Thụy Khuê
Phòng triển lãm mùa
đông của Thơ Thơ
Phòng triển lãm mùa đông
gồm mười bốn truyện ngắn, thì ít nhất có đến tám truyện
đặc sắc, trường hợp đặc biệt đối với một tác phẩm
đầu tay. Những nét đặc sắc này toát ra ở không khí khác
thường của tác phẩm, như trong các truyện Vườn lan,
Mùa hè ... từng đoạn ngắn, Phòng triển lãm mùa đông, Lời
chia tay cuối, Một nơi để viết. Hoặc đến từ môi
trường bình thường, gần như tầm thường của cuộc sống
hàng ngày, mà tác giả đã vắt ra được những cái bất thường,
như trong các truyện Sơn, Nhà trẻ, Ðộ đau của máy,
v.v...
Vườn lan đưa người
đọc vào không khí truyện ngắn của Thơ Thơ. Không khí ấy,
trước tiên là gì? Là một khoảng không gian và thời gian
bất định. Thơ Thơ đi từ một thực tại trong ký ức để
tạo ra một không gian phi ký ức, không gian hư cấu. Vườn
lan ở đây chẳâng phải là vườn lan không có thật, cũng
không phải là vườn lan có trong thực tế cuộc sống (ví
dụ một vườn lan ở gần Sài Gòn, gần Hà Nội, hay ở bên
Cali) mà là một vườn lan hư cấu, được nhà văn tạo ra
từ thực tại ký ức. Thơ Thơ đã nắm bắt được bản chất
của hư cấu và của sáng tạo. Những không khí truyện của
Thơ Thơ vừa có âm hưởng mờ ảo huyền thoại, lại có tính
chất thật thà, trong sáng như chính bản thân tác giả.
Vườn lan là một truyện
về hoa lan, nhưng trong Vườn lan ẩn nhiều hồng
tâm khác, có đam mê, có ghen tuông và đằng sau đó là cái
chết. Tất cả những yếu tố đó được nhà văn đặt trong
bối cảnh vườn lan của một ký ức xa xôi, có thể đến
từ suối Ða Mê, Ðà Lạt, với Nhất Linh, trong tiềm thức.
Vườn lan che dấu một truyện tình thầm kín giữa cô gái
tên Hiền và chú Tường, bạn của ba nàng. Vườn lan gói trọn
những đam mê tha thiết nhất của hai chú cháu về một cõi
lan có đóa Vanda, mầu rêu hiếm quý, hay là cõi sáng tạo,
vừa huyền ảo, vừa ma quái, hớp hồn những kẻ đam mê cái
đẹp. Nó mang những cánh hoa, hình môi, có thể "biến dạng
ra một con bọ, với cái đầu quá khổ, trán thấp, cằm bạnh,
đôi mắt tròn xoe nhìn tôi chằm bằm. Nó là con sâu, mặt
khỉ, khoác lên mình cánh bướm nhung mượt mà huyền ảo."
(trang 22)
Vườn lan có sắc thái địa đàng
nhưng đầy cạm bẫy, những đóa lan tuyệt đẹp có thể đã
hóa thân từ một thứ quái vật khủng khiếp như con sâu ma
quái trên đây. Cái đẹp phải chăng đã thoát xác từ một
tiền thân gớm ghiếc và sự đam mê nào cũng chứa nhiều
độc dược có thể đưa ta vào cõi chết, như cái chết của
chú Tường?
Vườn lan mở cửa vào không khí
truyện ngắn của Thơ Thơ: tất cả đều là phác họa nhưng
là thứ họa phác nhiều chân dung chập chùng trong một, là
lớp khói sương nhưng khói sương phủ che những hình hài kỳ
dị đầy ma lực quyến rũ.
Mùa hè ... từng đoạn ngắn
có
thể đã khởi đi từ những bức tĩnh vật của Cézanne, rõ
hơn là từ những trái táo của Cézanne:
"Ðó là lúc chín nhất
của mùa hè. Những trái táo bắt đầu căng mật. Từ trong
lá cây thoảng ra những ngọn gió màu xanh thẫm. Mẹ lúc đó
chưa đến bốn mươi, mặc áo màu nhạt cho đỡ nóng, trước
ngực đeo chiếc yếm bằng vải những khi làm việc ngoài vườn.
