Thụy Khuê Khảo sát công trạng của những người Pháp giúp vua Gia Long
Chương 14
Maybon và cuốn Histoire moderne du pays d'Annam
Hai vị học giả Pháp có những công trình nghiên cứu văn hoá Việt đáng trọng là Maybon và Cadière; tiếc thay, cũng lại là những người, đã tế nhị và sâu sắc, tìm cách thay thế công lao thống nhất và dựng nước của Gia Long cùng tướng sĩ, quần thần, bằng công trạng của Bá Đa Lộc và những "sĩ quan" Pháp. Maybon và Cadière đã cộng tác đắc lực với nhau để tạo cho huyền thoại công trạng "khai quốc công thần" của Bá Đa Lộc và những người Pháp đến giúp Gia Long, một cơ sở có "chứng từ" và "biện luận". Trong bài diễn văn tựa đề Une Histoire moderne du pays d'Annam (Một cuốn lịch sử hiện đại nước Nam), đọc tại đảo Réunion ngày 20/4/1920[1], Cadière ca tụng tác phẩm của Maybon bằng những hàng: "Một trong những đồng nghiệp của chúng tôi, ông Charles B. Maybon, Giám đốc trường Pháp của thị xã, ở Thượng Hải, vừa cho in, dưới cái tựa trên đây, một tác phẩm quan trọng hàng đầu; qua tác phẩm này, ông đã phấn đấu cam go để đoạt chức tiến sĩ văn chương. Các thành viên trong Hội Đô Thành Hiếu Cổ sẽ tìm thấy một tóm lược cốt yếu tất cả những dữ kiện thuộc về lịch sử nước Nam trong thời kỳ mà tác giả hoạch định, những chỉ dẫn có phương pháp và chi tiết trên tất cả mọi tư liệu, cả về phiá bản xứ cũng như Âu Châu, làm nền cho lịch sử này, và sau cùng, một số chi tiết lớn lao liên quan tới những biến cố đã lấy Huế làm đất diễn, và, do dó, là một kho dồi dào phong phú cho những nghiên cứu đặc thù. Vì tất cả những lý do đó, tác phẩm kiệt xuất này xứng đáng được giới thiệu"[2]. Một lời giới thiệu nhiệt liệt đề cao như thế, ở một học giả nổi tiếng là thận trọng như Cadière, buộc chúng ta phải đọc. Cuốn sách có tựa đề đầy đủ là: Histoire moderne du pays d'Annam, (1592-1820), étude sur les premiers rapports des Européens et des Annamites et sur l'établissement de la dynastie annamite des Nguyễn (Lịch sử hiện đại nước Nam (1592-1820), khảo luận về những giao tiếp đầu tiên giữa người Âu và người An Nam và về sự xây dựng triều đại An Nam nhà Nguyễn)[3]. Tên sách đã nói rõ nội dung: tác phẩm chia làm hai phần, nhưng phần sau quan trọng hơn phần đầu. Và trong phần hai "sự xây dựng triều đại nhà Nguyễn", giai đoạn Gia Long dựng nghiệp là chủ yếu, nổi bật chân dung hai người: Gia Long và Bá Đa Lộc, Maybon đã dành cho Bá Đa Lộc hai chương và đúng như nhận xét của Cadière: "chân dung Bá Đa Lộc được viết kỹ hơn, với niềm thân quý hơn". Linh mục học giả viết tiếp: "Tôi khuyên độc giả Pháp, những người hiếu kỳ muốn biết về quá khứ An Nam và hãnh diện về những gì chúng ta đã làm được ở đây, nên đọc chương tựa đề: "Concours apporté par l'évêque au prétendant" (Sự hỗ trợ của vị giám mục cho người chiếm lại ngôi báu): một tâm lý học sâu sắc nhất liên kết với sự sử dụng văn bản một cách khôn khéo và uyên bác nhất (la psychologie la plus pénétrante s'y allie à la plus sage et à la plus habile utilisation des textes)[4]. Vì vậy, chúng tôi đã phải đọc kỹ chương sách quý hóa này, thứ nhất là để hiểu thế nào là một tâm lý học sâu sắc nhất liên kết với sự sử dụng văn bản một cách khôn khéo và uyên bác nhất. Và thứ hai là để giới thiệu đến độc giả Việt Nam, cũng hiếu kỳ muốn biết về quá khứ An Nam lắm, thế nào là sự liên kết "một tâm lý học sâu sắc nhất" với "sự sử dụng văn bản một cách khôn khéo và uyên bác nhất", trong tác phẩm của Maybon. Trong chương 5, Ai cứu Nguyễn Ánh khỏi sự lùng bắt của Nguyễn Huệ, chúng tôi cũng đã trình bầy phương pháp "sử dụng văn bản một cách khôn ngoan và khéo léo" của sử gia Maybon để "chứng minh" Bá Đa Lộc đã "cứu Nguyễn Ánh thoát chết" tháng 9-10/1777, như thế nào. Ở đây, không trở lại vấn đề này nữa, mà sẽ xoay vào hai đề tài chính của chương Concours apporté par l'évêque au prétendant (Sự hỗ trợ của giám mục cho người muốn chiếm lại ngôi báu) đó là: 1- Maybon "chứng minh" Bá Đa Lộc "tự tìm những nguồn tài trợ cho Nguyễn Ánh" như thế nào? 2- Maybon "chứng minh" Bá Đa Lộc "trực tiếp đánh nhau với Tây Sơn ở Diên Khánh năm 1794" bằng những chứng cớ gì? 3- Còn một đề tài nữa trong sách này là Maybon "chứng minh chiến công lừng lẫy của Dayot trong trận Thị Nại 1792", sẽ được trình bầy trong chương 19, Jean-Marie Dayot. Trước khi đi xa hơn, chúng tôi mong được thứ lỗi việc đi vào chi tiết, đôi khi quá sâu, của một lập luận, rất dễ khiến độc giả bực mình, nhưng cần thiết để vạch trần hệ thống ngụy biện có tổ chức, dựa trên sự lờ đi hoặc che giấu những tư liệu gốc bằng thứ "tư liệu" dựng đứng, man trá, bịa đặt, để xoá sự thực lịch sử và thay thế vào đó một "lịch sử khác". Cũng là một cách mổ xẻ thủ pháp của sử gia Maybon trong cuốn Histoire moderne du pays d'Annam.
Louis XVI bãi bỏ hiệp định Versailles Trước khi mổ xẻ thủ pháp viết sử của học giả Maybon, để độc giả dễ dàng theo dõi, chúng tôi cần nói rõ tiến trình chính phủ Pháp bãi bỏ hiệp định cầu viện Versailles. - Ngày 28/11/1787, hiệp ước cầu viện được ký kết ở Versailles giữa giám mục Bá Đa Lộc và Bá tước de Montmorin, Bộ trưởng Ngoại giao của vua Louis XVI. - Ngày 2/12/ 1787, Bộ trưởng Hải quân (Thống chế de Castries) gửi cho Toàn quyền Pháp ở Ần Độ (Bá tước de Conway, đến Pondichéry tháng 9/1787) và cho Hiệp sĩ d'Entrecasteaux (Toàn quyền Pháp ở Ille de France, tức Ile Maurice, một lệnh thư tương tự), đó là hai người có trọng trách điều động đoàn quân viễn chinh từ hai nơi này sang Việt Nam. Lệnh gửi de Conway như sau: Ngày 2/12/1787 "Thưa ông, vua đã quyết định trợ giúp vua Nam Hà, kẻ được giám mục Adran về Pháp cầu vua nhân từ cứu giúp. Hoàng Thượng quyết định giao cho ông chỉ huy cuộc viễn chinh và cai quản việc thiết lập thuộc địa sau đó. Ý người rất rõ qua Chỉ dụ đính kèm: Một, công khai, tùy ông, thận trọng mà áp dụng, một, bí mật. Chỉ thị bí mật cho ông toàn quyền làm chủ, bỏ hẳn việc tiến quân hay làm chậm lại, tuỳ theo ý kiến riêng của ông, tùy theo những thông tin tài liệu mà ông đã và sẽ nhận được, cả về mặt chiến thắng dễ dàng, lẫn mặt những lợi điểm thiết lập thuộc địa đã trù liệu. Điều này chứng tỏ Hoàng Thượng hết sức tin cậy vào sự sáng suốt và hết lòng của ông"[5]. Ngày 18/5/1788, Bá Đa Lộc và Hoàng tử Cảnh về tới Pondichéry. De Conway không chịu xuất quân, bởi Louis XVI đã cho ông toàn quyền quyết định: thắng dễ dàng mới đánh. De Conway dò thám tình hình, lượm những thông tin hoàn toàn sai lạc về Nam Hà, cho rằng đất này vô bổ, Anh, Hoà Lan không thèm chiếm, cuộc viễn chinh không mang lại lợi lộc gì cho nước Pháp, việc này sẽ nói rõ hơn ở dưới. Nhưng Bá Đa Lộc không hề biết Louis XVI đã cho de Conway toàn quyền quyết định đánh hay đừng, mà vẫn tin rằng sự tiến quân chỉ bị chậm trễ, vì Conway chống ông, cho nên, một mặt giám mục viết thư tố cáo hành động trì trệ của de Conway với Bộ Trưởng Ngoại Giao de Montmorin, và khẩn khoản xin Bộ trưởng can thiệp; một mặt ông viết thư cho de Conway, xin được về Nam Hà trước, để: - Báo cho Nguyễn Ánh biết là hoàng tử đã về tới nơi an toàn nhưng việc gửi viện binh bị chậm trễ vì không thuận gió mùa. - Quan sát tình hình và hoạch định chương trình đổ bộ. - Thuyết phục Nguyễn Ánh sang Pondichéry, để, một mặt, làm áp lực trên de Conway, buộc ông ta phải quyết định gửi quân, và thứ hai, nhờ Nguyễn Ánh dẫn đường cho quân Pháp đổ bộ vào các cửa biển, vì ông không biết gì cả, ông đã bị de Conway hoạnh hoẹ dữ dội về việc này. Hành động của Bá Đa Lộc được phản ảnh trong các thư ông viết, sau đây: 1- Trong thư ngày 20/5/1788 gửi một người, không ghi rõ tên, nhưng qua nội dung thì biết đó là bá tước de Montmorin, Bộ trưởng, người đã ký hiệp ước Versailles, Bá Đa Lộc viết: "Tôi phải cực nhọc lắm mới làm ông de Conway quyết định gửi cho vua Nam Hà những tin tức mà tôi muốn, đó là: hoàng tử trở về bình an khoẻ mạnh, sự thành công của chuyến đi, lý do khiến cho viện trợ của Pháp hoàng không gửi kịp năm nay, và sau cùng, là thời gian và phương tiện sẽ dồn vào để gửi viện trợ cho vua Nam Hà năm tới. Tôi đã đề nghị với ông de Conway, là để tôi thân hành đi [Nam Hà] nhưng ông ấy không thuận. Tôi đành phải gửi theo chiến hạm, một giáo sĩ Nam Hà[6] được nhà vua tin cậy, cùng với những người thông ngôn bản xứ"[7]. Đó là thư báo động đầu tiên, Bá Đa Lộc còn gửi nhiều thư nữa, tố cáo sự "phá đám" của de Conway mà ông cho rất bất lợi cho nước Pháp. De Conway trả lời tất cả những tấn công của Bá bằng câu: "Tôi chỉ thi hành mệnh lệnh của vua", khiến vị giám mục càng điên tiết. Trong thư viết ngày 14/6/1788, cho de Conway, sau khi trách Bá Tước tìm hết cách chậm trễ lệnh vua Pháp, Bá Đa Lộc viết: "Nhân danh Vua và là Khâm sai của Người bên vua Nam Hà, tôi đòi hỏi những phương tiện để có thể tiếp tục con đường trên chiếc trung hạm (frégate) đã đưa tôi từ Pháp về đây, để tôi thân hành về lại các nơi [thị sát] và bảo đảm cho cuộc tiến binh trong năm tới. Vì những lý do ông cũng hiểu, ta nên thêm vào một tiểu hạm (corvette) nữa, nhưng điểm này để ông thận trọng quyết định, tôi chỉ đòi hỏi một chiếc tầu Dryade. Thưa Bá Tước, nếu ông chấp nhận những điều tôi hân hạnh đề nghị với ông, để cho họ tin, thì xin ông viết cho một văn bản ký tên, tuyên bố rằng ông không thể thi hành lệnh của vua [Pháp] trong năm nay, cho nên mới cử tôi thân hành về trước xem xét mọi việc, và tìm vua Nam Hà, nếu được, dẫn ông ấy sang đây. Thưa Bá Tước, đó là phương tiện cuối cùng trong thẩm quyền của tôi. Tôi phải vội vàng nắm lấy vì danh dự của Hoàng Thượng và vì quyền lợi của nước nhà. Nếu ông có những lý do để từ chối, thì ông, một người quá công bằng, không thể không cho tôi biết bằng văn bản. Ông cũng rõ việc tôi phải trình báo mọi sự với Triều đình [Pháp] và bảo đảm rằng tôi đã không sơ xuất trong việc đáp ứng lòng tin mà Triều đình dành cho tôi."