Thụy Khuê
Vấn đề "Đối thoại sử học"
Đầu năm 2000, nhà xuất bản Thanh Niên tại Hà Nội phát
hành cuốn Đối Thoại Sử Học. Đối Thoại Sử Học cùng
với Chuyện Kể Năm 2000 của Bùi Ngọc Tấn và tiểu thuyết Hai
Nhà của Lê Lựu là ba tác phẩm đã gây khó khăn cho nhà Thanh Niên. Qua
liên lạc điện thoại với giới phê bình trong nước, chúng tôi được biết cuốn
sách này đã làm xôn xao dư luận nghiên cứu. Nhận thấy tầm quan trọng của cuộc
đối thoại sử học này, cho nên mặc dù chưa có cuốn sách đó trong tay, và mặc dù
gặp sự từ chối phát biểu của những nhà sử học trong nước, chúng tôi đã nhờ nhà
phê bình Lại Nguyên Ân giới thiệu Đối Thoại Sử Học và sử gia Bùi
Thiết, tác giả chính Đối Thoại Sử Học, trình bày chủ đích và nội
dung tác phẩm trên đài phát thanh RFI (Pháp) những ngày 26/2 và 4/3/2000. Ngay
sau khi chương trình đầu được phát ra, một thính giả ở Paris đem đến cho chúng
tôi mượn Đối Thoại Sử Học, do đó mà có chương trình thứ ba, giới
thiệu Đối Thoại Sử Học trên RFI ngày 11/3/2000.
Nhận thấy ba buổi phát thanh này có thể có những đóng góp hữu ích cho văn học,
chúng tôi xin ghi lại trên Hợp Lưu, để độc giả có dịp tiếp thu và nhận định.
Thụy Khuê
Thụy Khuê: Thưa anh Lại Nguyên
Ân, anh là một nhà phê bình văn học và cũng là người "ngoại cuộc" trong cuộc
tranh luận sử học này, xin anh vài lời giới thiệu cuốn Đối Thoại Sử Học.
Lại Nguyên Ân: Đây là một cuốn sách do nhà
xuất bản Thanh Niên, xuất bản năm 1999 nhưng chỉ thực sự ra vào đầu năm 2000.
Cuốn sách là một tập hợp của độ khoảng bẩy nhà nghiên cứu sử học. Các bài viết
đề cập đến hàng loạt những vấn đề sử Việt Nam và việc nghiên cứu sử. Qua sách
này, ta có thể thấy đời sống sử học của khoảng ba, bốn mươi năm gần đây và những
vấn đề nêu ra làm cho những người đọc như tôi -dù không phải là người nghiên cứu
sử học chỉ là người làm việc trong lãnh vực văn hóa, xã hội, thấy rằng- đấy là
những vấn đề rất bức thiết, những điều rất cần thiết.
Theo tôi, những bài viết này nêu ra hai loại vấn đề:
Loại thứ nhất là những sử liệu cụ thể, ví dụ nêu ra vấn đề xung quanh sự xác định
một nhân vật của thời kỳ kháng chiến chống Minh: Thì người đó cộng tác với lực
lượng đến xâm lược hay là người kháng chiến? Hay việc xác định thực chất của một
ngôi đền là đền Cẩu Nhi ở bên Hồ Trúc Bạch, nó như thế nào? Hay là việc xác định
tên một viên tướng ở thời Tây Sơn, đọc là Đặng Tiến Đông hay là Đặng Tiến Giản?
Hay việc xác định bản in Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, có ghi ở bìa là Nội Các Quan
Bản, có phải là bản in khắc vào năm Chính Hòa thứ XVIII hay chỉ là một bản in khắc
của đời Nguyễn? Những điều như vậy cần được thảo luận và giám định trở lại. Đây
là loại vấn đề thứ nhất.
