Thụy Khuê

Sóng từ trường
 
 

Tầng Trệt Thiên Ðường,
 Bùi Hoằng Vị



     Tôi cầm Tầng Trệt Thiên Ðường. Chủ nhật 13. Tháng tám trời nóng. Sách dày 63 trang, cả thảy 6 truyện -hình như không đâu nhận đăng- may mà in được, giấy vàng xỉn, loại giấy bản, màu rác, in có 500 cuốn.
     Một tuần sau, thứ bẩy 18. Tháng tám, Paris trời vẫn nóng. Vẫn chưa hiểu sách nói gì. Ðiều chắc: Tay này hóm. Hóm lắm. Chúng ta thử đọc mấy dòng:

 Hai hữu thể có cánh, rã rượi, ố bẩn, như chưa một lần bay lượn: Một có cặp mông lớn lao và hung hãn, đang đứng kiễng chân lên đầu bàn, ghé tai vào cái đài bán dẫn made in Hell giấu trên nóc tủ, vẻ lắng nghe, thỉnh thoảng quay lại bộ mặt xanh xao, mắt quầng thâm, thở dài... Một kia, đang ngồi ở ghế cạnh bàn, đầu cúi, viết không ngưng nghỉ... Những dòng chữ chẩy lênh láng, ngập một tấc trên sàn, tràn cả ra cống rãnh ngoài cửa. Bầu khí thì oi, thoang thoảng mùi chuột, và gián, và rác...
(Tầng Trệt Thiên Ðường, tr. 5)

     Ðọc cách nào, tùy ý. Hiểu thế nào, tùy người. Cũng có thể là không hiểu gì hết. Nhưng tất thẩy khó tránh cú sốc: Văn đấy à? Thế là rơi vào bẫy của Bùi. Bạn có thể tiếp tục đọc hay vứt sách đi. Nhưng lại tiếc rẻ: Những dòng chữ chẩy lênh láng, ngập một tấc trên sàn, tràn cả ra cống rãnh... Hoài của, tại sao ta không hốt? Mất gì? Thế là lại cầm sách lên, lại đọc và lại bị sốc, lại không hiểu, lại muốn tìm hiểu, và lại thất bại... Thế là chúng mỉm cười, cái cười ngạo mạn của những con chữ trước những dốt nát của người đọc: Có gì đâu mà hiểu! Và đó là mục đích của cuốn sách, là thủ pháp, là phù phép lôi cuốn của phi lý, là lối sáng tạo độc đáo dựa trên tính cách vô nghĩahài hước trong chất sống, trong ngôn ngữ, trong sự không có gì để hiểu và không có gì để tìm hiểu trong đời sống. Samuel Beckett nói toẹt ra cái khổ ải ấy: "Không có gì để diễn tả, không biết diễn tả với cái gì, từ cái gì, không có ý muốn diễn tả, thế mà bắt buộc phải diễn tả với những thứ đó" (Il n'y a rien à exprimer, rien avec quoi exprimer, rien de quoi exprimer, aucun désir exprimer, tout cela avec l'obligation d'exprimer).

     Hình như họ Bùi có xài chút hiện sinh, ở những chỗ lằng nhằng, đại loại như: Ý thức thuần túy thuộc về bản thân. Sống là thể nghiệm bằng trực cảm. Chính cái trực cảm ấy quyết định mọi hành vi của con người. Tính chất tự do là tuyệt đối, không có lý tính nào kiểm soát hoặc giải thích được. Ðó là nguyên tắc. Thực tế không hẳn thế: Mấy ai đặt vấn đề tự do? Con người tồn tại bất chấp hoàn cảnh, và như thế, tồn tại để làm gì? Tác phẩm đặt vấn đề Tồn tại.
 


*



     Ở Tầng Trệt Thiên Ðường  hay balcon địa ngục ấy, Bùi phung phí, xả láng cái gọi là "tự do tuyệt đối" của mình để "giao lưu" giữa mộng và thực để "đi", "bay", biến những nhân vật của mình thành hữu thể có cánh, tạo ra những thực chất hỗn tạp, "phức âm", đa nghĩa, đại loại như Nấm mồ Thượng Ðế, hữu thể chói lóa, hội cầm bút, hội cầm phấn, tiếng thét vượt thời gian v...v... Tất cả đều dựa trên nguyên tắc trượt nghĩa.

     Ở Tầng Trệt Thiên Ðường, cụ Kiều hồi sinh kể cho con cháu nghe đoạn đời phong trần của mình, cái nghề già như trái đất, già như nhân loại, trong đó các cụ Kim, cụ Thúc, cụ Từ, cụ Mã, cụ Sở, cụ Hồ... cứ thần tình sống lại, vượt thời gian, với những sở trường, sở đoản của mỗi người trong thủ pháp chiếm hữu cái nguồn đời -Courbet gọi là Origine du monde-: Một thể hồi ký xuyên thế hệ, viết từ "luyện ngục bà", phong cách Bùi Hoằng Vị.