[8] Trước hết, Bá Đa Lộc nói lý do muốn về Nam Hà, trên tầu Dryade, và nếu có thể, yêu cầu de Conway gửi thêm một chiếc tầu nữa về cùng, để ông thân hành lo việc tổ chức cho cuộc đổ bộ, và đón Nguyễn Ánh sang Pondichéry. Sau đó, ông đe dọa de Conway, nếu không làm thì cũng phải viết rõ trên giấy trắng mực đen vì lý do gì mà không làm. Nhưng de Conway, đã quyết định không xuất quân, nên không muốn đón Nguyễn Ánh sang Pondichéry. 2- Trong thư viết ngày 11/7/1788, gửi de Conway, Bá Đa Lộc nói việc gửi quân trong năm 1788, tới tháng 7 là quá trễ, vì gió mùa không còn thuận nữa, phải đợi năm sau, vì vậy, ông lại khẩn khoản xin Conway, lần nữa, cho ông về trước, để giải thích với triều đình Nam Hà sự chậm trễ này: "Về phần tôi, sau bài học kinh nghiệm kiểu này, nếu tôi để cho người khác đi thay, tôi không tin là họ có thể biện minh được trước Triều đình [Nam Hà] mà chỉ có tôi mới chắc chắn làm được. Ngoài ra, tôi thấy mình không xứng đáng với trọng trách mà vua [Nam Hà] giao phó, nếu tôi bình thản ở yên nơi này [Pondichéry], thay vì đi một chuyến, quả thực sẽ vất vả cho tôi, nhưng cần thiết cho sự phục vụ nhà vua. Vì lẽ đó, thưa ông Bá Tước, một lần nữa tôi xin ông chấp nhận những điều mà tôi đã hân hạnh trình bầy với ông trong lá thư đầu, dám mong ông đừng chần chờ quyết định nữa. Nếu ông bằng lòng để tôi đi Nam Hà với những phương tiện và mục đích mà tôi đã hân hạnh trình bầy với ông, tôi sẽ cho ông biết những mưu kế (des ressources), mà chỉ mình tôi mới có, để làm cho chuyến đi này hữu ích" [9]. Câu: "tôi sẽ cho ông biết những mưu kế (des ressources), mà chỉ mình tôi mới có, để làm cho chuyến đi này hữu ích", được rõ nghiã qua câu viết ở trên: nếu tôi để cho người khác đi thay, tôi không tin là họ có thể biện minh được trước Triều đình [Nam Hà] mà chỉ có tôi mới chắc chắn làm được. Tức là: Bá Đa Lộc xin về Nam Hà để biện minh trước triểu đình. Biện minh về việc gì và như thế nào, thì phải đọc lá thư ông viết cho de Montmorin ngày 16/7/1788, trong đó ông nói rõ, nguy cơ: nếu Pháp không đổ bộ ngay thì Bồ và Anh sẽ không ngần ngại làm việc này, như thế Pháp sẽ mất hết quyền lợi và thuộc điạ ở Nam Hà. Vì vậy, ông phải đích thân về Việt Nam, thuyết phục triều đình Nam Hà nên đợi viện binh của chính phủ Pháp, đừng theo bất cứ nước nào, ông viết: "Câu trả lời của ông ta [de Conway], như thể việc này vượt quá thẩm quyền của tôi, luôn luôn là: Ông ta chỉ tuân theo lệnh vua và không thể tiết lộ gì thêm cho tôi biết. Tôi đã hết sức nài nỉ, rằng nếu ông ta coi thường những điều tôi đề nghị, thì ông ta sẽ không thể thi hành đúng lệnh của vua, rằng người Bồ Đào Nha, đã từng ve vãn vua Nam Hà, có thể đem quân đến trước chúng ta cũng như người Anh, rằng nhà vua đã đợi tôi quá lâu mà không có tin tức gì, sẽ nản chí, sẽ đi theo bất cứ nhóm nào đến giúp đầu tiên. Vì vậy tôi cần phải về trước, để nói với nhà vua tất cả những thoả thuận của triều đình Pháp và việc hoàng tử đã trở về bình an... nhưng ông ấy vẫn trả lời vắn tắt như lần trước: tôi chỉ tuân theo lệnh vua."[10] Sau đó Bá Đa Lộc nài nỉ de Montmorin, khi nhận được thư này, vui lòng gửi lại lệnh vua và lệnh ông bộ trưởng; đồng thời đề nghị nếu triều đình vẫn còn muốn thi hành cuộc viễn chinh thì nên thay đổi người chỉ huy vì sự bất tài của de Conway, và ông kết luận: nếu triều đình không muốn thi hành hiệp ước đã ký thì xin gửi lại lệnh mới và đưa hoàng tử về nước, còn về phần ông, ông không thể trở về nước này được nữa, ông xin được trở về Pháp[11]. Bốn ngày sau khi Bá Đa Lộc gửi cho de Montmorin, Bộ Trưởng Ngoại Giao lá thư trên đây, ngày 20/7/1788 de Conway gởi cho Thống chế de Castries, Bộ Trưởng Hải Quân một thư dài, trong đó ông kể: khi gặp Bá Đa Lộc ở Paris, ông đã tin tưởng vào chương trình viễn chinh, và vui mừng thấy "vua sắp có một Thuộc điạ mới". Ngay khi đến Pondichéry, [tháng 9/1787] ông đã tìm hiểu tin tức về Nam Hà, mới biết người ta đã gửi đại úy thủy quân de Richery điều khiển chiến hạm vận tải Castries đi dò thám tình hình, nhưng Richery vô tích sự, chẳng làm gì cả, chỉ đi buôn bán ở Tầu và lấy cớ không thuận gió, thuỷ thủ ốm đau, không trở lại Pondichéry được. Vì thế không biết vua Nam Hà ở đâu, hình như ông ta chẳng có gì và cũng không làm được gì, mà không biết có còn ông vua này hay không. Trong hoà ước thì ông Bá kê khai là nước này sẽ nhượng cho Pháp Côn Đảo và đảo Hội An [Cù Lao Chàm]; nhưng theo báo cáo của ông d'Après: Côn Đảo chỉ có vài trăm tù vượt ngục, ô uế, người Anh chiếm mấy năm rồi bỏ, còn Cù Lao Chàm, tôi hỏi ông giám mục thế nào, ông ấy bảo có thể trồng luá, tôi hỏi đảo ấy đối diện với đất liền có gì, thì ông ấy bảo bỏ hoang vì chạy quân Bắc (Tây Sơn). Đất sẽ nhượng cho Pháp là như thế đấy: một cái đảo gớm ghiếc không ai dám ở và một hòn đảo hoang đối diện với vùng đất liền cũng hoang nốt, còn vua Nam Hà thì không biết vất vưởng ở đâu... Nước Nam chẳng có nguồn lợi gì đáng kể, thời tiết xấu, một năm bốn tháng mưa, buôn bán chẳng có gì, mà đáng phải cất quân đi đánh... Nguồn lợi nào có thể cung cấp cho ta trên lời hứa của một ông vua tay trắng. Các nước Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Hoà Lan, Anh, đều đánh chiếm thuộc địa chứ không ai ký kết hoà ước gì cả. Nếu nước Việt nhiều tài nguyên như thế tại sao Anh, Hoà Lan không chiếm, vv... Những lệnh mà tôi nhận được chứng tỏ triều đình chưa quyết định gì về vụ viễn chinh, vậy mà ông giám mục vội vàng tuyên bố sẽ khởi hành nay mai, dù chưa có tầu, không có phương tiện chuyên chở, không có lương thực, tiền bạc, gì cả...[12] Lá thư này có lẽ là một trong lý do chính khiến Louis XVI quyết định bỏ hiệp ước Versailles. Cuối cùng, ngày 15/8/1788, de Conway cũng bằng lòng gửi hai tầu Dryade và Pandour do de Kersaint và de Prévillle điều khiển, từ Pondichéry về Nam Hà để thám thính tình hình, nhưng nhất định không cho Bá Đa Lộc đi theo. Không những thế de Conway còn ra lệnh cho hai thuyền trưởng chỉ đi với nhiệm vụ gián điệp thăm dò tin tức và vẽ bản đồ bờ biển nước Nam, nếu gặp Nguyễn Ánh, thì tuyệt đối không được dẫn về Pondichéry. Ngày 28/8/1788, de Conway viết cho Bộ trưởng Hải quân de La Luzerne: "Ông Giám mục Adran muốn lên tầu Dryade để chỉ huy chuyến đi và mang vua Nam Hà về đây. Tôi giải thích với vị giám mục này rằng sự hiện diện của ông ta ở đây rất cần thiết cho cuộc viễn chinh, và tôi không thể chấp nhận việc ông xin. Tôi cũng đã ra lệnh cho ông de Kersaint tuyệt đối không được dẫn vua Nam Hà về đây vì bất cứ lý do gì"[13]. Tháng 11/1788, Louis XVI quyết định bỏ hẳn cuộc viễn chinh. Sau đây là bản phúc trình của Bộ trưởng Hải quân de La Luzerne lên Louis XVI, kèm theo chữ ký của nhà vua và câu "chuẩn y" do vua viết tay. Ngày 16/11/1788, "Ý chỉ của Hoàng Thượng trong buổi họp nội các, là gửi một tầu chở khẩn thư (aviso) ra lệnh cho ông de Conway bãi bỏ việc thôn tính Nam Hà, gửi hoàng tử và đoàn tuỳ tùng về nơi họ muốn, và cho giám mục Adran trở lại Pháp, như ông ta đã xin, nếu cuộc viễn chinh không xẩy ra. Sau khi suy nghĩ kỹ, tôi đã xin Hoàng thượng cho gửi bản sao lệnh này bằng đường bộ, và gửi một bản theo tầu buôn đến Ấn Độ. Lệnh này ngắn và mang tính hoà bình, vậy không nguy hiểm nếu bị chặn ở dọc đường. Chỉ cần một bản tới được Pondichéry trước mùa có thể nhổ neo đi Nam Hà. Hoàng thượng sẽ tránh được những tổn phí lớn lao, và ta giữ chiếc tầu chở khẩn thư (aviso) lại để chở lệnh triệt thoái khỏi Ấn Độ cùng với chi tiết những cải tổ phải làm khi mục đích này đã đạt."