Những vấn đề thứ hai, theo tôi, quan trọng hơn, tức là xung quanh việc thảo luận
về đề tài có hay không có giai đoạn chiếm hữu nô lệ trong lịch sử Việt Nam, thì
những tác giả ở đây [ĐTSH] cho thấy là: Từ những năm 60 cho đến những năm 80,
ban đầu, những nhà nghiên cứu sử miền Bắc Việt Nam đi theo cái khẳng định chung
của các nguyên lý duy vật lịch sử của Mác-Ăng ghen, thì cho rằng nhân loại đã
cần phải trải qua những giai đoạn như công xã nguyên thủy, rồi chiếm hữu nô lệ,
rồi phong kiến, rồi tư bản v.v... Những năm 60, người ta muốn đi tìm một dấu
vết, thậm chí muốn tìm một giai đoạn, xem giai đoạn nào là giaì đoạn chiếm hữu
nô lệ ở lịch sử Việt Nam. Nhưng rồi có những ý kiến khác bắt đầu xuất hiện và
dần dần những ý kiến đó lấn lướt, gần như muốn khẳng định rằng xã hội Việt Nam
không trải qua giai đoạn chiếm hữu nô lệ.
Nhưng những tác giả ở đây [ĐTSH] đã đặt ra vấn đề như thế này: Một là, những người
muốn kết luận không có giai đoạn chiếm hữu nô lệ trong lịch sử Việt Nam cũng
không trung thành gì với chủ nghĩa duy vật lịch sử của Các-Mác và Ăng-Ghen. Và
thứ hai, cái điều quan trọng hơn, là, họ làm công việc ấy thật ra chỉ để minh
chứng cho một tư tưởng tuyên truyền thời đó, tức là ở Việt Nam lúc này, vào
những năm 60, 70 cũng có thể bỏ qua giai đoạn kinh tế tư bản để đi thẳng đến một
giai đoạn là chủ nghĩa xã hội chứ cũng không phải từ một nghiên cứu xã hội
nghiêm túc gì. Từ những chỗ như vậy, các tác giả ở đây [ĐTSH] đặt vấn đề này,
theo tôi, rất đáng suy nghĩ là ở Việt Nam, đặc biệt miền Bắc, rõ ràng người ta
phải xây dựng một trường phái theo tinh thần chủ nghĩa Mác Lênin cho các ngành
khoa học xã hội. Thế nhưng, với những hoạt động tương tự như trên -như trường
hợp giai đoạn chiếm hữu nô lệ tôi vừa nói- thì chúng ta thấy rằng trong thực chất
người ta không xây dựng một khoa sử học theo chủ nghĩa Mác Lênin, mà sử học dần
dần lại phát triển theo cách ngày càng quay trở lại, không chỉ là tôn trọng mà
là tôn thờ những nhận định của các sử gia của các triều đại quân chủ trước đây,
coi đó là khuôn vàng thước ngọc. Đó là một nhận xét rất quan trọng về chiều hướng
phát triển sử học hiện nay ở Việt Nam. Đúng hay sai thì giới sử học đương nhiên
phải trao đổi. Nhưng theo tôi, những vấn đề như vậy mà cuốn Đối Thoại Sử Học đưa
lên, là những điều đáng suy nghĩ cho cả giới sử học lẫn những người làm khoa học
xã hội.
TK: Thưa anh, thế thì phản ứng của giới nghiên cứu sử học, hay là giới
nghiên cứu khoa học xã hội ở trong nước là như thế nào đối với cuốn sách này?
LNA: Tôi thấy hình như là giới sử học Việt Nam, do
những điều kiện nào đó, lảng tránh nó. Tại sao như vậy? Bởi vì giới sử học Việt
Nam hơi giống khuôn khổ các nhà trường, tức là có hệ thống thầy và trò. Thế hệ
thầy có những người mà kết quả nghiên cứu không còn đúng nữa, không còn đứng được
nữa, nhưng những người đó, vì có một thế lực nào đó cho nên, những thế hệ sau,
ngại việc thay đổi, tức là ngại đụng chạm đến thầy hơn là bảo vệ những điều đúng
đắn hơn trong nghiên cứu. Nói cách khác, ở đây cái không khí học phiệt nó khá nặng,
vì vậy cho nên có lẽ giới sử học cũng giống như một số giới khoa học xã hội khác,
còn nể nang trước những kết quả nghiên cứu không tốt đẹp và thậm chí là cả những
bệnh tật nữa trong nghiên cứu của các bậc đàn anh, của các bậc thuộc thế hệ
thầy. Tôi cho là cuốn sách này nó đụng đến nhiều vấn đề như vậy và rất đáng được
suy nghĩ.