Tôi rất yêu chiếc yếm ấy, nó màu hồng lợt, có thêu những
cái gầu tưới nước, và vài dụng cụ làm vườn khác, máng
trên hàng rào gỗ lưa thưa dưới gấu.
Lúc đó mẹ mới từ vườn vào.
[...] Dáng đứng uể oải cắt lên khung cửa, tạo thành một
mảnh tối ngăn giữa khu vườn và màu đỏ của những quả
táo.
Ðó là giây phút đẹp nhất của
mùa hè.
Những quả táo nằm nổi bật
trên nền đĩa lam, cạnh một bình hoa vàng -hoặc đĩa xanh
chuối non nếu hoa màu tím phớt..., những màu sắc và trang
trí có thể thay đổi, nhưng chủ đề chính vẫn luôn luôn
là táo. Nhìn những quả táo có thể đoán được bước đi
của mùa hè." (trang 37)
Không thể là một cảnh thực mà phải
là một cảnh trong tranh. Nhưng cũng không hẳn như thế, có
lẽ là một cảnh từ tranh đi ra, "trải đầy những ý tưởng
Cézanne" và có bàn tay Thơ Thơ vẽ lại mà lại chuyển động
như một cuốn phim. Mẹ ở đây rất mơ hồ, trong hồi ức
hay trong tranh bước ra? Thời gian của mẹ được xác định
bằng những trạng từ bất định: Lúc đó... Lúc đó... Mẹ
mặc yếm hồng như người đàn bà mặc tablier trong tranh Cézanne
chăng? Chúng ta có thể đoán rằng mùa hè và vườn táo ở
đây, được dựng lên từ một studio nhỏ, ở tầng lầu thứ
mười một, trong một building hơn một trăm tầng, với cây
dừa nhỏ ở bao lơn và những trái cây đỏ chắc là ở trong
tranh nên không bao giờ ủng thối, và một chiếc bình pha lê
đựng chất tinh táo. Tất cả những chất liệu "thật" ấy
đã giúp tác giả dựng lên và sống lại, những mùa hè xưa,
thần tiên với mẹ, mà người mẹ ấy không biết đã đi
rồi hay vẫn còn tại thế, mẹ ở trong một không gian mơ
hồ hay một trần gian nào khác?
Tính chất thơ mộng ở đây không
toát ra từ văn phong mơ mộng, chĩu nặng tình cảm như trong
cách viết lãng mạn cổ điển, mà toát ra từ sự hòa trộn
một cách nghệ thuật và bí mật giữa các yếu tố thật
và ảo, bất động và chuyển động, giữa tranh và người,
dĩ vãng và hiện tại. Giọng văn dật dờ như những đợt
sóng càng làm tăng thêm nhịp chuyển và nhịp mơ như một
giao lưu thuần túy giữa hội họa và cuộc sống, giữa thực
tế và tưởng tượng.
Phòng triển lãm mùa đông
cũng xây dựng trên những bức tranh trong một phòng triển
lãm bụi bậm, phong rêu nào đó, chẳng biết có thực hay trong
tiềm thức, những bức tranh đều bị phủ kín như "mạng
che mặt của người đàn bà Trung Ðông". Chất huyền ảo toát
ra từ những bức tranh do một nhân vật liêu trai huyền bí
vẽ: chị. Nàng là ma hay là người? Nàng còn sống hay đã
chết? Nàng không bao giờ thành công với chân dung của chính
mình. Sao tay nàng lúc nào cũng "lạnh ngắt" và "ướt đẫm
mồ hôi"? Phòng triển lãm mùa đông là lịch sử một chuyện
tình, một đam mê tuyệt đối của người nghệ sĩ, người
ấy đã chết vì muốn thể hiện tác phẩm của đời mình:
"Chị sẽ vẽ một bức tranh màu nước hồ, màu này không
ai pha được, phải lấy từ chính nước hồ này" (trang
56), hay nàng đã chết vì tuyệt vọng, vì không tìm thấy tâm
hồn tri kỷ? Ngoài nghệ thuật, đời chị có hai mối tình:
người yêu và người cha. Người yêu (họa sĩ) đã không vẽ
nổi chân dung của nàng, hay đã không tìm được phần tâm
hồn khuất dấu thầm lặng của nàng để vẽ nên tranh. Hình
như anh ta chỉ vẽ được chân dung chính mình qua diện mạo
nàng mà thôi. Ở đây có sự không thông cảm, không hiểu
người mình yêu, trong không gian này.