Lệnh của ông de Vaires[14] "Theo lệnh vua, tôi triệt để truyền lệnh cho ông de Conway không được tiến quân sang Nam Hà". Lệnh của ông de Vaires "Phải trả lời lịch sự giám mục Adran, và thông báo cho ông ấy biết rằng tình trạng hiện nay và những tin tức nhận được đã khiến vua quyết định bỏ cuộc viễn chinh Nam Hà." Thư của Bộ trưởng de la Luzerne gửi giám mục Bá Đa Lộc: Versailles ngày 16/4/1789, "Thưa ông, tôi đã hân hạnh nhận được thư ông viết ngày 28/8 [1788] liên quan đến những chậm trễ trong phương sách thi hành cuộc viễn chinh ở Nam Hà. Tôi chỉ có thể [gửi ông] trở lại lá thư tôi đã viết cho ông báo tin cuộc viễn chinh đã bãi bỏ. Tôi cho phép bá tước de Conway cung cấp cho ông những phương tiện để trở về Pháp, nếu ông muốn".[15] Ngày 15/3/1789, de Conway viết một thư không đề rõ tên người nhận, chắc là một Bộ trưởng, lại tố cáo Bá Đa Lộc nói bịa, vì theo báo cáo của de Kersaint vừa trở về, xác định Côn Đảo ô uế, Cù Lam Chàm đảo hoang, không ai phí tiền làm cuộc viễn chinh như thế[16]. Ngày 18/3/1789, Bá Đa Lộc viết cho de Conway một lá thư rất dài, từ Virampatman (nơi ông ở, gần Pondichéry), trong đó ông báo cho de Conway biết những thông tin mới nhất: Nguyễn Vương hiện đã làm chủ 5 trấn: Sài Gòn, Đồng Nai (Biên Hoà), Mỹ Tho (Định Tường), Long Hồ (Vĩnh Long) và Hà Tiên luôn luôn phụ thuộc vào chúa Nguyễn. Vương có một quân đội từ 60 đến 80 ngàn người, khoảng 50 tầu chiến ga-le, 2 đại hạm (vaisseaux), và từ 4 đến 5 trăm chiến thuyền. Lương thực dồi dào, sản xuất nhiều gạo. Vì bất cẩn, de Kersaint đã không đúng hẹn với Hồ Văn Nghị để nhận bưu kiện mà Nguyễn Vương gửi cho ông, trong có thư Nguyễn Vương gửi Louis XVI để cám ơn ... Theo ông, hiện nay Vương chỉ cần Pháp gửi bất cứ một phân đội nhỏ nào về làm cảnh, để yên lòng dân. Vậy de Conway chỉ cần gửi một trung hạm (frégate), một tiểu hạm (corvette) và khoảng 300 quân, 50 pháo binh, 50 lính da đen và 6 khẩu đại bác dã chiến với đạn dược là đủ. Sau cùng, một lần nữa, Bá Đa Lộc nải nỉ de Conway: "Thưa ông Bá tước, tôi đã hoàn thành trách nhiệm của tôi đối với triều đình Pháp và vua Nam Hà, tôi van xin ông, vì danh dự và lợi ích của vua, nhất là không thể để cho nước ta phải mang cái nhục thất hứa với một ông hoàng ngoại quốc đã hoàn toàn đặt lòng tin vào lời vua cam kết, tôi xin ông đừng từ chối những điều mà tôi, nhân danh ông hoàng, vừa đòi hỏi... Nếu ông chấp nhận gửi binh đội nhỏ này, thì những xích mích giữa chúng ta sẽ rơi vào quên lãng... "[17] Ngày 15/6/1789, Bá Đa Lộc và hoàng tử Cảnh lên tầu Méduse về Gia Định. Ngày 14/7/ 1789 về tới Vũng Tầu. Ngày 5/10/1789, Bá Đa Lộc viết thư cho Bá tước de Vaires, Tổng quản thuộc điạ, kể: khi tôi sang Pháp cầu viện, Nguyễn Ánh còn lẩn tránh ở Xiêm, nhưng khi tôi trở về, Nguyễn Ánh đã tự lực chiếm lại được gần hết đất đai của mình. Tôi rất tiếc nước Pháp đã bỏ lỡ cơ hội bằng vàng để có mặt ở nước Nam, vv... Trên đây là hành trình cầu viện của Bá Đa Lộc, qua các chứng liệu lịch sử, và trong đó có một câu, Bá Đa Lộc viết trong thư gửi de Conway: "Nếu ông bằng lòng để tôi đi Nam Hà với những phương tiện và mục đích mà tôi đã hân hạnh trình bầy với ông, tôi sẽ cho ông biết những mưu kế (des ressources), mà chỉ mình tôi mới có, để làm cho chuyến đi này hữu ích". Sẽ được Maybon trích dẫn, và cho nó một ý nghiã khác hẳn để "chứng minh" rằng: Bá Đa Lộc có những nguồn tài trợ để thực hiện cuộc viễn chinh, nếu chính phủ Pháp không làm.
Maybon "chứng minh" Bá Đa Lộc có tài trợMaybon không nhắc tới tất cả những tài liệu, thư từ, mà chúng tôi vừa trích dịch rộng rãi ở trên, không phải vì ông không biết, mà vì ông muốn dựng nên một huyền thoại khác, dựa trên cuốn Bá Đa Lộc của Faure (tuy ông vẫn tỏ ý coi thường Faure, vì đôi khi Faure đưa ra những văn bản không có lợi cho Bá Đa Lộc). Huyền thoại này chủ yếu xác định Bá Đa Lộc có "công đầu" trong sự nghiệp của Gia Long, ngoài "ơn cứu tử", đã nói đến trong chương 5, Maybon không ngần ngại dùng tài liệu của Faure và của de Guignes do Faure in lại, để "chứng minh" rằng: sau khi vua Pháp từ chối cuộc viễn chinh, Bá Đa Lộc đã cung cấp thuyền tàu và khí giới cho Nguyễn Ánh, và trực tiếp đánh nhau với Tây Sơn. Để làm việc này, Maybon vẫn dùng thủ pháp cắt xén các tài liệu. Mở đầu chương Concours apporté par l'évêque au prétendant (Sự hỗ trợ của vị giám mục cho người chiếm lại ngôi báu), ông viết: "Bá Đa Lộc đã đắc lực góp phần vào sự phục hồi địa vị của Nguyễn Ánh: ta còn nhớ, ngay khi mới đến Pondichéry, trong một cuộc cãi vã, vị giám mục đã nói với Conway, trước mặt Saint-Riveul rằng "một mình tôi, giám mục Adran, tôi cũng có thể làm cuộc cách mạng". Sau đó, ngày 11/7/1788, viết thư cho ông tướng [de Conway] để xin một lần nữa, được gửi về Nam Hà, ông [Bá] nói: "Nếu ông bằng lòng cho tôi đi... tôi sẽ cho ông biết những nguồn vốn (ressources) của riêng tôi, để làm cho chuyến đi này hữu ích". Nếu không có trước mắt những tài sản (moyens) bảo đảm góp phần vào cuộc viễn chinh, thì vị giám mục đã không nói những lời như thế; những tài sản đó là gì? Trước khi rời Pháp, ông đã nhận được 30.000 livres của Bộ [Ngoại Giao] bồi thường tiền ông ứng ra tiêu cho hoàng tử, hết hơn 40.000 livres, ngoài số tiền Nguyễn Ánh đưa cho ông. Thống Chế de Castries cấp cho ông 4000 écus để tiêu cho hoàng tử ở Paris, còn chuyến về và những chi tiêu khác, Bá Đa Lộc không có nguồn lợi nào (...) Nhưng số tiền [30.000 livres] này, cộng thêm vài tài sản riêng của ông, cũng không đủ để chi cho cuộc viễn chinh quan trọng này... "[18]. Sau đó, Maybon kể đến các "nguồn lợi" khác của Bá Đa Lộc, sẽ nói đến ở dưới. Lời Bá Đa Lộc được Maybon dẫn trên đây, rút trong thư Bá Đa Lộc viết cho de Conway ngày 11/7/1788, mà chúng tôi đã trích dịch ở trên. Đó là câu: "Nếu ông bằng lòng để tôi đi Nam Hà với những phương tiện và mục đích mà tôi đã hân hạnh trình bầy với ông, tôi sẽ cho ông biết những mưu kế (des ressources), mà chỉ mình tôi mới có, để làm cho chuyến đi này hữu ích". Maybon cắt ngắn thành: "Nếu ông bằng lòng cho tôi đi... tôi sẽ cho ông biết những nguồn vốn (des ressources) của riêng tôi, để làm cho chuyến đi này hữu ích". Rồi ông viết thêm câu kế tiếp: "Nếu không có trước mắt những tài sản bảo đảm góp phần vào cuộc viễn chinh, thì vị giám mục đã không nói những lời như thế; những tài sản đó là gì?". Để ông xác định lại nghiã nguồn vốn của chữ ressources. Mục đích của Maybon ở đây, là đưa vào miệng Bá Đa Lộc hai câu nói đại ý: - "Nếu ông không chịu xuất quân, thì tôi, Bá Đa Lộc, tôi cũng có thể làm được cuộc cách mạng này một mình". - "Nếu ông để cho tôi về Nam Hà tôi sẽ cho ông biết những nguồn vốn riêng của tôi để tài trợ cho cuộc viễn chinh". Sự thực, Bá Đa Lộc không hề nói như vậy. Maybon đã trích lời Bá Đa Lộc, trong một bối cảnh khác hẳn, rồi đem vào đây, và hướng nó về cái nghiã mà ông muốn. Về câu nói đầu: "một mình tôi, giám mục Adran, tôi cũng có thể làm cuộc cách mạng", chữ cách mạng (révolution) ở đây không thích hợp, Bá Đa Lộc là người dùng chữ rất chính xác, vì vậy, chữ này không biết có phải vị giám mục nói ra để chỉ chuyện "viễn chinh" hay là Bá nói một chữ khác nhưng Saint-Riveul thay bằng chữ này và Maybon nhập nhằng gán vào câu chuyện viễn chinh. Về câu thứ nhì: "Nếu ông bằng lòng cho tôi đi... tôi sẽ cho ông biết những nguồn vốn của riêng tôi, để làm cho chuyến đi này hữu ích" thì Maybon đã hoàn toàn dùng xảo thuật để bịp người đọc không hiểu rõ tình thế, mà chúng ta đã thấy quá rõ ở trên. Lời đầy đủ của Bá Đa Lộc là: Nếu ông bằng lòng để tôi đi Nam Hà với những phương tiện và mục đích mà tôi đã hân hạnh trình bầy với ông, tôi sẽ cho ông biết những mưu kế (des ressources), mà chỉ mình tôi mới có, để làm cho chuyến đi này hữu ích". Chữ des ressources ở đây chỉ có nghiã là những mưu kế, Bá Đa Lộc dùng để chỉ sự biện minh trước triều đình Việt, về việc Pháp viện quân chậm trễ và khuyên triều đình gắng chờ, đừng nhận sự trợ giúp của Bồ và Anh, đồng thời tìm cách kéo Nguyễn Ánh sang Pondichéry, để nhà vua trực tiếp dẫn quân viễn chinh Pháp về Việt Nam. Đó là điều Bá Đa Lộc cố gắng làm để phụng sự vua Pháp và quyền lợi của nước Pháp như ông đã nói trong thư. Xin nhấn mạnh một lần nữa: chữ ressources trong bối cảnh của cây này, chỉ có nghiã là kế, là mưu kế, chứ không có nghiã là nguồn vốn, hay của cải, tiền bạc. Nhưng Maybon đã cắt bỏ tất cả bối cảnh câu chuyện mà Bá Đa Lộc trình bầy trong các lá thư trước, chỉ trích một câu cuối cùng: Nếu ông bằng lòng để tôi đi Nam Hà với những phương tiện và mục đích mà tôi đã hân hạnh đề nghị với ông, tôi sẽ cho ông biết những kế (des ressources), mà chỉ mình tôi mới có, để làm cho chuyến đi này hữu ích", rồi làm cho nó biến nghiã thành: "Nếu ông bằng lòng cho tôi đi... tôi sẽ cho ông biết những nguồn vốn của riêng tôi, để làm cho chuyến đi này hữu ích", bằng cách đặt nó vào một khung cảnh ngữ nghiã khác, để hướng độc giả về việc gửi quân viễn chinh: "nếu ông không chịu gửi quân viễn chinh, thì tôi sẽ có nguồn vốn riêng để làm việc này"! Sử gia đã sử dụng tư liệu một cách man trá ngoài sức tưởng tượng. Tất cả là ở chữ ressourses. Ông đã lợi dụng sự đa nghiã của chữ này, có nghiã là phương tiện, là nguồn lợi tức, là mưu kế,..., và ông đã cắt một câu trong lá thư Bá Đa Lộc, có chữ ressourses nghiã là mưu kế, để dán vào chỗ khác, ép độc giả hiểu ressourses theo nghiã tiền bạc chi cho cuộc viễn chinh; hoàn toàn không có trong lời thư của Bá Đa Lộc. Vì không tìm được chứng cớ gì đáng tin cậy xác định Bá Đa Lộc có những nguồn tài trợ cho cuộc viễn chinh, nên Maybon đành phải dùng thủ đoạn gian dối như vậy.
