Thụy Khuê
 

Khảo sát công trạng của những người Pháp giúp vua Gia Long

 

Chương 16

 

Chúa Nguyễn đuổi quân Hoà Lan và quân Anh

 

 

Trước khi khảo sát công trạng của những người Pháp đến giúp Nguyễn Ánh, chúng ta cần biết sơ qua về tình trạng tầu thuyền, khí giới của quân đội Nam Hà, về việc chúa Nguyễn đánh đuổi quân Hoà Lan ở Cửa Việt, năm 1585, ở cửa Thuận An, năm 1644 và Trương Phước Phan đuổi quân Anh ở Côn Lôn, năm 1703.

 

Chúa Sãi đóng tầu theo kiểu Tây phương

Năm 1558, khi Chúa Tiên Nguyễn Hoàng (1600-1613) xin vào Nam, ông chỉ được trấn thủ đất Thuận Hoá, đến năm 1570, Trịnh Tùng (1570-1620) triệu trấn thủ Quảng Nam về Nghệ An, Nguyễn Hoàng kiêm cả đất Quảng Nam. Ông giao đất này cho người con thứ sáu, là Nguyễn Phước Nguyên, sau trở thành chúa Sãi (1613-1635) trấn thủ. Từ đó, chúa Nguyễn có lệ cho các Thế tử trấn thủ đất Quảng Nam, và chức trấn thủ Quảng Nam có quyền quản lý toàn bộ Nam Hà, tương tự như chức Thủ tướng ngày nay, trước khi nối ngôi cha. Vì vậy, hai lần đánh quân Hoà Lan, năm 1585 và 1644, đều do hai thế tử Nguyễn Phước Nguyên và Nguyễn Phước Tần, sau trở thành Chúa Sãi và Chúa Hiền, hai lãnh tụ lớn của nhà Nguyễn, đảm trách.

Về thuật võ trang và luyện tập quân sĩ của chúa Sãi, giáo sĩ Cristoforo Borri (1583-1632) người Ý, đến Đàng Trong năm 1618, ghi lại trong bài Relation de la Cochinchine (Ký sự Đàng Trong) như sau:

"Chúa đã dành một thời gian dài để chuẩn bị [chiến tranh với chúa Trịnh], ông đã gom nhặt những khẩu đại bác khác nhau do các tầu Bồ Đào Nha hoặc Hoà Lan, bị bão dạt vào các mỏm đá. Có khoảng 60 khẩu súng đại bác do người dân quê vớt được trong đó có vài cỗ rất lớn. Người Đàng Trong rất sành việc sử dụng những khẩu súng này, họ biết nạp đạn và bắn trúng đích hơn cả người Âu. Họ luyện tập không ngừng để bắn trúng đích và họ rất thành công, nên họ rất tự hào về thành quả của mình. Vì thế, mỗi khi có tầu Âu Châu ghé vào hải cảng của họ, những thuỷ thủ của chúa liền thách đố pháo binh của ta và những người này, biết trước là không thể đọ sức với họ được, luôn luôn tránh các cuộc thách đố, bởi kinh nghiệm cho biết trước, rằng người Nam bắn rất trúng đích, mặc dù với những khẩu đại bác [tồi hơn], trúng hơn cả người Âu với súng hoả mai có tầm nhắm tối tân hơn. Họ lại cũng biết dùng cả súng hoả mai, và bất cứ thời tiết nào họ cũng ra đồng tập dượt, để bắn trúng đích. Thêm nữa [chúa Nguyễn] có hơn trăm chiến thuyền, càng khiến họ muốn đối đầu [với chúa Trịnh]. Mạnh trên biển, có đại bác trên bộ, chúa Nguyễn ăn chắc phần thắng chúa Trịnh ở Bắc. Ngoài ra, Đàng Trong buôn bán liên tục với người Nhật, mua được nhiều mã tấu rèn rất tinh vi của Nhật..."[1]

 

Chúa Hiền đúc đại bác

Đến đến thời chúa Hiền Nguyễn Phước Tần (1648-1687), cháu nội của Chúa Sãi, việc đúc súng đã phát triển. Là nhà chinh phục và chính trị gia lớn, chúa Hiền từng đánh bại hạm đội Hoà Lan ở cửa Thuận An tháng 5/1644, lúc còn là thế tử Dũng Lễ Hầu. Năm 1648, ông đánh bại Trịnh Tráng (1623-1657) ở Đồng Hới, và nhiều trận sau nữa... đồng thời ông chiếm Chiêm Thành và đánh xuống Thủy Chân Lạp. Một quân đội hùng mạnh như vậy, cần chiến thuyền và đại bác. Vì vậy, ngoài việc mua vũ khí của nước ngoài, ông còn thuê một người ngoại quốc, mở lò đúc súng tại Huế.

Học giả Cadière trong bài Le quartier des Arènes, Jean de la Croix et les premiers Jésuites, (Khu Thợ Đúc, Jean de La Croix và những linh mục dòng tên đầu tiên)[2] đã nghiên cứu về sự nghiệp đúc súng của Jean de la Croix ở Huế.