TK: Xin cảm ơn anh Lại Nguyên Ân.
Thụy Khuê: Bây giờ là tiếng nói của sử gia Bùi Thiết,
người đã viết nhiều trang nhất trong quyển sách này. Thưa anh Bùi Thiết, tại sao
lại có sự xuất hiện của cuốn Đối Thoại Sử Học trong lúc này?
Bùi Thiết: Đối với tôi, sự xuất hiện của cuốn
Đối Thoại Sử Học là một hiện tượng bình thường thôi. Bởi vì, xưa nay,
trên thế giới và cũng như ở Việt Nam, người ta cũng tranh luận, không những là
vấn đề học thuật đâu, mà cả vấn đề chính trị, kinh tế nữa. Tất cả đều được tranh
luận, đều được thảo luận. Và chính nhờ thảo luận, tranh luận mà tìm ra chân lý,
nhất là trong lãnh vực khoa học thì sự thảo luận và trao đổi rất quan trọng.
Không có cái đó thì chân lý không tìm ra được. Vậy cuốn Đối Thoại Sử Học ra đời,
theo chúng tôi nghĩ, nằm trong quy luật chung của khoa học nhân loại.
TK: Anh là một trong những tác giả chính, xin anh giới thiệu sơ lược
nội dung tác phẩm và các tác giả.
BT: Cuốn sách này gồm 32 bài viết, dày khoảng hơn
500 trang. Trong đó chúng tôi nêu ra khoảng hơn 20 vấn đề lớn của khoa học lịch
sử đất nước. Các tác giả thì có tôi là Bùi Thiết. Nhà nghiên cứu địa lý lịch sử
quá cố Đinh Văn Nhật. Nhà sử học Đỗ Văn Ninh. Nhà sử học Lê Trọng Khánh. Anh Lê
Trọng Hoàn. Anh Trần Văn Quý. Anh Trần Thanh Lâm. Gồm có bẩy tác giả thì trong
đó phần tôi viết khoảng hơn 300 trang. Trong cuốn sách này chúng tôi đặt ra rất
nhiều vấn đề của nền sử học đất nước, từ phương pháp luận cho đến giải quyết
những vấn đề cụ thể của lịch sử. Nếu chị có trong tay cuốn sách này, chị sẽ thấy
ngổn ngang tất cả những vấn đề. Tất nhiên đây chưa phải là những vấn đề mà giới
sử học Việt Nam quan tâm. Thế thì có thể nói với chị rằng chúng tôi nói một số điểm
chính thế này:
Thứ nhất, có những vấn đề sử học mà hiện nay, qua cuộc đối thoại này, chúng tôi
khẳng định rằng cần phải sửa lại. Chẳng hạn như cuốn Đại Việt Sử Ký Toàn
Thư, vốn là một bản "Nội Các Quan Bản". Bản này là một bản in từ 1856
của triều Nguyễn. Năm 1856 có in hai bản. Một bản lưu lạc sang bên Pháp và nằm ở
nhà riêng của ông Demiéville. Sau đó ông Demiéville trao lại cho Thư viện Á châu
(Société Asiatique). Chính anh Tạ Trọng Hiệp, bây giờ anh đã quá cố rồi, Việt
kiều ở Paris, đã giới thiệu với giáo sư Phan Huy Lê, và tôi không hiểu vì sao họ
không làm kỹ văn bản học và ngộ nhận rằng cuốn sách này in năm 1697, tức là bản
in đầu tiên, cách đây hơn 300 năm. Thì đấy là vấn đề thứ nhất.