Maybon "chứng minh" Bá Đa Lộc "tự tìm" những nguồn tài trợViệc Louis XVI huỷ bỏ hiệp định Versailles 1787 đã rõ, ai cũng biết. Nhưng sau đó, những ngòi bút thuộc địa tung ra một tin khác, là việc Bá Đa Lộc tự xoay sở tìm vốn mua chiến hạm, đạn dược, vũ khí và mộ lính về giúp Nguyễn Ánh. Vậy chúng ta thử tìm xem, ở sử gia Maybon, "nguồn tin" này được thiết lập như thế nào? - Trước hết, hải trình của tầu Méduse (tầu Bá Đa Lộc và hoàng tử Cảnh đáp, để về Việt Nam) do Alexis Faure ghi lại, có ghi tên những người lên bờ ở Vũng Tầu: "Lên bờ ở Saint-Jacques [Vũng Tầu] ngày 28/7/1789: Hoàng tử Nam Hà và người anh/em họ, Giám mục Adran, Paul, Gilles, Barthélemy và Nam, cận vệ của hoàng tử, Boisserant, Pillon, Tarin, Leblanc, giáo sĩ, Gérard, Le Tousse (Mathieu) đầu bếp, Fransique, Bonaventure, Isidore, người hầu Đức Giám Mục[19]. Tức là phái đoàn tháp tùng hoàng tử và giám mục có tất cả 15 người: một người anh em họ, 4 cận vệ của hoàng tử, 4 giáo sĩ, 2 đầu bếp và 3 người hầu giám mục. Ngoài thông tin này của Faure, còn có những nguồn tin trực tiếp, qua thư từ của giám mục Bá Đa Lộc và của giáo sĩ Langenois. Có 3 lá thư đáng chú ý: 1- Thư viết ngày 12/8/1789, Langenois gửi cho quản sự tu viện Létondal ở Macao: "Giám Mục và thằng nhỏ 10 tuổi đã về tới triều đình Bến Nghé [Gia Định] ngày 29/7, tôi cũng từ Sadec lên ngày 5/8 để thăm Đức Ông và bốn vị thừa sai mới, về cùng với ngài mà tôi sẽ dẫn M. Jacques Pilon, 46 tuổi, dân Normandie, ở Coutances, một khi có giấy để qua đoan Nam Hà."[20] 2- Thư của Bá Đa Lộc viết cho Létondal, tháng 7/1789 (không đề ngày): "Tôi vừa về tới Nam Hà.... tôi về không có sự cứu trợ mà vua Pháp đã ưng thuận giúp vua Nam Hà; nhưng tôi tin rằng Thượng đế nhiệm màu đã an bài như thế... Tôi đợi ít ngày nữa, nếu những tầu buôn từ Pondichéry đến, sẽ dễ dàng thay thế cho những tầu chiến... Nhà vua sẽ khỏi phải nhượng đất cho họ, và cũng khỏi phải trả họ tiền phí tổn và khỏi phải cho tiền thưởng."[21] Lời lẽ trong thư hơi khó hiểu. Vỉ giáo sĩ Launay đã cắt không in hết lá thư. Tuy nhiên chúng ta vẫn có thể nắm được những ý chính: - Vị giám mục về tay không. Pháp không giúp gì cả. - Ông đợi tầu buôn ở Pondichéry đến, chúng sẽ "dễ dàng thay thế cho những tầu chiến". Câu này có nghiã gì? Tại sao tầu buôn lại có thể "thay thế" cho tầu chiến? Nếu đọc lại lá thư Bá Đa Lộc viết cho de Conway ngày 18/3/1789, trước khi về Nam Hà, đã dẫn ở trên, trong có đoạn ngụ ý: Hiện nay Nguyễn Ánh chỉ cần Pháp gửi bất cứ một phân đội nhỏ nào về Nam Hà làm cảnh (để thị uy, trộ bên địch, ra vẻ Nguyễn Ánh có Tây giúp) làm yên lòng dân; nên Bá Đa Lộc khẩn khoản yêu cầu de Conway chỉ gửi một trung hạm (frégate), một tiểu hạm (corvette) và khoảng 300 quân, 50 pháo binh, 50 lính da đen và 6 khẩu đại bác dã chiến với đạn dược là đủ, thì ta hiểu rõ ý nghiã câu này: những tầu buôn từ Pondichéry đến đây, sẽ lập lờ thay thế cho tầu chiến Pháp đến dàn cảnh thị uy, và như thế, thì: "Nhà vua sẽ khỏi phải nhượng đất", và "khỏi phải trả họ tiền phí tổn và khỏi phải cho tiền thưởng." Nếu câu này đúng nghiã như thế, thì quả Bá Đa Lộc cũng có lòng với Gia Long. 3- Đọc lá thư kế tiếp của Bá Đa Lộc ta càng hiểu rõ hơn: Trong thư ngày 17/8/1789, Bá Đa Lộc viết cho Létondal, có đoạn như sau: " (...) Hoàng tử và tôi được đón rước với tất cả những tín hiệu vui mừng và toại nguyện vua ban. Tất cả mọi việc đã xẩy ra hôm đó đã nói rõ chẳng cần thêm gì nữa. Nhà vua, mẫu hậu, hoàng hậu, hoàng gia, tóm lại, tất cả triều đình đều không tả siết nỗi vui mừng được thấy lại chúng tôi. Điều duy nhất có thể làm dịu bớt niềm vui tột độ này là tôi về với độc một trung hạm (une seule frégate) và nó lại phải lập tức đi Manille ngay. (...) Cả triều đình đều ngã ngửa về lối hành xử này [của vua Pháp] và nhiều ông quan đã ngỏ cho tôi biết mối lo ngại. Nhà vua, tuy thấy rõ tình hình, nhưng không có vẻ lo lắng lắm, tôi e rằng ông quá tin vào sức mạnh của ông, nhưng nếu không có sự trợ giúp của người Tây phương, ông sẽ còn trải qua thất bại. Sức mạnh của bộ binh và thuỷ binh của ông thực là lớn lao đối với xứ này, nhất là nếu chúng ta thấy sự nhanh chóng mà ông thành lập nên; tuy nhiên dân chúng vẫn còn kinh hoảng, họ chỉ có thể yên tâm khi thấy quân ngoại quốc đến trợ giúp quân đội nhà vua. Nếu những tầu buôn từ Ile de France và từ Pondichéry đến, như chúng tôi mong đợi, thì có nhiều hy vọng, nhà vua sẽ dễ dàng thu phục được phần còn lại của lãnh thổ ông; nhưng nếu sự ấy không đến, như bao nhiêu điều khác mà chúng tôi mong mỏi, thì chỉ có Thượng đế mới biết chuyện gì sẽ xẩy ra khi nhà vua giáp chiến với ngụy quân. Tôi phó thác chuyện này cho ông [Létondal] và những người thân cầu nguyện. Sau tất cả những gì đã vận động, tôi chỉ còn biết gửi gấm việc này trong tay Chúa"[22]. Lời Bá Đa Lộc xác định thêm những điểm sau: - Vị giám mục về trên độc một chiếc tầu và tầu này phải đi Phi Luật Tân ngay. - Tất cả triều đình đều lo ngại vì thấy Pháp không thực hiện hoà ước. - Chỉ có nhà vua là không lộ vẻ lo lắng gì vì ông tin vào sức mạnh quân đội của ông. - Nhưng dân chúng vẫn còn "kinh hoảng" (sợ Quang Trung), muốn có quân ngoại quốc giúp. - "Nếu những tầu buôn từ Ile de France và từ Pondichéry đến, như chúng tôi mong đợi" câu này triệt tiêu tất cả những lập luận cho rằng Bá Đa Lộc bỏ tiền ra hoặc quyên tiền mua vũ khí giúp Nguyễn Ánh, bởi vì, nếu ông đã mua được khí giới, thì ông không phải mong đợi các tầu buôn đến, mà những tầu buôn này bắt buộc phải đến Sài Gòn để giao hàng. - Câu sau lại càng có ý nghiã hơn nữa "nhưng nếu sự ấy không đến, như bao nhiêu điều khác mà chúng tôi mong mỏi, chứng tỏ "sự các tầu buôn kia ghé Sài Gòn" chỉ là niềm mơ ước của ông như bao nhiêu điều khác. Tại sao? - Tại vì ông tin rằng, như ông đã viết trong thư đầu, những tầu buôn này sẽ "thay thế" cho tầu chiến, nghiã là sẽ đánh lừa được cả dân chúng lẫn Tây Sơn: dân chúng thấy tàu ngoại quốc "đến giúp" sẽ lên tinh thần và Tây Sơn thấy tầu Tây đến sẽ khiếp sợ! Bá Đa Lộc hoàn toàn tin tưởng ở điều này, bởi vì mùa thu 1791, khi thấy Quang Trung đã chiếm Lào và chuẩn bị đánh miền Nam, ông sợ quá định bỏ đi, kéo theo tất cả những người Pháp, trong thư gửi cho Létondal ngày 14/9/1791, Bá Đa Lộc trách Nguyễn Ánh như sau: "... Nhà vua đã không biết lợi dụng cơ hội mà ông ta có được để đánh bại kẻ thù, mà lại để chúng có thì giờ hoàn hồn và chúng thấy rõ tất cả những đồn đại về việc người Âu đến giúp chỉ là chuyện hão"[23]. Câu này chứng tỏ mọi người đều biết việc Pháp giúp là chuyện hão. - Câu chót: "Sau tất cả những gì đã vận động tôi chỉ còn biết gửi gấm việc này trong tay Chúa", chứng tỏ nỗi thất vọng sâu xa của vị giám mục. Đó là những lời do chính giám mục Bá Đa Lộc viết ra, xác nhận: ông về tay không, không tầu, không khí giới, không lính mộ. Nhưng sử gia Maybon không chấp nhận điều đó và ông quyết "chứng minh" ngược lại rằng vị giám mục không những đã tìm được các nguồn tài trợ để mua khí giới mà còn vận động một chiến dịch các tầu bè ngoại quốc đến cung cấp khí giới cho Nguyễn Ánh nữa!