Người cha yêu thương và quý trọng
nàng đã phũ phàng kiểm soát tự do của nàng ở hai ngưỡng
cửa thiêng liêng nhất: yêu đương và nghệ thuật. Tình yêu
nghẹt thở của người cha, không dưỡng khí, không mơ mộng,
không hão huyền, đã giam nàng, trong không gian này.
Và một đêm, nàng tìm cách vượt
biên, vượt không gian tù hãm của "không hiểu", "không thông
cảm" để đi trên một con đường khác, con đường trên bức
tranh, con đường của sáng tạo, của mờ ảo, của hình như,
của lân tinh, của giải thoát... Con đường không còn không
nữa. Phòng triển lãm mùa đông là một trong những truyện
ngắn hay nhất của những người viết trẻ trong mấy năm
gần đây và nó xác định Thơ Thơ như một nhà văn đích
thực. Thơ Thơ đã vẽ một truyện đời lên tranh qua ngả
ký ức rồi từ tranh, rút ra những đam mê, những đớn đau,
tuyệt vọng của kiếp người.
Trong truyện ngắn Lời chia tay
cuối, những đớn đau phát xuất từ một ca khúc, những
chết chóc khởi đi tự âm thanh của đời. "Chúng tôi đứng
ngoài nhìn vào, những bức tranh trong căn nhà cuối cùng anh
ở đã trổ ra những cánh cửa vòm trời. Gió lật xành xạch
những trang nhạc. Về đêm, tường trong phòng vọng lại những
âm vang thu được của ngày, tiếng xôn xao của người, tiếng
ồn ào của ngõ, tiếng lào rào của lá đã lẩn trốn vào
đây ... Từ bốn góc phòng đồng thanh trổi dậy những dòng
nhạc ưu phiền, thì ra tất cả những bài ca trong bao nhiêu
năm tháng đã lưu trữ vĩnh viễn ở đó, trong những vách
tường tưởng là câm lặng." (trang 95)
Ai đã từng đến nhà Trịnh Công
Sơn sẽ cảm nhận được phần nào dòng nhạc "lưu trữ vĩnh
viễn" trổi dậy từ bốn vách tường. Ai đã từng đặt chân
lên mảnh đất Việt Nam sẽ hiểu được rằng: "Ðất ở
đây độc lắm, bao nhiêu người ra đây rồi chết ở đây.
Ðất cùng lúc mở ra những vết thương cũ, bề mặt sần
sùi của đất vỡ toác như da thịt người." (trang 96)
Lời chia tay cuối có thể là lời
chia tay với Trịnh Công Sơn, mà cũng có thể là lời tạm
biệt một du ca, một lãng tử, một thi nhân, tạ từ một
thành phố.
"Ðường phố đã đổi
tên mà tôi không hay, mỗi con đường hóa thành một ca khúc
của anh. Trong một góc công viên, chợt rực lên một vùng
còn nắng, khác hẳn nơi chúng tôi đứng, những cánh chim bay
không mỏi mệt, bay từ nắng qua mưa, từ thu vào hạ, từ
xuân đi ngược về đông. Cuối cùng một đám sương đục
bay lùa đến, không còn nhìn thấy gì nữa." (trang 94)
Chất thơ trong văn ở đây, chẩy từ
vô thức đem theo những hình ảnh vô thường: chim bay từ nắng
qua mưa, từ thu vào hạ, rồi mỗi con đường lại luân hồi
trở thành một ca khúc, ca khúc tâm tưởng chuyển tả
một thực tại, trên thực tế, ngoài thực tế, thực tại
siêu thực cực kỳ đớn đau; nói lên những đổ vỡ sâu
xa, những mất mát không cứu vãn được trong cuộc sống "đổi
đời", mà tryện ngắn Sơn đã khắc họa qua bút pháp hiện
thực.