Vấn đề thứ hai chúng tôi nói trong này là Đặng Tiến Đông. Hiện nay ở Hà Nội có
một phố tên là Đặng Tiến Đông. Vốn ông này là Đặng Tiến Giản. Ông Đặng Tiến Giản
này là quan của nhà Lê-Trịnh, bỏ Lê-Trịnh theo Tây Sơn, được Tây Sơn cử làm tướng
đánh nhau với quân Trịnh năm 1788. Nhưng người ta không đọc ra là Giản mà lại đọc
là Đông, và cái công đánh Trịnh trở thành cái công đánh Thanh. (Bởi vì năm 1788
quân Thanh chưa vào). Do đó chuyện ấy là chuyện sai. Hiện nay chúng tôi đã chứng
minh rằng ông này là Đặng Tiến Giản và chỉ đánh nhau với quân Trịnh chứ không đánh
nhau với quân Thanh. Chúng tôi đề nghị với các cơ quan quản lý nhà nước phải sửa
lại phố Đặng Tiến Đông bằng phố Đô Đốc Long, chính cái công đánh trận Đống Đa
mùa xuân năm Kỷ Dậu 1789 là của Đô Đốc Long. Đô Đốc Long là ai thì hiện nay
chúng tôi đang có nhiều giả thiết, chỉ biết ông là Đặng Văn Long, một trong
những người theo Tây Sơn từ đầu, đấy là người ở Bình Định. Đó là vấn đề thứ hai
mà chúng tôi nêu ra.
Vấn đề thứ ba là vụ đền Cẩu Nhi ở Hồ Trúc Bạch. Cách đây hơn mười năm, các giáo
sư Phan Huy Lê và Trần Quốc Vượng cùng ngộ nhận và nói rằng có cái miếu đó từ
thời nhà Lý gọi là đền Cẩu Nhi, gắn với truyền thuyết: Chó mẹ, chó con dẫn đường
để ông Lý Thái Tổ dời đô về Thăng Long. Nhưng thực tế thì trên cái gò đó, không
bao giờ có cái miếu ấy cả. Bởi vì đường Thanh Niên ngăn Hồ Trúc Bạch và Hồ Tây
hiện nay -nếu như chị có dịp về Hà Nội- con đường đó vốn là một con đê, được dân
các làng đắp năm 1620 để làm đập đánh cá. Thì có lẽ sau vụ đó, đất thừa ra, người
ta đắp một cái gò gần Hồ Trúc Bạch. Rồi đến cuối thế kỷ trước, đầu thế kỷ này,
người ra dựng nên một cái miếu để thờ Tam Phủ Thánh Mẫu gọi là Thủy Trung Yên Từ.
Tôi có bản đồ vẽ ở chỗ này năm 1873, trên gò này không có một ký hiệu gì cả,
ngoài đất canh tác, không có đền đài miếu mạo gì ở đây. Và cũng lưu ý với chị rằng
nếu như ở Hà Nội có một di tích nào đó thuộc thời Lý thì bây giờ phải nằm ở dưới
đáy, dưới lòng đất Hà Nội khoảng 3, 4 mét. Vừa rồi giới khảo cổ học Việt Nam đã
đào ở trong thành Hà Nội sâu xuống 4m so với mặt đất bằng, tìm thấy các hiện vật
của thời nhà Lê, nhà Trần.
Cách đây hơn mười năm, chúng tôi đào ở Hồ Giảng Võ, trước đài truyền hình Việt
Nam, dưới đáy hồ nửa mét thì có một cái điện Giảng Võ thời nhà Lê. Tính như thế,
hiện nay, tất cả các di tích văn hóa của Việt Nam thời Lý Trần, nếu còn ở Hà Nội,
thì nó phải nằm ở dưới lòng đất, không dưới 3, 4 mét. Do đó không thể có một cái
gò ở Hồ Trúc Bạch, miếu Cẩu Nhi từ thời Lý ở đấy được. Đấy là vấn đề thứ ba mà
chúng tôi nêu lên.
Vấn đề thứ tư mà chúng tôi nêu lên là ông Phan Liêu, ông này đã sống vào đầu thế
kỷ XV. Ông Phan Liêu là tri châu Nghệ An (như là tỉnh trưởng Nghệ An hiện nay)
cho nhà Minh. Ông này đã đàn áp bao nhiêu cuộc khởi nghĩa và giết Nguyễn Biểu là
một anh hùng dân tộc. Sau này được một số nhà sử học sửa lại, sửa thành công
chống quân xâm lược. Thì cái đó, chúng tôi phản đối.