     Về phần kỹ thuật, Bùi sử dụng kỹ thuật thời trang của thế kỷ này: Bút pháp điện ảnh Dos Passos. Chỉ thuần dữ kiện, không có "nhời bàn". Những dữ kiện khác nhau, không cùng thời gian, không cùng địa điểm, không phát xuất từ một con người, xen kẽ vào nhau: thứ bút pháp đầu Ngô mình Sở. Ðang kể chuyện thiên đàng, chớp xoẹt một cái, mắt caméra chuyển sang kênh địa ngục, bắt quả tang những kẻ dại dột dám lẩn "thiên đường", dùng thuyền mò về "chín suối": "thảy đều bơ phờ, liệt nhược". Rồi nhoáng một cái, mắt caméra chĩa ngay vào ruột tác giả, kẻ đang cầm bút viết lia lịa kia "nghe nói, ở tầng trệt thiên đường, từ một nỗi đau giả, một hữu thể có cánh đã để chảy lênh láng những giòng thơ, làm ngập lụt mọi cống rãnh" (tr. 8). Thoắt cái, mắt caméra hệt như mắt công an, lại vừa quay vừa "nhận định" luôn bối cảnh, thần trí của kẻ ấy, kẻ đang viết, đang tư duy, đang làm thơ: "Tự tử bằng thơ. Thơ dâng lên từng milimét, chắc chắn sẽ ngập đến cằm, đến miệng, đến mũi, và thế là hết, chỉ còn hai con mắt, thao láo, dần dần bất động, ngưng thần. Ðồng thời, mức thơ không dâng lên nữa. Phải mất lâu lắm, thơ mới rút hết đi, qua ngả cống rãnh, và trên nền nhà chỉ còn lại sõng sượt một mình thi nhân, với đôi cánh tan nát" (tr. 10).

     Ðây không "siêu thực", đây là thực tại của các nhà thơ xung phong, của những nhà thơ bội thực chữ, của những nhà thơ chết về chữ.
     Vẫn ở Tầng Trệt Thiên Ðường, mới tháng ba (chưa phải tháng tư), chúng sinh đã cập rập đợi chờ những nhân chủng E.T. đến "giải phóng" họ.
     Nhờ sức mạnh của truyền thông. Thiên đường có khả năng tiếp cận với chín suối bằng các kênh sóng trên đài bán dẫn. Sự tiếp cận này vừa nói lên tính cách hiện đại xa lộ thông tin, xuyên suốt của thế kỷ này, vừa phô ra tính công an rất hiện thực trong đời sống độc lập, thống nhất: thảy đều "mở cửa", đều "được biết", cho đến "khúc ruột" của con người; vừa nói lên khả năng tác hợp những thực thể vô cùng khác nhau: Thiên đường và địa ngục có thể giao thông, giao thoa, có khi đi đến cả giao hợp, để tác thành các thứ bào thai, mắc chứng nan y của hai dòng họ: Bệnh thần kinh, bệnh dạ dày, bệnh cao huyết áp... và ngay cả cái mớ kiến thức "ngoại lai ở vùng tạm chiếm" cũng có thể kết hợp với cái khẩu khí hào hùng của sĩ phu Bắc Hà để tạo thành những quái thai dị hợm, dị mộng.
 


*



     Ðến đây người đọc bắt đầu lờ mờ cảm thấy rằng: Ngồi ở Tầng Trệt Thiên Ðường, Bùi Hoằng Vị đã tà tà hóa kiếp cho các giá trị ưu việt. Các vị anh hùng kiệt xuất, qua tay Bùi, đều có khả năng trở thành xác chết: Nắng lên thành tử thi chết héo, mưa xuống thành tử thi chết sình. Và chỉ có một sự thực hiện hữu: "Ào ào siêu việt, lên trên tất cả là lũ ruồi. Lũ ruồi không đếm được. Lũ ruồi không ra thường trú, không ra tạm trú, song hiển nhiên là có thật" (tr.13).

     Có khinh miệt nào táo tợn về "sự sống" đến thế? Và dường như tất cả những gì liên quan đến địa hạt sùng bái, đều có thể bị hóa kiếp, đổi màu: "Ðúng lúc ấy, bà cụ đẹp lão lại thều thào: Vàng!  Một cái sao nữa vừa lặng lẽ băng qua bầu trời đêm ngoài cửa sổ. Một cái sao màu hổ phách".

     Sau 20 năm "giải phóng", phương Nam chỉ được quyền tự do câm nín, đây là những cơn mơ "mưa rơi sao"(1), cơn mộng nhặt ánh sao rơi(2) đầu tiên, đến từ phía Nam, có khả năng bắn sao, băng sao, đổi xếch sao, xua tan những "cơn hỏa mộng"(3) đến từ phía Bắc, xưa nay vẫn làm chủ bầu trời.

     Ngọn bút trẻ, thừa thắng xông lên biến những "việc thật, người thật" thành những sự vật và sự việc không có khả năng tồn tại đến năm 2000. Cả đến những sự nghiệp vĩ đại nhất về văn học, Bùi cũng phê: "Ở ông ấy chỉ có hai cái vĩ đại: khổ hạnh và kiêu căng, đấy là đặc trưng của những người chỉ đọc một quyển sách" (tr.42).