Vẫn trong địa hạt hiện thực,
Nhà trẻ và Ðộ đau của máy viết
về những đớn đau của con người trong xã hội Mỹ, đất
nước cực kỳ tiên tiến với tất cả tiện nghi khó tìm
thấy ở bất cứ nơi nào trên trái đất. Nhà trẻ, như tên
gọi, là nơi cha mẹ gửi con để đi làm. Ở đây, mọi tiêu
chuẩn đạt mức tối đa: Mỗi cô giáo trông nom nhiều nhất
là mười hai đứa bé. Mỗi đứa nhỏ được thay tã một
ngày bốn lần v.v... Ðó là những tiện nghi bề mặt. Dưới
bề mặt đạt tiêu chuẩn này là một bề sâu không đáy,
bề sâu u tối của con người: Bà giám đốc nhà trẻ sử
dụng phương pháp triệt để đối với những đứa bé khó
dậy. Cô giáo Lynn cố gắng đem lại chút tình thương cho lũ
trẻ. Nhưng chính cô giáo Lynn cũng lại có những dồn nén
riêng tư, và một ngày, không nén được, cô đã trút hết
những ẩn ức dục tình lên đầu đứa trẻ năm tuổi. Nhà
trẻû thám hiểm những ngõ ngách kỳ dị của con người mà
bất cứ cơ chế xã hội nào, được gọi là văn minh, đỉnh
cao tiến bộ, cũng không thể điều tra, kiểm soát được.
Ðộ đau của máy trực
tiếp đi vào khung cảnh căng thẳng của đời sống Mỹ, nơi
mà tất cả đều được cân, đo, chỉnh lý bằng những đạo
luật, bằng máy móc tân kỳ, bảo đảm tuyệt đối không
thể sai lầm, không hề có bất công, không thể có căn bệnh
xã hội nào mà cường quốc tối ưu này không có phương pháp
chữa trị. Vấn đề ở đây là Trợ tử, Euthanasie, đối
với những người mà y học đã bó tay. Họ có quyền nhờ
người khác trợ giúp để tự kết liễu đời mình được
không? Nước Mỹ với những phát minh khoa học tân kỳ và
một thể chế chính trị cực kỳ dân chủ, một bên là đạo
luật Trợ tử và Ân sát được đưa ra bàn cãi trước quốc
hội, một bên là các bác sĩ chuyên môn đưa ra những máy
móc tân tiến nhất để đo độ đau của con người. Tác giả
đã vẽ được một cách chính xác không khí sôi nổi, nóng
bỏng của xã hội Mỹ mà tất cả đều đưa ra ánh sáng.
Tất cả đều tỏ rõ mồm một, chỉ trừ mỗi một chi tiết:
trong những hoan hô, đả đảo, biểu tình, hội luận, báo
chí, truyền thanh, truyền hình, mọi người đều quên mất
một điều là "cái đau là sở hữu duy nhất không ai đánh
cắp được của con người" (trang 168). Ðộ đau, không máy
nào đo được, chỉ có thể cảm nhận mà không thể truyền
đi, nó là một sản phẩm vô tính, vô hình, vô thể, vô lượng,
vô lường. Như cô đơn, nó mang hai yếu tính: hư vô mà hiện
hữu, nó là sở tại của con người, còn sống.