Trong cuốn sách này chúng tôi cũng nêu ra rất nhiều vấn đề như thời kỳ Hai Bà
Trưng chẳng hạn. Các địa danh về thời kỳ Hai Bà Trưng được nhà sử học Đinh Văn
Nhật chứng minh rất rõ và những cái nhầm lẫn của lịch sử cũng rất đáng tiếc.
TK: Trên đây anh đã nói về những nhân vật cụ thể, nhưng còn về mặt
tổng quát của lịch sử Việt Nam nói chung, thì có những vấn đề gì cần phải đưa
ra?
BT: Xung quanh lý luận sử học và đối thoại sử học
thì chúng tôi thấy có rất nhiều vấn đề nữa. Chẳng hạn như giới hạn của thời Hùng
Vương, ngoa truyền là 4000 năm, nhưng chúng tôi chứng minh chỉ có khoảng 2700
năm thôi. Hùng Vương thì hiện nay nhiều sách vở ngộ nhận rằng là đã có từ bốn
nghìn năm trước. Tức là 18 đời vua Hùng kéo dài khoảng 2600 năm. Thì như thế,
một đời người, một đời vua là 130 năm. Chúng tôi chứng minh rằng một đời vua có
khoảng chừng 30 năm. Như thế, thời đại Hùng Vương như sử của chúng tôi ghi chép,
bắt đầu thế kỷ thứ VII trước Công nguyên. Tức là 18 đời vua Hùng Vương khoảng
chừng năm thế kỷ là vừa. Nhiều vấn đề về chế độ chiếm hữu nô lệ trong lịch sử
Việt Nam và lịch sử thế giới, vấn đề phương thức sản xuất châu Á, rồi vấn đề
Quang Trung, những chiến công của Quang Trung, những con đường hành quân của
Quang Trung từ trong Nam ra Bắc, và rất nhiều sự kiện lịch sử này thì chúng tôi
đã chứng minh rằng nó khác với những trình bày hiện nay. Đấy là một số vấn đề mà
chúng tôi lưu ý, chúng tôi nêu ra để thảo luận.
TK: Thưa anh, ngoài những mục đích tạm gọi là "kỹ
thuật" anh vừa kể trên thì mục đích sâu xa của các anh khi cho xuất bản cuốn Đối
Thoại Sử Học là gì?
BT: Thưa chị, bỏ qua vấn đề chính trị đi thì
tựu trung lại các nhà sử học Việt Nam trong mấy chục năm qua làm được nhiều việc
tốt. Chẳng hạn như thảo luận, tranh luận xung quanh thời Hùng Vương, xung quanh
những vấn đề lịch sử của đất nước, nhưng có những vấn đề lịch sử không được thảo
luận hay là một vài người nào đó có quyền uy rồi thì cứ áp đặt lịch sử, trên cơ
sở là họ nhận những thông tin sai, hoặc là họ nhận những tài liệu sai và không
xử lý thông tin, rồi vội vàng họ tung ra, trở thành vấn đề rất lớn của lịch sử:
Áp đặt không những cho những cuốn sách lớn mà cho cả bài giảng cho học sinh nữa.
Trong cuốn Đối Thoại Sử Học, chúng tôi chứng minh là hiện nay sách
dạy cho học sinh phổ thông các cấp, người ta chỉ chủ yếu chú ý đến lịch sử của
chiến tranh. Chẳng hạn như tôi đã phân tích là: Trong 100 bài giảng cho học sinh,
nhiều khi 80 bài giảng về chiến tranh. Tất nhiên chúng tôi cũng ý thức được rằng
đất nước trải qua quá nhiều cuộc chiến, do đó nhiều khi phải giáo dục ý thức cho
học sinh về chiến tranh. Nhưng mà đến thời bình rồi thì phải dạy lại, phải giảng
lại lịch sử bởi vì không thể lấy chiến tranh mà phát triển đất nước được, phải
là hòa bình, phải là xây dựng, phải là lịch sử của kinh tế, của xã hội. Chúng
tôi chứng minh rằng không thể lấy chiến tranh để đặt lên, làm nặng nề giáo trình
được. Hiện nay, trong 32 bài viết, chúng tôi chưa thể nói hết, chúng tôi sẽ tiếp
tục làm sáng tỏ nữa.
