu dây?

Đến triển lãm cả tấm thân kiều diễm.

Nàng là tuyết hay da nàng tuyết điểm?

Nàng là hương hay nhan sắc lên hương?

Mắt ngời châu rung ánh sóng nghê thường;

Lệ tích lại sắp tuôn hàng đũa ngọc.

Đêm u huyền ngủ mơ trên mái tóc

Vài chút trăng say đọng ở làn môi.

Hai vú nàng! hai vú nàng! chao ôi!

Cho tôi nút một dòng sâm ngọt lộng.

Ôi lồ lộ một toà hoa nghiêm động!

Tôi run run hãm lại cánh hồn si...

Ồ hai tay rơi chén ngọc lưu ly;

Ồ hai chân nở màu sen ẻo lả;

Cho tôi nàng! cho tôi nàng! tất cả...

Tôi miên man uống lại mộng quỳnh dao

Cho đê mê, chới với, hồn lên cao,

-Một tinh cầu sẽ tan ra biển lệ. (Tranh lõa thể)

Tranh lõa thể là một tác phẩm tuyệt vời mà âm nhạc và màu sắc dâng lên theo nhịp rung thể xác. Chàng trai đứng trong phòng triển lãm, trước bức tranh khoả thân có dáng dấp của một người xưa, chàng vào mộng, trở lại hàng ngàn năm trước, sống lại giấc mơ Tú Uyên- Giáng Kiều.

Hoặc ngược lại, chàng trai chính là Tú Uyên, đứng trước bức họa Giáng Kiều mà chàng vừa hoàn tất, chàng xao động bối rối, sống một giấc mơ mới mà nhịp độ thể xác đồng tiến với đam mê, với âm nhạc, màu sắc và thời gian. Chàng đã vượt ra ngoài cái lễ giáo cũ để tiến  tới cái tự do mới của một kẻ cầm bút dám phô bày nhục cảm xác thịt của mình trên trang giấy : Tú Uyên đã hiện đại hoá tư tưởng của mình qua thơ Bích Khê. Bích Khê nói hộ người xưa những ẩn ức nhục cảm của họ bằng tiếng thơ của đời nay.

Hành trình sáng tạo từ "chữ" sang "châu"

Châu, bài thơ cuối trong tập Tinh huyết là một trường khúc, diễn tả hành trình sáng tạo của Bích Khê, hành trình biến hoá từ chữ sang châu. Bài thơ có ba phần :

Phần I, nhà thơ tìm cách định nghiã những cái đẹp : đẹp câm trong pho tượng, đẹp huyền ảo của người trong mộng, đẹp rã rượi của tiếng đàn, của đôi mắt mùa thu, đẹp đau thương của đôi mắt lệ, biến thành giọt châu. Phần II, mô tả sự chuyển hoá từ cái đẹp sang cảm xúc và rung động trong tâm hồn nhà thơ. Phần III, nói đến sự biến hoá những chất, những rung động mà nhà thơ lưu lại trong hồn thành những giọt châu.

Bích Khê giới thiệu đôi mắt, chỉ định đôi mắt là tác nhân chính của sáng tác, coi mắt châu, như một thứ tinh thể của thi ca. Mắtchâu nơi Bích Khê, tương đương với tưởng tượngtrăng nơi Hàn Mặc Tử. Nếu Hàn Mặc Tử dùng óc tưởng tượng để sáng tạo thì Bích Khê dùng mắt để làm thơ. Đó là sự khác biệt sâu xa giữa hai người.

Tất cả tinh anh nơi Bích Khê tụ vào đôi mắt. Nếu ai gần Bích Khê, chắc không thể nào tránh khỏi bị cuốn hút bởi đôi mắt, mà ngày nay, chúng ta chỉ còn lại tấm ảnh duy nhất, chân dung một thiếu niên, có đôi mắt to đen đẹp tuyệt vời.

Bích Khê đã diễn tả hành trình sáng tạo của mình như sau : Trước tiên nhà thơ tiếp nhận những cảm xúc của thiên nhiên và đời sống, rồi nhập đồng trong tâm hồn : 

Tôi dường nghe trong một phút mê man

Hồn thanh thiên cho đến phách dương gian

Đều vỡ lở cho rung rinh thần thức

-Một thế giới mờ đi trong sáng đục

Và im hơi cho xuất khí âm hư...