Maybon "trình bày" những nguồn tài trợ của Bá Đa LộcSau khi đã "chứng minh" Bá Đa Lộc có sẵn trong tay các nguồn tài trợ nên mới dám "mạnh dạn" phát biểu: "Nếu ông không chịu xuất quân, thì tôi, Bá Đa Lộc, tôi cũng có thể làm được cuộc cách mạng này một mình" và "Nếu ông để cho tôi về Nam Hà tôi sẽ cho ông biết những nguồn vốn riêng của tôi để tài trợ cho cuộc viễn chinh", Maybon kê khai một số "nguồn tài trợ chính" của Ba Đa Lộc như sau: 1- Nguồn tài trợ thứ nhất: "những nhà buôn "yêu nước"Maybon xác định những nhà hảo tâm ái quốc ở Ile de France đã bỏ tiền ra giúp Giám mục Bá Đa Lộc bằng chứng cớ sau đây: "Ta có thể đọc trong bản lược trình, do dân cư ở đảo [Ile de France] đệ trình trước quốc hội ngày 2/12/1790, rằng nếu năm 1787, Bộ [Ngoại Giao và Thuỷ Quân] quyết định để cho Ile de France chuẩn bị gửi quân viễn chinh đi Nam Hà; "thì ta đã tìm được trên đảo này những lính tình nguyện, lính Nam phi (Cafres), những hạm đội và đạn dược cho cuộc viễn chinh quan trọng này". Và các tác giả của bản lược trình này còn xác nhận: "Nhiều nhà buôn ái quốc [Pháp] của vùng thuộc địa này, đã tặng cho giám mục Adran tất cả tài sản của họ để giúp ông trong sự thực hiện một dự án sẽ có lợi cho đất nước như thế"[24]. Sau đó Maybon kể tên hai người có thế lực và tiền bạc, quen Bá Đa Lộc, sau này sẽ trở thành nghị viên là Charpentier de Cossigny ở Ile de France và Louis Monneron ở Pondichéry. Xin có mấy nhận xét về trích đoạn trên đây: - Những người mà Maybon gọi là dân cư (habitants) ở đảo, thực ra chỉ là 24 vị thực dân; vì dân cư ở đảo (gọi là indigène) chả có quyền gì mà gửi đơn tới quốc hội Pháp, để khiếu nại việc mất miếng ăn ở nước Nam, một "thuộc địa tương lai", vì Louis XVI không thức thời. - Sáu tháng sau khi phá ngục Bastille (14/7/1789) và lật đổ Louis XVI, ngày 2/12/1790, 24 vị thực dân này mới gửi đơn tố cáo Louis XVI bỏ cuộc viễn chinh trong lúc tất cả đã chuẩn bị xong, tức là có đủ lính tình nguyện, cả lính da đen, đầy đủ hạm đội và súng đạn cần thiết, lại có các nhà hảo tâm đã tặng hết tài sản cho giám mục Bá Đa Lộc rồi, thế mà lại "ngu muội" bỏ lỡ một chiến dịch lợi hại cho nước Pháp như thế! Đánh Louis XVI như vậy, ta gọi là hồi tố, tức là đánh trở lại một việc đã qua, không vinh hiển gì; nhưng điểm quan trọng là câu này: "các nhà hảo tâm đã tặng hết tài sản cho giám mục Bá Đa Lộc rồi". Câu này thực khả nghi, vì những lẽ sau đây: 1- Ngày 28/11/1787 hiệp ước Versailles được ký kết. 2- Ngày 2/12/1787, Louis XVI quyết định hủy bỏ hiệp định Versailles. 3- Ngày 27/12/1787 Bá Đa Lộc rời hải cảng Lorient về Việt Nam, trên tầu Dryade, không biết gì về mật lệnh của vua Pháp. 4- Khi tầu đến Ile de France, Bá Đa Lộc phải giấu kín việc viễn chinh (bí mật quân sự) và ông vẫn không biết gì về mật lệnh Pháp hoàng gửi Conway. Đối với ông mọi việc đang tiến hành tốt đẹp. Vậy không có lý do gì, và ông cũng không thể, đi xin tiền các nhà "hảo tâm yêu nước" Pháp ở Ile de France và được họ cúng "tất cả tài sản" cho cuộc viễn chinh này (một khi việc này là bí mật). Lập luận này vừa không có cơ sở vừa tai hại cho danh tiếng Bá Đa Lộc, một người tu hành. 5- Ngày 18/5/1788, tầu đến Pondichéry. Trong suốt thời gian ở Pondichéry, sở dĩ có tranh chấp gay gắt với de Conway, vì Bá Đa Lộc vẫn không biết việc Pháp Hoàng đã cho Conway toàn quyền quyết định. Vì de Conway đưa ông ra "bộ tư lệnh" để hỏi "khẩu cung" về việc đánh như thế nào, đổ bộ ở đâu, và ông không trả lời được, do đó mới có việc ông xin về Nam Hà trước để thuyết phục Nguyễn Ánh đích thân sang Pondichéry. Qua tất cả những việc này, Bá Đa Lộc vẫn "hồn nhiên" tin rằng vì Conway xấu bụng, cho nên trong thư từ trao đổi với Montmorin và các Bộ trưởng Hải quân kế tiếp, ông chỉ tố cáo sự ngoan cố của Conway và ông vẫn tin là chính phủ Pháp sẽ thi hành viễn chinh. Đến phút chót, khi Bá Đa Lộc nhận được thư của La Luzerne, Bộ Trưởng Hải quân, viết ngày 16/4/1789, ở Versailles, ông mới biết rõ quyết định này đến từ chính phủ Pháp: "... cuộc viễn chinh đã bãi bỏ. Tôi cho phép bá tước de Conway cung cấp cho ông những phương tiện để trở về Pháp, nếu ông muốn"[25]. Bá Đa Lộc chỉ biết tin này khoảng hơn hai tuần trước khi ông về Nam Hà (ngày 15/6/1789, Bá Đa Lộc và hoàng tử Cảnh lên tầu Méduse và ngày 14/7/1789 tới Vũng Tầu). Vì không thông thạo tình hình và quá chủ quan, nên Ba Đa Lộc, trong thời gian tranh chấp với Conway, từ tháng 5/1788 đến tháng 6/1789, vẫn đinh ninh cuối cùng mình sẽ thắng. Bá Đa Lộc không có kinh nghiệm về chính trị và quân sự, chính báo cáo "láo" của ông với vua Pháp về tình hình "tồi tệ" của quân Tây Sơn, về sự chiếm Đà Nẵng và Qui Nhơn dễ như trở bàn tay, đã làm hại ông. Tháng Giêng 1789, Quang Trung đã chớp nhoáng phá tan 200.000 quân Thanh, trong hoàn cảnh này, nếu quân Pháp đổ bộ với 2, 3, chiếc tầu và chưa đầy 1500 lính, thì có nguy cơ bị nuốt chửng. Chưa kể nếu chỉ lại đem có hai chiếc chiến hạm "làm cảnh" và hơn 300 lính, thì thực nực cười, trước quân đội vũ bão của Quang Trung. Nhưng không chỉ mình Bá Đa Lộc không hiểu tình thế, de Conway còn tồi tệ hơn, đã đánh giá hoàn toàn sai lầm về vị trí chiến lược của hai hải đảo: Côn Lôn và Cù Lao Chàm, một, đối diện với các cửa sông từ Sài Gòn đổ ra biển, là cửa ngõ chặn các thuyền bè ra vào biển Đông; một, là hải cảng chiến lược cho các tầu đỗ nghỉ trước khi sang Trung Hoa và các nước miền bắc, như Barrow đã nhìn thấy. Ở thời điểm mà đường biển là phương tiện giao thông hữu hiệu nhất, vị trí chiến lược của hai đảo này không thể chối cãi được. Ngoài ra de Conway lại cũng không hiểu gì về tinh hình Việt Nam, về sức mạnh thuỷ binh của Nguyễn Ánh và Quang Trung. Sự cao ngạo của người Pháp, đôi khi đưa họ đến những tình huống không ngờ. Trở về với lập luận của Maybon: Bá Đa Lộc không thể xin các nhà hảo tâm ở Ile de France bỏ tiền ra giúp cuộc viễn chinh, vì cho đến phút chót, trước khi lên tầu ở Pondichéry về Việt Nam, ông mới biết lệnh bãi bỏ viễn chinh của chính phủ Pháp. Đó là lý do khiến cho cái cớ Maybon đưa ra về sự Bá Đa Lộc được các nhà hảo tâm ái quốc ở Ile de France cúng cho tất cả tài sản của họ là không thể chấp nhận được. Sau nguồn tài trợ của "các nhà hảo tâm yêu nước", Maybon đưa ra nguồn tài trợ thứ nhì: kho tàng của Nguyễn Ánh.
2- Nguồn tài trợ thứ nhì: Kho tàng của Nguyễn ÁnhRồi dường như chính sử gia Maybon cũng không tin lắm ở "nguồn tài trợ của những nhà hảo tâm yêu nước", nên ông không ngần ngại kê khai tiếp những "nguồn tài trợ" khác, khi viết: "Một nguồn [tài trợ] chắc chắn nữa, mà giám mục Adran có thể trông cậy được là kho tàng của chính Nguyễn Ánh và [sự kiện] nhà vua có thể vay mượn được. Rất có thể nhà vua mua được khí giới và thuê tầu, hoặc bằng cách đổi hàng hoá hay trả bằng tiền, hoặc hứa hẹn sẽ trả sau. Vì vậy, ta thấy trong Thực Lục lệnh mua mỗi năm một trăm nghìn livres đường ở những nhà sản xuất Việt, thực phẩm này dùng để đổi lấy vũ khí do người Pháp cung cấp[26]. Maybon muốn nhắc đến câu này trong Thực Lục: lệnh mua đường cát vào tháng 11-12/1789, Thực Lục ghi: "Sai dinh Trấn Biên đặt mua đường cát, mỗi năm 10 vạn cân làm hạn, cứ số đường 100 cân thì phát trước tiền công cho 10 quan. Đến ngày nộp đường cho nhà nước thì theo giá chợ mà cấp thêm, để sẵn mà đổi cho người Tây Dương lấy đồ binh khí."[27] Việc Nguyễn Ánh sai người chở gạo và các sản phẩm khác ra ngoại quốc bán để lấy tiền mua khí giới và vật dụng chiến tranh, chúng ta sẽ thấy toàn bộ trong chương 20, Chính sách đối ngoại của vua Gia Long. Ở đây ông Maybon mới chỉ biết có mảng đường cát. Điều làm cho chúng ta ngạc nhiên khi đọc những hàng này, là vị sử gia, vì túng tài liệu chứng minh Bá Đa Lộc bỏ tiền ra giúp Nguyễn Ánh, đã phải mượn tạm "kho tàng" của Nguyễn Ánh để làm "nguồn tài trợ" cho Bá Đa Lộc. Câu chuyện kho tàng này, Maybon chép trong bài Introduction của Ste-Croix, do chính ông cho in lại trong cuốn Ký sự Bissachère: "Người ta quả quyết rằng nhà vua có nhiều kho tàng lớn lao, chôn giấu nhiều vàng thoi"[28]. Tóm lại, sử gia Maybon đưa hai chuyện đường cát và kho tàng này vào "danh sách" các nguồn tài trợ của Bá Đa Lộc giúp Nguyễn Ánh thì thực là cùng quẫn.