TK: Thưa anh, theo anh những khó khăn mấu chốt
trong việc nghiên cứu lịch sử Việt Nam là những khó khăn thuộc lãnh vực nào?
BT: Tôi nghĩ rằng vấn đề khó khăn nhất của
lịch sử Việt Nam là vấn đề tư liệu. Bởi vì nó quá dài vá cái sử thành văn ngày
nay mà chúng ta có được thì lại rất ngắn và rất ít. Do đó có nhiều vấn đề còn mù
mờ lắm, cần phải cộng tác lại để nghiên cứu, để giải quyết, trong đó phương pháp
xử lý thông tin rất quan trọng vì tư liệu chúng ta rất thiếu.
Chẳng hạn như thế kỷ XV trở về trước, tài liệu Việt Nam rất khó khăn. Do đó một
số nhận định sai lầm về sử học cũng có nguyên nhân từ sử liệu và nguyên nhân thứ
hai nữa là từ phương pháp xử lý sử liệu.
TK: Với những khó khăn như thế, các anh làm thế nào
để có thể chứng minh những lập thuyết mới của các anh về lịch sử, hoặc là chứng
minh những sai lầm -nếu có- của thế hệ những sử gia đi trước, tức là thế hệ bậc
thầy của các anh?
BT: Chúng tôi xử lý các tư liệu thành văn,
tư liệu truyền thuyết và tư liệu khẩu học. Chẳng hạn như khi chúng tôi chứng
minh rằng lịch sử văn hiến Việt Nam có từ thế kỷ thứ VII trước Công nguyên,
chúng tôi có từ hai căn cứ: Căn cứ cuốn Việt Sử Lược của một học giả khuyết danh
từ thế kỷ XIV, viết rằng: Đến đời Trang Vương (nhà Chu 696-682 trước Công Nguyên)
thì có một người ở Bộ Gia Ninh có sức mạnh áp đặt được các bộ tộc khác lập thành
Hùng Vương. Cùng thời gian đó, có cái di chỉ khảo cổ học Gò Mun là di chỉ khảo
cổ đầu tiên của thời đại đồng thau ở Việt Nam. Và văn minh nhân loại gắn liền
với kim loại, kim khí, đồ sắt và đồ đồng. Đấy là việc xử lý tư liệu.
Cái thứ hai là truyền thuyết. Truyền thuyết Việt Nam rất nhiều. Chẳng hạn như
truyền thuyết Sơn Tinh Thủy Tinh. Theo tôi, Sơn Tinh Thủy Tinh không phải là làm
thủy lợi, mà đấy là phản ảnh một quá trình di chuyển về đồng bằng của dân Việt.
Hay là sự tích ba ông Đầu rau, rồi sự tích Trầu cau. Hai truyền thuyết này phản
ảnh gì? Nó kết thúc một thời đại mà một người đàn bà có thể chung sống với nhiều
người đàn ông để chuyển sang một người đàn ông có thể chung sống với nhiều đàn
bà, tức là từ mẫu hệ chuyển sang phụ hệ.
Hay là tôi nói rằng cái thế lực thủy trong Sơn Tinh Thủy Tinh là một thế lực đáng
ghét, nhưng đến chuyện An Dương Vương xây thành ốc thì Thần Kim Quy là thần nước,
lại có công, chứng tỏ rằng dân Việt tiến từ trung du về đồng bằng. Từ chỗ thỏa
mãn với rừng núi về chinh phục đồng bằng rộng lớn, có nhiều tai ương nhưng cũng
lắm kết quả. Chúng tôi kết hợp tất cả. Tóm lại, truyền thuyết nhiều nhưng nhiều
nhà sử học không xử lý được thông tin qua truyền thuyết mà bê truyền thuyết vào
lịch sử. Ví dụ, trong cuốn Lịch Sử Việt Nam của giáo trình Đại Học
Tổng Hợp, rất nhiều chương viết chúng tôi phê phán là không thể lấy truyền thuyết
làm lịch sử được. Chẳng hạn như truyền thuyết về Thánh Gióng: Không thể lôi vào
lịch sử được. Truyền thuyết chỉ là biểu trưng thôi chị ạ. Như giáo sư Đặng Thai
Mai nói rằng: Nói quá đi để vừa. Bây giờ nói ông Thánh Gióng nhỏ quá thì không
tiện mà phải nói ông rất to. Truyền thuyết chúng ta có thể đọc và hiểu nó. Nhưng
khi nghiên cứu lịch sử, việc xử lý lại khác chị ạ: Cái quan trọng là giải mã
truyền thuyết.