Từ vùng đồng thiếp ấy, đánh lên những âm giai và màu sắc và những yếu tố này đọng lại trong ánh mắt, rồi từ tinh cầu mắt đó, biến thành những giọt châu thơ :

Sao? Màu nàng vấn vít lấy màu thơ

Với tình tiết và tên hoa vô thượng

Với đôi mắt đẹp câm trong sắc tượng

Biến ra châu nguyên vẹn cốt thiên đàng

Nên Thiên Tài đang tắm ở suối vàng

Theo trực giác bay lên nguồn ngọc lệ

Như thế, mỗi lần nhả châu trong mắt ngọc, thiên tài phải chết đi trong đê mê huyền bí, trong giếng loạn của tâm hồn :

Cho đã khát trong đê mê huyền bí

Ánh tiên tri nức nở sóng anh linh

Đường kinh tuyến hút nhiễm chất vô hình

Dẫn địa ngục đi vào đôi giếng loạn?

Đỉnh hoang loạn thể xác và tâm hồn cũng là đỉnh thơ : muốn đạt tới thơ, tức cõi châu, nhà thơ phải thăng hồn tới cực của đớn đau hoang loạn, tới sự mất trí, tới sự rã rời thể xác, tới xuất huyết, tới địa ngục và thiên đàng.

Tôi chết ngay đây chẳng nói rằng

Cả  mình lạnh khớp đến hàm răng

Thần gì đã xuất ra đôi mắt

Vội đẩy hồn tôi tới bóng giăng

Một bóng giăng rồi một bóng giăng

Hồn vẫn phiêu lưu rất nhẹ nhàng

Đến mút không gian là bát ngát

Một trời thơ mộng đẹp mê man

Và trong vùng ánh sáng và âm thanh thần tiên ấy, đôi mắt thần tiên hiện ra :

Bỗng khúc dương cầm nấc tiếng thu

Bỗng đôi mắt ngọc hiện xanh mờ...

Và châu và báu và thanh khí

Nức nở tan thành vạn giọt thơ

Đạt đến cõi thơ, mọi sự lại bắt đầu trở lại.

Toàn bài thơ là hành trình của sáng tác, trong một vòng tử sinh huyền bí :

Tối hôm nay mùa thu đang ảo não

Trong gió rên và trong lá vàng bay

Mỗi gân trắng rúng rẩy một luồng say

Mỗi hơi thở hoa hồng vang nức nở

Và mạch máu không gian dường vỡ lở

Hú ma điên... kinh động vạn hồn đau

Muôn u phiền đầy đặc ứ trong đầu

Muôn sầu hận xây mồ ngay giữa phổi

Tôi ngây ngất trong bể lòng sôi nổi

Để hồn mê trôi dạt cõi xa mơ

Mình lặng ngồi trên tảng đá trơ vơ

Tình khóc mướt trong đêm thu ấp ủ

Đôi mắt của Bích Khê chính là nguồn sáng tạo, nguồn khổ đau và hạnh phúc. Chưa ai hỏi mắt mình : Người là ai? Bởi nhà thơ cũng không biết rõ nguồn sáng trong đôi mắt ấy từ đâu đến và sẽ dẫn mình đến đâu ? Đôi mắt là cửa sổ của linh hồn như người ta thường nói, nhưng linh hồn Bích Khê là một cõi huyền bí xa lạ, của một cuộc đời ngắn ngủi trên dương gian, nhưng vô tận ở cõi siêu hình :

Hỡi đôi mắt! Nơi người là ngọc thạch

Nơi giếng người phản chiếu ảnh thiên thần

Nơi suối người giữ  kín tiếng châu ngân

Nơi triển lãm cả một bầu tiên động

Nơi rung rinh cả một trời thơ mộng

Người là ai?Người hỡi! Người là ai?

-Nhưng đôi mắt lờ lặng và mê say

Nhìn đắm đuối không một lời náo nức

Nhạc khiêu vũ đâu đây lan sóng múa

Tôi tưởng chừng... da thịt biến ra thơm

Những đầu lâu rã hết khí xanh dờn

Những xiêm áo bay rờn trong cảnh mộng

Cả địa ngục đi vào trăm lỗ hổng

Bắn tinh ra trộn trạo giữa nguồn hương

-Hỡi đôi mắt! hồ thuỷ tinh trong suốt

Soi trần gian địa  ngục vạn đời ma

Hãy nói tên thần bí của muôn hoa

Hãy kể hết nhiệm mầu muôn thế giới

Những bí quyết khí nhạc lên vời vợi

Những màu thiêng khi đau khổ lên cao

Những thơm ngào phối hiệp giữa trăng sao

Những khoái trá truyền qua hai xác thịt

Bằng hơi điện - bằng hơi điên tha thiết

Người là ai? người hỡi ! người là ai ?

-Nhưng đôi mắt lờ lặng và mê say

Nhìn đắm đuối, không một lời náo nức

Bích Khê, ngàn đời sau vẫn là một vì tinh tú mới, chiếu vào cõi thơ, bằng đôi mắt ngọc của một thiên thần.  


 

© Copyright Thụy Khuê 2009