Maybon "chứng minh" Bá Đa Lộc đạt những thành tựuSau khi kê khai các "nguồn tài trợ" của Bá Đa Lộc, Maybon kể đến những "thành tựu" của Bá Đa Lộc, từ trang 269 đến trang 279, trong cuốn Histoire moderne du pays d'Annam (Lịch sử hiện đại nước Nam), ông hoàn toàn phỏng theo chương 17 trong cuốn Bá Đa Lộc của Faure, mà không đề xuất xứ, hoặc chỉ đề thoáng qua. Bản thân Faure lại dựa vào "thông tin" của de Guignes; khi đến tay Maybon, những thông tin cóp nhặt này sẽ trở thành: "Dù từ nguồn tài trợ nào đi chăng nữa, thì sự vận động của đức giám mục đã có hiệu quả trông thấy từ năm 1788. Tầu Dryade, đi từ Pondichéry ngày 15/8 cùng với tầu Pandour, dừng ở Poulo-Condor cho Paul Nghị xuống với vài người An Nam, cũng để lại 1000 khẩu súng trường mua cho Nguyễn Ánh (theo Faure, t. 199). Vào tháng 12, cùng thời gian tầu Dryade đậu ở Macao (từ 13 đến 29), "vị đại lý [agent] của vua [Pháp] ở Quảng Đông, ông de Guignes, con trai nhà Đông phương học nổi tiếng, viết cho ông Bộ trưởng [ngoại giao], quy định sự thành công của Nguyễn Ánh là "nhờ nhiều tầu ông ta đã mua" và ông viết thêm: "Chỉ những tầu buôn đến cũng đủ ngăn chặn ngụy quân và làm chúng sợ hãi". Sau đó, vẫn ông agent này gửi cho ông bộ trưởng những thông tin chi tiết hơn: "Những người Bồ ở Macao, thuận theo gió mùa, gửi tám chín tầu lớn nhỏ khác nhau cho Nam Hà... những tầu này chở hàng hoá và súng đạn. Hai hải hạm từ Ile de France, chở súng và những thứ cần thiết cho vua vùng này, cũng ghé bến; tầu lớn Garonne... cũng ghé qua Nam Hà và ở lại đó mấy ngày... Còn tàu kia, có lẽ là Robuste, có lẽ đã ở lại Vũng Tầu... người ta biết rằng tầu Garonne khi đi sang Xiêm đã bán hai trong số đại bác của tầu cho những ông quan An Nam đến đây... Nhiều tầu khác cũng ghé đến Vũng Tầu trong tháng 6 và 7; đó là, hình như, tầu Moyse và Capitaine Cook...Tầu St-Esprit, do Jean-Marie Dayot. .. cũng đi cùng tới Phi Luật Tân để mua súng ống lương thực, rồi từ đó sang Macao nơi Dayot phải mua hai tầu Bồ để đưa về Vũng Tầu. Trong năm 1790, Dayot cũng lại được gửi một lần nữa đi Phi Luật Tân với hai tầu mà anh có nhiệm vụ sửa chữa, và anh cũng được lệnh mua lưu huỳnh... [29] Maybon còn tiếp tục viết thêm nhiều trang kê khai những loại "thành tựu" như thế của Bá Đá Lộc. Tóm lại, với những "hình như", "có thể", "nghe nói"... Maybon đã đưa tên tất cả tầu bè có thể ghé Nam Hà, có thể chở súng đạn, có thể bán cho Nguyễn Ánh... vào danh sách "công lao" của Bá Đa Lộc. Đoạn văn này Maybon tóm tắt chương 17 của Faure (Bá Đa Lộc, t. 193- 210). Cả hai tác giả đều muốn nói rằng: tất cả những tầu Pháp (và tầu Bồ) nào ghé qua Nam Hà, cũng chở khí giới cho Nguyễn Ánh và cũng do công của Bá Đa Lộc "vận động" để họ đến giúp Nguyễn Ánh dựng nghiệp, hoặc chở khí giới bán cho Nguyễn Ánh. Maybon chép Faure, nhưng làm như mình lấy tin ở một nguồn khác, đáng tin cậy hơn, khi ông viết: "vị đại lý của vua ở Quảng Đông, ông de Guignes, con trai nhà Đông phương học nổi tiếng, viết cho ông Bộ trưởng...". Vẫn là agent de Guignes, mà ta đã biết trong chương 12, Huyền thoại Le Brun và Puymanel xây thành Gia Định và Diên Khánh. De Guignes được Faure thăng lên hàng lãnh sự, và ở đây Maybon phong làm agent du roi tức là đại lý của vua, và thêm con trai nhà Đông phương học nổi tiếng, như để bảo đảm giá trị cho nhân vật này. Nhưng một đại lý của vua viết báo cáo thường xuyên về Bộ Ngoại Giao, theo chỗ chúng tôi biết, vẫn chỉ là gián điệp. Và những thông tin của điệp viên này được Maybon trích dẫn ở trên, không thể chứng minh được rằng Đức Giám Mục Bá Đa Lộc, đã có quyền sai khiến những tầu Pháp và Bồ, trên Thái Bình và Ấn Độ Dương, phải chở khí giới, lương thực đến Việt Nam giúp Nguyễn Ánh! Còn về câu: "Tầu Dryade, đi từ Pondichéry ngày 15/8 cùng với tầu Pandour, dừng ở Poulo-Condor cho Paul Nghị xuống với vài người An Nam, cũng để lại 1000 khẩu súng trường mua cho Nguyễn Ánh", thì xin nhắc lại rằng: Hai tầu này chính là tầu de Conway gửi đi do thám tình hình Nam Hà ngày 15/8/1788, trong tình trạng cực kỳ căng thẳng giữa de Conway và Bá Đa Lộc, đã nói đến ở trên; nếu có chở 1000 khẩu súng trường mua cho Nguyễn Ánh, thì phải là súng của Hồ Văn Nghị mua của công ty Pháp Ấn cho Nguyễn Ánh, chứ giám mục Bá Đa Lộc, không thể qua mắt de Conway, gửi súng lậu trái phép "viện trợ" cho vua Nam Hà, khi mà chính bản thân ông muốn về Nam Hà trên chuyến tầu đó cũng bị de Conway cấm ngặt.
Maybon "chứng minh" Bá Đa Lộc đem tầu và khí giới vềBất chấp những điều giám mục Bá Đa Lộc viết trong hai thư tháng 7/1789, đã dẫn ở trên, rằng ông về tay không, trên độc một chiết tầu (Méduse) và nó lại phải đi Phi Luật Tân ngay; Maybon "viết lại lịch sử" như sau: "Chính tầu Méduse, dưới sự điều khiển của hải quân đại tá Rosily, đã đưa giám mục Adran và Hoàng tử Cảnh về Nam Hà (tháng 6-7 1789) hình như đã góp phần vào việc tiếp tế cho nghiã quân của Nguyễn Ánh. Trong chuyến đi này, hình như chiếc trung hạm (frégate) có 2 tầu hộ tống - Renouard de Ste-Croix xác định là có 2 tiểu hạm (corvette) dẫn đường. Chaigneau, đã sống với những người chứng kiến việc này, 30 năm sau viết: "Vị chủ giáo trung thành từ Pháp trở về không có quân theo, nhưng ở Ấn Độ, ông đã quyết định cho hai tầu Pháp theo ông để trợ lực những toan tính của ông. Ông đã về trình diện chúa với nhóm người can đảm đếm trên đầu ngón tay này."[30] Và ở note số 4, trang 271, Maybon viết: "Hầu hết các tác giả đều nói về điều này [2 tầu hộ tống], lời lẽ khác nhau chút ít, chủ yếu là Louvet và Bouillevaux; Louvet viết:"Giám mục Adran trang bị hai tầu buôn, ông mua vũ khí và đạn dược và đổ bộ lên Nam Hà trong những tuần lễ đầu tiên năm 1789. Bá tước de Conway, mặc dầu chống đối, cũng không thể từ chối không cấp cho giám mục một chiến hạm, để chở vị giám mục và đoàn tuỳ tùng" (Louvet, sđd, t. 427-428), còn Bouillevaux viết: "Ông (Conway) dường như đã cho hộ tống vị chủ giáo và hai tầu buôn bằng tầu nhà nước Méduse (Bouillevaux, sđd, t. 393, note 1). Thông tin này chắc lấy ở Văn khố Hội Thừa sai Ngoại quốc"[31]. Vì chúng ta đã biết rõ đầu đuôi mọi chuyện qua ngòi bút của Bá Đa Lộc trực tiếp kể lại ở trên, mới hiểu những ngòi bút thuộc địa đã ghép việc Bá Đa Lộc trở về Việt Nam với việc hai chiếc tầu Dryade và Pandour do de Kersaint và de Prévillle điều khiển, được de Conway gửi về Nam Hà ngày 15/8/1788, để thám thính tình hình, nhưng không cho Bá Đa Lộc đi theo; và bảo đó là hai chiếc tầu tháp tùng Bá Đa Lộc. Hoặc có kẻ lại lấy lời yêu cầu của Bá Đa Lộc trong thư viết cho de Conway ngày 18/3/1789, đòi nên gửi hai chiếc tầu với 300 quân... về "làm cảnh" để hù doạ Tây Sơn... làm chuyện thật. Nhưng đặc biệt nhất là lối làm việc của sử gia Maybon, người được Cadière khen là "sự sử dụng văn bản một cách khôn khéo và uyên bác nhất", tức là ông đã bác bỏ văn bản gốc do Bá Đa Lộc viết, để dùng những thông tin vô căn cứ của Ste-Croix, Chaigneau (năm 1789 chưa đến Việt Nam) và nhất là lời bịa đặt hoàn toàn của giáo sĩ Louvet: "Giám mục Bá Đa Lộc, mua vũ khí đạn dược và đổ bộ lên Nam Hà đầu tháng giêng năm 1789". Riêng giáo sĩ Bouillevaux, nhờ hai chữ dường như, được hưởng trường hợp giảm khinh. Sử gia Maybon còn nhấn mạnh rằng: thông tin này chắc lấy ở Văn khố Hội thừa sai ngoại quốc, tức là ông đã dùng tên Hội thừa sai để bảo trợ cho những nguồn tin thất thiệt.
Maybon "chứng minh" Công ty Pháp Ấn tiếp viện cho Nguyễn ÁnhSau khi "chứng minh" Bá Đa Lộc "đem tầu và khí giới về giúp Nguyễn Ánh", Maybon dùng "nguồn tin" của de Guignes để viết tiếp: "Tầu Méduse ghé bến Vũng Tầu từ 24/7 đến 4/8 [1789], và để lại đấy 2 tầu mà nó đi kèm; sau đó Méduse dừng lại ở Phi Luật Tân (từ 4/9 đến 13/12) rồi từ đó đi Macao "để lấy những lương thực mà tôi [de Guignes] đã dự trữ sẵn cho nó" de Guignes nói như thế. Công ty Ấn Độ ở Quảng Đông có lẽ cũng quan tâm tới tình trạng của ông hoàng đang chiếm lại ngai vàng và góp phần vào công trình của vị giám mục. Thực vậy, M. Lavoué viết ngày 10/10/1790 từ Chantaboun: "Hình như Công ty [Pháp Ấn] đảm nhận việc tiếp tế cho nhà vua để giúp ông ta lấy lại ngai vàng". Tầu Méduse, khi rời Macao, lại quay về Vũng Tầu, ngày 27/1/1790; đỗ ở đấy gần ba tuần lễ (tới 17/2) và sự cập bến lâu như vậy có thể giải thích là để dỡ hàng, một thứ vật liệu gì quan trọng. Ghi chú thêm rằng, Théodore Lebrun, khi đến Macao đã bỏ tầu, lại thấy có mặt ở Nam Hà giữa năm 1790 và cuối năm này, những hạm đội Âu Châu, khá đông, tụ tập ở sông Sài Gòn. Chính M. Lavoué, đã nói điều này trong lá thư vừa dẫn ở trên: "quần chúng đồn rằng hiện giờ trước thành phố này có đến 14, 15 chiến hạm" và ông [Lavoué] còn nói thêm: "nếu điều đó đúng, thì hình như Công ty Pháp Ấn đã gửi viện binh cho nhà vua". Vẫn vị giáo sĩ này, viết ở chỗ khác rằng: "những chiến hạm này của Pháp và Bồ Đào Nha" vv... [32] Vẫn với những hình như, có thể... Maybon lượm lặt và móc nối những sự kiện không liên hệ với nhau, rồi suy diễn ra, như việc tầu Méduse ghé Macao lấy "lương thực mà de Guignes dự trữ sẵn", để ngầm xác định [lương thực này viện trợ cho Nguyễn Ánh] rồi việc Lavoué viết: Công ty Pháp Ấn "hình như" cũng tiếp tế cho vua Nam Hà; đến việc tầu Méduse quay lại Vũng Tầu đỗ gần ba tuần [chắc để dỡ vật liệu quan trọng], việc Le Brun đến Nam Hà giữa năm 1790, việc có nhiều tầu Âu Châu tụ họp ở Sài Gòn, vv... để "chứng minh": tất cả những chuyến tầu này đều "tiếp tế" cho Nguyễn Ánh. Và ông kết luận: "Trong sự thiếu vắng -có thể giải thích được- những thông tin chính xác và đầy đủ chi tiết, ta đành phải ước lược liệt kê, trong khoảng những năm 1789, 1790, 1791, một số lớn những dấu hiệu cho thấy có một chuyển động đáng kể nhiều tầu giữa Ile de France và biển Đông, mà mục đích hiển nhiên là để tiếp tế cho Nguyễn Ánh"[33]. Sau khi đã dùng những "nguồn tài trợ tưởng tượng" và dùng "kho tàng của Nguyễn Ánh" để "mua vũ khí tiếp tế" cho vua Nam Hà, bây giờ Maybon lại dùng bản thống kê tên những tầu Pháp hoạt động trong vùng Ấn Độ Dương và biển Đông, thời kỳ 1785-1790, của Faure để "chứng minh" rằng có nhiều chuyển động của tàu Pháp từ Ile de France tới biển Đông, với mục đích tiếp tế cho Nguyễn Ánh!