TK: Đấy là vấn đề xử lý lại truyền thuyết, bây giờ
xin nói đến một số dữ kiện lịch sử cụ thể đã xẩy ra. Xin anh một vài thí dụ về
vấn đề cần phải nhìn nhận lại lịch sử.
BT: Rất nhiều vấn đề. Chẳng hạn như cuộc hành quân
của Quang Trung ra Bắc năm 1789. Ông ấy đi đường nào để mà ra được Hà Nội nhanh
như vậy? Từ Huế ra Hà Nội đi bộ mất khoảng 40 ngày. Theo cách trình bầy hiện nay
thì ông ấy chỉ đi 20 ngày. Hai mươi ngày hành quân bộ, thưa chị, như thế thì một
ngày đi bao nhiêu? Sáu trăm cây số mà đi bộ như thế tức là một ngày đi 30 cây số.
Chúng tôi nghĩ rằng là thời trung đại không thể đi bộ một ngày 30 cây số được.
Các đạo quân của Napoléon và những danh tướng lừng lẫy Châu Âu, thời Quang
Trung, cũng đi bộ tối đa, ngày khoảng 5, 6 dặm tức là khoảng 15 cây số. Chúng
tôi chứng minh rằng Quang Trung đi 40 ngày, theo con đường thượng đạo từ Huế ra
Hà Nội và đúng là một ngày đi 15 cây số.
Như thế là dựa trên cơ sở sinh học của các sử liệu và địa hình nữa, bởi vì con
đường 1A hiện nay, cách đây hai thế kỷ không thể đi được: voi và pháo không đi
được bởi vì cứ 10 cây số là có một con sông. Mà sông của Việt Nam thì chị biết,
rất là bùn lầy hai bên bờ. Muốn qua sông thì phải đi ở thượng lưu, có nền sỏi.
Nhất là mùa mưa thì không thể đi đường này được. Do đó chúng tôi chứng minh rằng
con đường thượng đạo Quang Trung đi rất tốt, chứ không phải là con đường 1A hiện
nay. Bởi vì trong cái chứng minh hiện nay là đội quân này nghỉ 20 ngày ở Nghệ Tĩnh
và ở Thanh Hóa. Nghỉ 20 ngày. Tôi bảo không. Họ không nghỉ 20 ngày mà họ đi liên
tục như vậy.
Có một tài liệu dạy cho học sinh rằng quân Quang Trung hành quân, hai người cáng
để một người ngủ. Tôi đã đi cáng người nhà đi khám bệnh. Hai người cáng một người
đi vào huyện mà không thể cáng được. Cái thằng nằm trên võng cũng khổ mà hai thằng
gánh cũng khổ. Chẳng thà nằm ngủ rồi vừa đi vừa chạy còn hơn. Hay là đi qua con
đường hạ đạo 1A này, người ta dùng thuyền thúng, vừa để cáng, vừa cho voi qua
sông. Khổ quá, con voi nó to làm sao nó bước xuống thuyền được! Những thuyền gỗ
ở bên sông chỉ chở 20 người đã chìm rồi mà con voi nó nặng hơn 50 người! Rõ ràng
tất cả những cái đó phi lý, chị ạ.
TK: Thưa anh, xin trở lại vấn đề cuốn Đại
Việt Sử Ký Toàn Thư còn gọi là bản Nội Các Quan Bản, hiện nay vẫn được
lưu dụng. Cuốn này ngoài bìa có ghi rõ "Bản Chính Hòa thứ 18" tức là bản in năm
1697. Vậy bản Nội Các Quan Bản này có thực sự là văn bản đầu tiên in năm 1697 dưới
thời nhà Lê hay không? Xin anh cho biết lập luận của anh về vấn đề này.