Truyện ngắn sau cùng Một nơi
để viết, Thơ Thơ đã "tiểu thuyết hóa" hành trình
sáng tạo, mổ xẻ, tìm hiểu hành động viết của mình như
thế nào: tất cả tập trung trong một căn phòng như một thứ
"tòa soạn" hay "sân khấu" ở trong óc. Căn phòng này có hai
cửa chính: một cửa dành cho nhân vật, một cửa mở vào
đời. Tác giả không có quyền gì mấy trong căn phòng này,
tác giả chỉ là một loại script (thư ký), ghi nhận những
gì nhân vật muốn nói. Và nhân vật cứ tự do vào, khi có
điều muốn nói, cũng như tự do ra, khi đã nói xong. Trong "tòa
soạn" này, chủ bút, nhân vật, tác giả không ngừng thảo
luận, thay đổi, thêm bớt, phê bình, bàn bạc để tìm lối
thoát cho mạch truyện và cho nhân vật. Ðây là một đoạn
đối thoại giữa ông chủ bút và nhà văn:
- Viết là một hành động đi
tìm, có thể anh sẽ phải lang thang, có thể anh đi lạc vào
rừng, nhưng đó là cách duy nhất để tìm ra.
- Nhưng nếu tôi không thoát ra khỏi
khu rừng được?
- Hãy tưởng tượng. Tưởng tượng
sẽ giải thoát chúng ta khỏi những ràng buộc cụ thể nhất.
Tưởng tượng sẽ dẫn anh vào những chỗ chưa ai biết đến,
anh chưa biết đến. Và anh phải liều lĩnh, dám đi vào những
chỗ xa lạ đó . (trang 175)
Một nơi để viết là một
thử nghiệm bút pháp và tư tưởng rất mới lạ, nó tập
hợp nhiều hành động sáng tạo trong một: người viết, người
đọc, nhân vật, tưởng tượng và thực tế. Ðó là "nơi
để viết", nó thu thập tất cả những thông tin mà "đầu
não" nhận được, rồi từ đó truyền đi, nhào nặn lên những
cảnh huống, những nhân vật. Viết ở đây được quan niệm
như một thao trường mà người viết chỉ là một scripteur;
cho nên, nếu không sống thì không viết được, vì thiếu
thông tin; nếu không tưởng tượng thì không viết được,
vì thiếu phiêu lưu, mạo hiểm, sẽ lăn vào cõi bí. Do đó,
sống và tưởng tượng là hai yếu tố tiên khởi và nòng
cốt nuôi dưỡng bộ não tòa soạn để xuất bản ra văn chương
nghệ thuật.
Có thể nói Thơ Thơ là một trong
số rất hiếm nhà văn đã tìm được đường đi của mình
trong tình trạng bế tắc chung hiện nay. Ðường đi xuất phát
từ sự tự hỏi, tự tra vấn hành động viết của mình,
và từ đó Thơ Thơ sử dụng những hành trang: ký ức, tưởng
tượng như những chất liệu quý giá và dồi dào nhất. Khi
đã nắm vững được cơ cấu của sáng tạo, người nghệ
sĩ không thể bí, vì bất cứ từ đâu họ cũng có thể tìm
ra lối đi của sáng tạo. Thơ Thơ đã đi từ tuổi thơ, từ
những bi kịch của gia đình, để viết những truyện ngắn
đầu tiên, gồm những đoản thiên nhẹ nhàng, dựa vào hồi
ức (trong Mùa xuân trắng, Ba sẽ về ngày mai, ...), rồi tiến
xa hơn nữa, nghệ thuật hơn nữa, Thơ Thơ đi từ màu đỏ
táo trong tranh Cézanne, từ những bức ấn tượng hồ nước
của Monet, từ một bài ca, từ một lớp sơn, từ một vườn
lan, từ một nhà trẻ, từ một căn phòng bệnh viện ... và
như thế, tất cả những gì trong cuộc sống tầm thường
nhất, đơn sơ nhất cũng có thể thúc đẩy nhà văn sáng tạo
về những chủ đề ray rứt nhất của con người, như đam
mê, ẩn ức dục tình, nghệ thuật, sống và chết ... bằng
một nghệ thuật độc đáo mà thơ, văn, nhạc, họa cùng gặp
nhau trong tác phẩm của Thơ Thơ.
Paris tháng 9/2002
Thụy Khuê
---------
Phòng triển lãm mùa đông,
tập truyện của Thơ Thơ, Văn Mới, California 2002.
© Copyright Thuy Khue 2002