Maybon "chứng minh" Bá Đa Lộc đánh Tây Sơn ở Diên KhánhMột điểm khá ly kỳ nữa là việc Maybon "chứng minh" Đức Giám Mục Bá Đa Lộc đã trực tiếp tham chiến. Điểm này không phải ông "khám phá" ra mà ông cũng chỉ diễn lại ý của Faure, kèm theo "nhân chứng" và "biện luận". Maybon viết: "Ông [Bá] đã đích thân tham dự vào những trận đánh. Người ta thấy ông, năm 1794, tháp tùng Hoàng tử Cảnh ra Nha Trang và đánh nhau với quân nguỵ, năm 1797, đã lên hạm đội của Nguyễn Ánh..."[34] Để chứng minh cho điều này, trong note số 1, trang 280, ông đưa ra tài liệu sau đây: "...trong một lá thư ông Le Labousse viết rằng: "trên tường thành Diên Khánh người ta đã gắn "một số đại bác bằng gỗ sơn để dọa kẻ thù". Câu này rút ra từ một chú thích của Cadière, như sau: "Trong một thư của M. Le Labousse ngày 12/7/1796, có nói trên tường thành Diên Khánh, người ta đặt một số "đại bác bằng gỗ sơn" mà Giám Mục Adran đã cho đặt ở đó để làm cho kẻ thù sợ. Còn súng thật, cũng ở đó, nhưng theo lời khuyên của giám mục Adran, không dùng".[35] Câu chú thích của Cadière thật là kỳ dị: Bá Đa Lộc đặt súng giả để cho Tây Sơn sợ, còn súng thật thì không cho dùng. Chúng tôi bèn tìm lại lá thư này của Le Labousse, thì không thấy ở đâu in lại cả: Launay in hai lá thư khác của Le Labousse viết cùng ngày, không hề có câu này. Tại sao Cadière không cho in toàn bộ lá thư ấy trong tập Les documents relatifs... của ông, mà chỉ "thuật" lại một câu ngắn gọn trong chú thích như thế? Kỳ lạ nhất là Maybon dùng câu ấy để "chứng minh" giám mục Bá Đa Lộc thực sự điều khiển trực tiếp việc giữ thành Diên Khánh! Tạ Chí Đại Trường, như thường lệ, vẫn chép các sử gia thuộc địa, đặc biệt Maybon và thêm thắt vào thành cả một chương tựa đề "Tiếp viện của Bá Đa Lộc"[36] không cần viết lại ở đây. Nhưng có một điểm đáng chú ý, ông "tả việc Bá Đa Lộc giữ thành Diên Khánh"như sau: "Ngày 2-5 đã có bộ binh Hưng và 50 voi vào Bình Khang vây kín ba mặt thành Diên Khánh. Bên trong chống giữ là Bá Đa Lộc và Hoàng tử Cảnh, với lời dặn dò của Nguyễn Ánh lúc ra đi nhắc nhở sự quan trọng của ngôi thành: "Ta đêm ngày hao mòn, từng phải cay đắng mới được chút đất này đó". Bẩy ngàn quân bên trong chống với 40.000 quân bên ngoài. Trên thành, Bá Đa Lộc cho đặt thêm nhiều đại bác giả làm nghi binh. Quân Diệu ở ngoài bắn đại bác vào không hiệu quả mới đắp lũy đất vây quanh"[37]. Ta đã kinh ngạc khi thấy học giả Cadière đưa ra một lời thư "dớ dẩn" bảo của linh mục Le Labousse viết rằng: giám mục Bá Đa Lộc sai đặt đại bác giả, còn đại bác thật không cho dùng. Lại càng kinh ngạc hơn khi thấy sử gia Maybon chép lại ý này và dùng làm chứng, cho sự "đức giám mục chỉ huy trận đánh". Nhưng đến Tạ Chí Đại Trường thì ngoài sức tưởng tượng: Gia Long giao thành Diên Khánh cho một ông thầy tu và một đứa nhỏ 13 tuổi chống với Trần Quang Diệu. Và quân Trần Quang Diệu bắn vào đại bác giả mà "không hiệu quả" đành phải xây thành đất vây quanh! Khi viết những dòng hồ đồ trên, Maybon, Cadière và những người khác, đã không biết, hoặc cố ý lờ đi lá thư của giáo sĩ Lavoué gửi Letondal, quản thủ tu viện Macao, ngày 27/4/1795, bác bỏ tất cả những luận điệu cho rằng giám mục Bá Đa Lộc đã đánh trận Diên Khánh: "Đức ông [Bá Đa Lộc] có đánh nhau không? Đức ông có dám hành động trái với lệnh Đức Thánh Cha [Giáo hoàng] không? Những kẻ biết rõ Đức ông không thể nào chấp nhận đó là điều tin được và họ có lý. Không, Đức giám mục Adran không đánh nhau gì hết. Nhà vua đã khẩn khoản nài nỉ Đức ông tháp tùng hoàng tử ra Nha Trang, vùng mới chiếm được, để giữ thành. Hoàng thượng nói thêm: "Nếu ngươi không đi với nó, thì nó sẽ quên những điều ngươi dạy và chắc chắn sẽ hư hỏng cả. Ta gửi nó đi bởi vì ta biết tên nó sẽ tạo sự kính nể, bắt buộc tất cả các quan phải can đảm, thà chịu chết chứ không bỏ nó. Nếu không có nó, thì bọn bầy tôi của ta sẽ bỏ chạy ngay khi nghe tin quân Tây Sơn đến"[38]. Lavoué viết có lẽ hơi thêm thắt, Nguyễn Ánh chắc không nói là các tướng bỏ chạy khi quân Tây Sơn đến, vì đó là các đại tướng có uy tín như Phạm Văn Nhơn, Tống Phước Đạm. Việc vua sai Đông cung đi trấn thành Diên Khánh nằm trong thông lệ của nhà Nguyễn có từ thời các chúa ngày trước: chuẩn bị cho người nối ngôi có kinh nghiệm chiến đấu và cai trị, vì vậy, các chúa thường cho thế tử làm trấn thủ Quảng Nam, trước khi lên kế vị. Như trường hợp chúa Hiền Nguyễn Phước Tần (1648-1687) khi còn là Dũng Lễ Hầu, đã chiến thắng quân Hoà Lan, năm 1644, ở vịnh Đà Nẵng. Gia Long tiếp tục truyền thồng này, bắt đông cung Cảnh đi trấn Diên Khánh ở tuổi 13, và khi đi đánh Quy Nhơn năm 1800, dẫn Minh Mạng lúc ấy mới 9 tuổi đi theo. Về thành Diên Khánh: vua sai đông cung Cảnh trấn thủ Diên Khánh hai 2 lần: 1- Lần đầu, từ tháng 12/1793 đến tháng 8/1794, Cảnh mới 13 tuổi. 2- Tháng 11-12/1798 vua sai Cảnh, 18 tuổi, làm tướng, thống lĩnh tướng sĩ dinh Tả quân và vệ tiền quân Thần Sách, đến giữ Diên Khánh, lần thứ nhì. Có Bá Đa Lộc, Tống Viết Phước và Nguyễn Công Thái, hậu thuẫn. Tống Viết Phước tính nóng, lúc giận, xỉ nhục Bá Đa Lộc, bị gọi về Gia Định quở phạt. Từ tháng 11-12/1798 đến tháng 5/1799, mặt trận Diên Khánh yên tĩnh, áp lực dồn về Quy Nhơn. Cuối cùng, Võ Tánh hạ được Quy Nhơn. Tống Viết Phước tử trận. Bá Đa Lộc mất ở Quy Nhơn ngày 9/10/1799 sau ba tháng bị bệnh dịch tả. Mặt trận Diên Khánh, phần quyết liệt, xẩy ra khi Cảnh trấn thủ Diên Khánh lần đầu lúc 13 tuổi (từ tháng 12/1793 đến tháng 8/1794) cùng với các thầy học: Bá Đa Lộc, Trịnh Hoài Đức, Ngô Tòng Châu và các tướng: Phạm Văn Nhơn (Phó tướng Tả quân), Tống Phước Đạm (Giám quân Trung dinh), Mạc Văn Tô, Nguyễn Đức Thành. Tháng 2/1794, Chưởng dinh Nguyễn Huỳnh Đức, xin ở lại Diên Khánh giúp Đông cung. Nguyễn Vương còn sai Nguyễn Văn Khiêm, phó Vệ uý vệ túc trực quân Thần Sách đến Diên Khánh phò Đông Cung[39]. Như vậy, Cảnh, 13 tuổi, trấn Diên Khánh, vị trí địa đầu, với một bộ tổng tư lệnh quân đội gồm 3 đại tướng: Phạm Văn Nhơn, Tống Phước Đạm, Nguyễn Huỳnh Đức và các thầy dạy là giám mục Bá Đa Lộc và hai học giả Trịnh Hoài Đức và Ngô Tòng Châu. Đến khi vua quyết định thân chinh cứu Diên Khánh, mới gọi Nguyễn Huỳnh Đức về trấn Gia Định. Trong số các đại tướng ở lại trong thành Diên Khánh với Đông cung, có Phạm Văn Nhơn là thầy dậy về binh bị, và Tống Phước Đạm là một vị tướng lão thành, mưu lược, họ ngoại của Đông cung (chính ông đã dâng chiến lược bỏ Xiêm, trở lại chiếm Nam Hà, khi anh em Tây Sơn bất hoà, và làm kế phản gián, chia rẽ Phạm Văn Tham và Nguyễn Lữ, năm 1787). Thực Lục ghi công tướng Tống Phước Đạm giúp Đông cung đắc lực trong việc giữ thành Diên Khánh[40]. Ngoại trừ Cadière, các tác giả thực dân khi viết về giai đoạn này, thường "không thèm biết" đến toàn bộ lực lượng đại binh của Nguyễn Vương, coi như không có, tôn Bá Đa Lộc lên làm đại nguyên soái, chỉ huy, giữ thành Diên Khánh, với những "chứng cớ" khôi hài, đi ngược lại với lá thư của linh mục Lavoué ngày 27/4/1795, xác định vị giám mục không hề tham dự vào cuộc chiến.