BT: Thưa chị, "Nội Các Quan Bản" là bản của Nội Các.
Bản của cơ quan Nội Các. Khi nào có Nội Các thì khi đó mới có sách của Nội Các.
Tôi nói ví dụ như là có nhà xuất bản Thanh Niên (1956) thì mới có sách của nhà
xuất bản Thanh Niên. Tất cả các nhà xuất bản đều có niên đại thành lập. Sách này
là sách của Nội Các Huế in. Thế thì Nội Các có, mới in sách được. Mà Nội Các Huế
thành lập năm 1829, thời Minh Mạng thứ 10. Để nói rằng Nội Các này là cơ quan
của Trung Quốc, đến thời Minh Hồng Vũ, khoảng cuối 1300, bởi vì tể tướng chuyên
quyền, nên nhà Minh bỏ tể tướng, lập Nội Các. Đây là mô hình quan chế của Trung
Hoa. Ở nước ta, nhà Lý, nhà Trần, nhà Lê không lập Nội Các, mà đặt tể tướng. Chẳng
hạn như thời nhà Lê 1620 là đặt Tham Tụng. Chức tham tụng không phải là thủ tướng
đâu mà là tể tướng. Tham tụng phủ chúa là tể tướng. Tể tướng có quyền khuynh
đảo. Đến nhà Nguyễn bỏ tể tướng. Nhưng sau này, Minh Mạng theo quan chế nhà
Thanh, lập Nội Các. Nội Các nhà Thanh đứng trên sáu bộ (lục bộ). Còn Nội Các nhà
Nguyễn đứng dưới sáu bộ, là cơ quan thứ bẩy. Không có một chức Nội Các nào của
nhà Lê, mà cái này chị có thể tìm thấy trong sách Lịch Triều Hiến Chương của
Phan Huy Chú. Ông ấy chứng minh từ đầu đến cuối có hàng trăm cơ quan nhà nước,
không có một cơ quan nào là Nội Các cả. Các tác giả như Đào Duy Anh, Nguyễn Hùng
Cường hay rất nhiều nữa, cả Đặng Xuân Bảng, tất cả đều chứng minh Nội Các có từ
1829. Nhà Nội Các Huế cho in cuốn sách này lại để sử quán nhà Nguyễn viết Khâm Định
Việt Sử Thông Giám Cương Mục, bộ chính sử của nhà Nguyễn. Điều đó rất rõ.
Tóm lại không có Nội Các thì không có sách của Nội Các. Bởi vì chưa có nước Pháp
thì không thể có sách của nước Pháp được. Đấy là cái lý niên đại mà các nhà sử
học không thể khinh xuất.
TK: Trước khi từ giã, xin anh một câu hỏi chót là
có dư luận sử học trong nước cho rằng cuốn Đối Thoại Sử Học chỉ
tập hợp những chỉ trích một chiều, thiếu tính cách đối thoại. Anh nghĩ sao về
nhận xét này?
BT: Nói chung thì cuốn sách này, chúng tôi chỉ làm
sáng tỏ vấn đề lịch sử bị ngộ nhận. Tiếc rằng trong cuốn sách này, chúng tôi
không đủ tiền để đưa vào phụ lục, những luận điểm của họ ra, để chúng tôi đối
chứng, tức là thêm những bài viết của họ. Chúng tôi đương dự định là trong thời
gian sắp tới, sẽ in tiếp, hoặc là tập II, hoặc là bổ sung thêm cuốn sách này,
khoảng chừng 50 bài viết và đưa vào khoảng chừng 500 trang phụ bản của những bài
viết của các tác giả được đối thoại, để cho bạn đọc có cái đối chứng. Và thưa
chị thì khoa học là một sự cọ sát. Càng ngày, các quan điểm khác nhau ra nhiều
hơn, nhưng cái thống nhất nó cũng lớn hơn.
TK: Xin cám ơn anh Bùi Thiết.
Thụy Khuê thực hiện
© Copyright Thuy Khue 1999
|