     Về sự dốt nát, Bùi nhận định: "Sự dốt nát đã từng là một mode phổ quát ngay từ những thế kỷ đầu tiên, và bây giờ, cuối thế kỷ XX liệt vào hàng quốc bửu" (tr.18).

     Và đây là tình huống của trăm họ Hồng Bàng: "Họ Mã, thì một bọn đàn em bán đứng. Họ Sở, ngã trầm trọng trong lúc đang quất ngựa truy phong. Họ Kim, vì thấp khớp sau hơn nửa đời quỳ mãi bái lễ chốn quan trường. Họ Thúc, do tổn thương hệ miễn nhiễm, bất chấp Hoạn Cô Nương đã bỏ hàng nghìn lượng vàng, van vái tứ phương (cố nhiên bà lại suýt phải ra cửa quan, bị tình nghi chính phạm). Họ Từ, như ai nấy đều biết, đã kịp chết đứng trước đợt cải huấn đầu tiên. Còn họ Hồ, cuối cùng cũng đã nhanh chóng tìm được một kiểu nghỉ ngơi xứng đáng với sự nghiệp oai hùng của mình" (Cổ tích từ luyện ngục bà, tr. 58).

     Ở cái chợ người truyền kiếp buôn nhau, chuyện hôm nay với chuyện ngày xưa, đâu là thực, đâu là ảo? "Luyện ngục bà" là hình thức thành công nhất của Bùi Hoằng Vị trong cách pha trộn Quỷ với Người, Thiên Ðàng với Ðịa Ngục, hôm qua với hôm nay. Ở cái sổ đoạn trường vạn kiếp của Bùi, mọi nhu cầu đều quy về một đỉnh cao trí tuệ: Sự tọa lạc của sếch. Ðiều này không mới. Freud đã bảo trước cả trăm năm. Nhưng ta nói vậy là nhảm. Là phạm thượng.
 


*



     Bây giờ đến Cái Bồn. Không biết nó là cái gì. Bồn nước chăng? Bồn rửa chân hay là bồn rác? Lại trượt nghĩa. Nhưng chắc chắn "nó là một nhu cầu nghiêm túc, một đặc sản của văn minh, đồng thời, một biểu tượng thâm trầm, độc quyền cho những đô thị nhiều sao"  (Nghiệp, tr.14).  Cái bồn là nguồn sống, là cửa sinh, là mục tiêu của các cuộc xâm lăng chiếm hữu, và cũng là lãnh địa sa thải, rưởi rác, là sự tự sinh, tự tạo, tự diệt của con người. Ở đó, sống là tranh phân, chiếm đoạt những nàng Kiều. Chiến tranh để lại những tử thi rữa nát, biến chất thành nước "kiềm toan", tự kiềm tỏa, tự diệt mình, diệt người đồng loại, bằng chính xương thịt thối rữa của mình, trong môi trường ẩm ướt, béo bổ cho những gã ruồi, thường trú hoặc tạm trú.

      Bên cạnh cái bồn, có một cá thể độc nhất "muốn ói", đó là một đứa bé: một lương tri tí hon. Còn tất thẩy đều mũ ni che tai, đều là bọn quần thần câm điếc chuyên xả rác, bán thịt, buôn người, kích thích môi trường ruồi nhặng sinh xôi nẩy nở. Chúng tồn tại như con người tồn tại.

     Tồn tại như thế để làm gì? Câu hỏi của Bùi đặt ra, lạc trong tác phẩm, lạc trong cái Bồn, lạc trong đống rác, lạc trong đám kẻ sĩ hung hăng, lạc trong hội hè cầm bút, lạc trong các sứ mệnh, lạc trong các đỉnh cao trí tuệ... Câu hỏi đặt ra bên giường bệnh của bốn kẻ hấp hối, bốn cá thể hiếm hoi đã cưỡng lại luật chơi chung: dám có lương tri, dám mở cửa báo trước ngày tận thế.

     Tầng Trệt Thiên Ðường là nụ cười thê thảm phát xuất từ nỗi đau không gột được. Tác giả bắt người đọc tự cười mình, tự khinh mình, tự ghét mình bằng những hình ảnh vô trật tự, bí hiểm, có tính cách tâm thần, lạc loạn. Những đứt đoạn, những bệnh hoạn, những điều không hiểu được trong tập truyện ấy là chính chúng ta: Không hiểu được những việc mình làm. Sự ngu dốt của con người sẽ triệt hạ con người. Bùi Hoằng Vị đã đẩy đến cùng, tính cách phi lý của đời sống ở những thiên đường mà ảo tưởng ánh sáng đã làm mù tối lương tri, biến dạng sự sống. Và như thế,
     Tồn tại để làm gì?

Paris tháng 10-1996

Chú thích
(1)Chữ của Thanh Tâm Tuyền
(2) Chữ của Vũ Thành
(3) Chữ của Nguyễn Tuân
 

© 1991-1998 Thụy Khuê