Maybon tổng kết công lao Bá Đa LộcSau khi đã hoàn thành xong toàn bộ "lập luận" về công trạng của Bá Đa Lộc và các sĩ quan Pháp. Maybon "tổng kết" công trạng này bằng những hàng sau đây: "Vai trò của nhóm người can đảm đếm trên đầu ngón tay này, trong sự thiếu vắng thông tin mong đợi, không thể xác định được một cách chi tiết. Nhưng không thể chối cãi được rằng họ đã góp phần lớn lao vào chiến thắng của Nguyễn Ánh. Ấy là chưa kể đến phần của họ trong những trận đánh quan trọng như trận tiêu diệt hạm đội của Tây Sơn năm 1792 và những trận dẫn đến chiến thắng Huế năm 1801. Người ta không khỏi khâm phục công trình kiến tạo mà họ đã thực hiện trong những điều kiện không mấy thuận lợi: họ đã xây dựng một nền hải quân theo lối Tây phương và thành lập đội ngũ thủy binh; họ đã huấn luyện quân đội, họ đã đưa kỷ luật vào quân đội, thành lập những cấp chỉ huy; họ đã đúc đại bác, dạy cho người An Nam cách dùng trái phá, họ đã tạo ra đội ngũ pháo binh lưu động mà sự di chuyển đã khiến quân Tây Sơn khiếp viá; họ đã xây dựng những thành đài"[41]. Những dòng ca tụng "công trạng" của những "sĩ quan" Pháp này hoàn toàn chép lại Ste-Croix và Faure mà chúng tôi đã trình bầy trong các chương trước. Không có gì của Maybon cả, cho nên chúng ta không cần bận tâm phân tích và phê bình. Việc đưa vài người lính Pháp, binh nhất, binh nhì, gần như vô học, viết chữ Pháp chưa thạo, lên địa vị hàng đầu, đã thành lập và chỉ huy toàn bộ quân đội và xây dựng các thành trì của Gia Long và nước Việt Nam như thế, với những "chứng từ" như thế, khiến người nghiên cứu đứng đắn không khỏi e ngại trình độ học thuật và lương tri trí thức của giới nghiên cứu thuộc điạ. Cuối cùng chúng ta thử đọc những hàng Maybon viết về công lao của Bá Đa Lộc: "Không còn nghi ngờ gì nữa, những người góp phần hữu hiệu nhất vào cuộc chinh phục ngai vàng, Olivier, Dayot, Vannier, Chaigneau, đã chỉ hành động dưới sự thúc đẩy và điều khiển của ông [Bá Đa Lộc]; ông đã quy tụ họ thành ban cố vấn để giải quyết những vấn đế quân sự và tìm giải pháp cho các vần đề được giao phó. Ngoài ra, ông còn dịch sang tiếng Nam, người ta thường kể như thế, những tác phẩm về thuật chiến đấu và ông uốn nắn đầu óc nhà vua làm cho ông ta có đủ khả năng để hiểu điểm cốt yếu trong những phương pháp Tây phương. Sau cùng, ông đích thân dự vào những trận đánh. Người ta thấy năm 1794 ông đi kèm Hoàng tử Cảnh ra Nha Trang và ông chiến đấu chống quân nguỵ; năm 1797, ông ở trên hạm đội của Nguyễn Ánh; năm 1799..." Sau khi tiếp tục kể lể công trạng của Bá Đa Lộc cả trang nữa, ông liệt kê những nhược điểm của Nguyễn Ánh: "tính uể oải bẩm sinh", "luẩn quẩn, do dự", "thích an nhàn", "thoả mãn với việc trị vì Sài Gòn", "sợ hiểm nguy trong việc tấn công", vv... may nhờ đức giám mục cảnh giác, kiên trì theo đuổi "mục đích đã vạch sẵn là đưa ông hoàng trở lại ngai vàng của tiền nhân". Và sau cùng ông vẽ chân dung tổng quát của Bá Đa Lộc như sau: "Pigneau không chỉ thỏa mãn với vai trò lãnh đạo, ông còn quan tâm đến cả những chi tiết; ta đã biết lá thư của Nguyễn Ánh viết cho Louis XVI, rõ ràng Giám Mục là người cổ xuý, nếu không muốn nói là người viết lá thư này; còn những trường hợp khác, dường như lại rõ ràng ông làm cố vấn khôn khéo cho mối liên hệ với đại diện các nước Âu Châu trong biển Ấn Độ và Trung Hoa, với những chính quyền Macao, Phi Luật Tân, Bengale; từ thư gửi vua Anh đến vua Đan Mạch cũng mang dấu ấn thiên tài của ông. Làm một thứ Bộ trưởng Chiến tranh kiêm Bộ trưởng Ngoại giao của nhà vua và trong tất cả mọi trường hợp, là bạn và là người hết lòng che chở, khôn khéo, cứng rắn, đó là vai trò của vị chủ giáo trứ danh bên cạnh nhà vua, là người đã dẫn dắt ông ta tới ngai vàng một nước hùng mạnh nhất miền đông bán đảo Hoa Ấn"[42]. Đoạn này, cũng vẫn không phải của ông, sử gia Maybon vẫn chép lại những xác định vô bằng cớ của Faure, đại loại như: "Đức giám mục Bá Đa Lộc trực tiếp thương lượng với các cường quốc bên ngoài, tổ chức các hạm đội và quân đội, lãnh đạo hoặc chỉ huy những đoàn quân lớn", "trong những hội đồng chiến tranh" đức cha luôn luôn ngồi cạnh và ngang hàng với vua"."Đức giám mục... cho Dayot làm tư lệnh hải quân với chức vụ hải quân đại tá". "Olivier là Tổng Tham Mưu Trưởng quân đội dưới quyền điều khiển của Đức Cha.[43]" vv... Nhưng Faure chưa dám nói rằng: Bá Đa Lộc viết cả thư từ cho vua Gia Long, cũng như không dám viết mộc câu xúc phạm tột điểm, như: ông Bá uốn nắn đầu óc nhà vua làm cho ông ta có đủ khả năng để hiểu điểm cốt yếu trong những phương pháp Tây phương. Nếu vị sử gia thời danh này đọc kỹ tài liệu thì ông đã không thể viết những dòng bịa đặt trắng trợn như thế: Trong thư Bá Đa Lộc viết cho Conway, từ Virampatnam ngày 18/3/1789, mà chúng tôi đã nói đến ở trên, có câu: "Vì một sự hiểu nhầm về chỗ hẹn, nên cha Paul [Hồ Văn Nghị] giáo sĩ người Việt, đã không thể đưa cho hiệp sĩ de Kersaint, thuyền trưởng tầu Dryade, những gói đồ mà nhà vua gửi cho tôi, gồm có: 1- Một thư cám ơn của nhà vua gửi cho vua Pháp. 2- Một lá thư khác gửi cho hoàng tử, con ông ở đây... "[44] Lá thư này Bá Đa Lộc viết ngày 18/3/1789, khi còn ở Ấn Độ, bốn tháng sau ông mới về tới Việt Nam (ông đến Vũng Tầu ngày 14/7/1789), mà ông đã nói đến lá thư vua Gia Long viết cám ơn Pháp hoàng. Vậy có thể nào "thiên tài" Bá Đa Lộc "viết thư hộ" vua Gia Long, khi ông còn ở trên đất Ấn Độ hay không? Còn các thư vua Gia Long viết cho vua Anh, vua Đan Mạch, chúng tôi sẽ dịch toàn bộ trong chương 20, Chính sách đối ngoại của vua Gia Long, không lẽ Gia Long lại nhờ Bá Đa Lộc viết thư bằng tiếng Pháp để gửi cho vua Anh và vua Đan Mạch? Maybon không biết một truyền thống có từ thời các chúa Nguyễn, là khi giao dịch với nước ngoài, chúa dùng chữ Hán, rồi văn phòng nước ấy sẽ có người dịch sang tiếng của họ. Những "chứng từ" như thế, với lối suy diễn như thế, hách dịch và trịch thượng như thế, làm người đọc hiểu rõ phong cách của tác giả Histoire moderne du pays d'Annam, đoạt học vị tiến sĩ và tác phẩm được Cadière đánh giá là kiệt xuất. Dường như đó là thực chất nội dung "giáo hoá" dân Việt của các vị học giả thực dân.
[1] Và in trên tập san Đô Thành Hiếu Cổ, BAVH, 1920, I, t. 177-181. [2] Cadière, Une Histoire moderne du pays d'Annam, BAVH, 1920, I, t. 177. [3] Librairie Plon, Paris, 1920. [4] Cadière, BAVH, 1920, I, t. 180. [5] Nguyên văn: "Le roi, Monsieur, s'étant déterminé à accorder des secours au prince de la Cochinchine, pour qui l'évêque d'Adran était venu en France les réclamer de sa bonté, c'est sur vous que Sa Majesté a arrêté son choix pour commander l'expédition et diriger l'établissement qui doit en être la suite. Ses intentions vous sont clairement manifestées par les Instructions, ci- jointes, dont l'une est ostensible, selon l'usage que votre prudence vous suggérera d'en faire, l'autre secrète. Cette dernière vous laisse maitre de ne point entreprendre l'opération ou de la retarder, d'après votre opinon personnelle, les documents que vous aurez reçus, ou ceux que vous pourrez recevoir, tant sur la facilité du succès que sur les avantages de l'établissement projeté. Une telle marque de confiance de Sa Majesté vous prouve combien elle se repose sur vos lumières et sur votre zèle" (Launay, III, t.197-198). [6] Tức Hồ Văn Nghị đã tới Pondichéry để chờ tin Bá Đa Lộc và hoàng tử Cảnh. [7] Launay, III, t. 180. [8] Launay, III, t. 183. [9] Nguyên văn: "De mon côté, après un exemple de cette nature, je ne croirais plus pouvoir me justifier auprès de la Cour, si je laissais à d'autres des soins que je peux seul prendre avec sureté. Je me croirais d'ailleurs indigne de la confiance dont le roi a bien voulu m'honorer, si j'osais préférer ma tranquillité à un voyage pénible pour moi à la vérité, mais devenu nécessaire pour le bien de son service. C'est pour cette raison, Monsieur le Comte, que je renouvelle les demandes que j'ai déjà eu l'honneur de vous faire dans ma première lettre, et que j'ose vous prier de ne plus différer à vous décider. Si vous consentez à me laisser partir pour la Cochinchine avec les moyens et pour la fin que j'ai eu l'honneur de vous proposer, je vous ferai part alors des ressources que j'ai seul, pour rendre ce voyage utile" (Launay, III, t. 188). [10] Launay, III, t. 188. [11] Launay, III, t.188-189. [12] Launay, III, t.189-190. [13] Launay, III, t.192. [14] Ông de Vaires là Tổng quản Thuộc Điạ (Intendant général des Colonies). [15] Launay, III, t.198-199. [16] Launay III, t.194. [17] Launay, III, t.194-196. [18] Nguyên văn: "Pigneau n'était pas sans avoir, pour sa bonne part, contribué au relèvement de la situation de Nguyễn Ánh: on se rappelle que, dès le début de son séjour à Pondichéry, au cours d'une conversation sans doute assez vive, il avait dit à Conway en présence de Saint-Riveul, "que lui, évêque d'Adran, ferait seul la révolution". Plus tard, le 11/7/1788, écrivant au général pour réitérer sa demande d'être envoyé en Cochinchine, il disait: "Si vous consentez à me laisser partir... je vous ferai part des ressources que j'ai seul pour rendre ce voyage utile". Il n'aurait pas tenu un tel langage s'il n'avait pas eu par devers lui des moyens assurés de contribuer à l'expédition, quels étaient ces moyens? Il avait reçu à son départ de France, en remboursement de ses avances, 30.000 livres du ministère. L'évêque avait dépensé de ces fonds pour l'entretien du prince, au delà de 40.000 livres, en sus des sommes que lui avait remises Nguyễn Ánh. Le maréchal de Castries lui avait fait remettre 4.000 écus pour les dépenses du prince à Paris; mais pour le voyage de retour, et les autres besoins, Pigneau n'avait "plus aucune ressource". (Maybon, Histoire moderne du pays d'Annam, t. 267-268). [19] Faure, Bá Đa Lộc, Pièces justificatives, 4e-La Méduse, t. 243. [20] Launay, III, t. 210. [21] Nguyên văn: "Je viens d'arriver en Cochinchine,... je suis revenu sans les secours que le roi de France avait accordés à celui de Cochinchine; mais j'ai confiance que la divine Providence en aura ainsi disposé... J'attends, sous peu de jours, des vaisseaux marchands de Pondichéry, qui, s'ils arrivent, suppléeront aisément aux vaisseaux de guerre... Le roi sera dispensé de leur accorder du terrain, il en sera quitte pour leur payer les dépenses qu'ils auront pu faire et leur donner des gratifications" (Launay III, t. 209). [22] Launay, III, t. 210. [23] Launay, III, t. 294. [24] Nguyên văn: Plusieurs négociants patriotes de cette colonie avaient offert à l'évêque d'Adran toutes leurs ressources pour l'aider dans l'exécution d'un projet qui serait devenu si avantageux à la nation (Maybon, Histoire moderne du pays d'Annam, t. 268). [25] Nguyên văn: "...cette expédition ne pouvait avoir lieu. J'autorisais M. le comte de Conway à vous fournir les moyens de revenir en France, si vous préfériez ce parti". (Launay, III, t. 199). [26] Maybon, Histoire moderne du pays d'Annam, t. 268-269. [27] TL, I. t. 253. [28] Ste- Croix, Relation Bissachère, t. 94. [29] Maybon, t. 269-270. [30] Maybon, t. 271-272. [31] Maybon, note 4, t. 271. [32] Maybon, sđd, t. 272-273. [33] Maybon, t. 273. [34] Maybon, t. 280. [35] Cadière, Les documents relatifs à l'époque de Gia Long, t. 34, note 1. [36] Lịch sử nội chiến ở Việt Nam, t. 200- 208. [37] Lịch sử nội chiến ở Việt Nam, t. 279. [38] Launay, III, t. 286-287. [39] TL, I, t. 302, 305. [40] TL, I, t. 314. [41] Maybon, sđd, t. 279. [42] Maybon, t. 279-283. [43] Faure, Bá Đa Lộc, Chương 17 và 18. [44] Launay, III, t. 195. Thụy Khuê © Copyright Thuy Khue 2015
|