Ngày 5/1/1683, một vị đại thần của chúa Hiền tiếp giám mục Laneau đến Huế, nói với vị giám mục rằng: "Nếu ngài muốn chúa ưu đãi đạo, thì chỉ cần dâng vài khẩu đại bác tốt của Pháp, chúa rất muốn biết đại bác của Pháp ra sao. Ở đây chúng tôi chẳng thiếu gì đại bác của Hoà Lan, Đức, Bồ Đào Nha, riêng của Ấn Độ là thứ tốt nhất ở nước Nam."[3]

Câu nói trên phản ảnh sức mạnh quân sự, tình trạng khí giới của chúa Hiền và sự giao thương với ngoại quốc ở Đàng Trong. Khi vị đại thần nói đến "đại bác của Ấn Độ", là ông muốn nhún nhường khoe đại bác của Chúa do Joao Da Crus, lai Ấn Độ, đúc ở phường Thợ Đúc, Huế.

Trong khoảng hai mươi năm từ 1660 đến 1682, một người Ấn Độ lai Bồ hay Y, tên Joao Da Crus (Jean de la Croix) đã mở lò đúc súng cho chúa Nguyễn Phước Tần, dựng nên khu Thợ Đúc. De La Croix được chúa xử rất hậu, trả lương 500 écus mỗi năm, cho phép xây nhà thờ riêng, tức là nhà thờ Phủ Cam, trong lúc chúa không có thiện cảm gì với đạo Thiên chúa. Phường Thợ Đúc, qua các biến cố lịch sử, Huế thay đổi chủ, vẫn tiếp tục công việc đúc súng suốt thời Tây Sơn sang đến thời Gia Long: Đức Chaigneau có nhắc đến lò đúc trong hồi ký Souvenirs de Huế.

Theo Cadière, Jean de la Croix đến Huế khoảng 1660 và ông mất khoảng 1682. Clément de la Croix tiếp tục công việc đúc súng của cha. Học giả Cadière còn tìm lại và xác định được vị trí các khu phố của phường đúc tại Huế, có nơi gọi là Trường Đồng, tức trường tập bắn.

Như vậy Jean de la Croix là "thuỷ tổ" nghề đúc súng đại bác tại Huế. Ông được hưởng ân sủng của chúa Hiền, được xây nhà thờ riêng, mời các giáo sĩ Bồ đến dựng họ đạo Phủ Cam.

Về cuộc đàn áp đạo năm 1664, theo giáo sĩ Chevreuil, nguyên do như sau:

Có một số người đồn rằng "người bị đóng đinh trên thánh giá là vua Bồ". Chúa Hiền thường hỏi Jean de la Croix về tình hình bên ngoài, vì ông hay đi Ấn Độ mua bán, về thế lực của người Bồ ở Ấn Độ: có bao nhiêu chiến thuyền Bồ ở Goa và Macao, những người theo đạo ở Ấn Độ có buộc phải mặc y phục Bồ không? vv... Lời trình của La Croix làm chúa e ngại, Chúa biết các cha cố đã dẫn đường cho quân Bồ chiếm Ấn Độ, thì họ cũng có thể dẫn quân Bồ đến chiếm Nam Hà. Đó là lý do khiến năm 1664, chúa hạ lệnh đàn áp đạo, bắt giáo dân bước lên Thánh giá, vì chúa tưởng người bị đóng đinh câu rút là vua Bồ[4]. La Croix rất ghét các cố đạo Pháp và Chúa Hiền cũng biết việc cạnh tranh khốc liệt giữa giới giáo sĩ Pháp và Bồ. Ngoài ra, các thừa sai lại "đi hai hàng" giao thông cả với chúa Trịnh, nên họ bị nghi ngờ chở "gián điệp" Bắc vào Nam. Tất cả những sự kiện này gây cho giáo hội thừa sai Pháp, trong buổi đầu, khi giám mục Lambert de la Motte trốn vào đất Việt, năm 1671, những khó khăn không nhỏ.

Khi đã rõ qua tình hình như vậy, chúng ta mới thấy những lập luận cho rằng mấy người lính Pháp đến giúp Nguyễn Ánh năm 1790, đã dạy người Việt đóng tầu, đúc súng... là bịa đặt cả.

 

 

Chúa Nguyễn hai lần đánh bại tầu Hoà Lan

Đầu thế kỷ XVIII, Nam Hà là một sức mạnh đế quốc, vừa chiếm xong hai nước Chiêm Thành và Thuỷ Chân Lạp. Nhưng trong thế kỷ XVI và XVII, Nam Hà cũng đã hai lần đánh đuổi tầu Hoà Lan, Thực Lục ghi:

- "Năm Ất Dậu [1585], bấy giờ có tướng giặc nước Tây Dương, hiệu là Hiển Quý (Hiển Quý là tên hiệu của bọn tù trưởng phiên [phản] không phải là tên người) đi năm chiếc thuyền lớn, đến đậu ở Cửa Việt để cướp bóc ven biển. Chúa [Nguyễn Hoàng] sai hoàng tử thứ sáu [Nguyễn Phước Nguyên sau là Chúa Sãi] lĩnh hơn 10 chiếc thuyền, tiến thẳng đến cửa biển, đánh tan hai chiếc thuyền giặc. Hiển Quý sợ chạy"[5].

Nguyễn Khoa Chiêm, trong Nam Triều Công Nghiệp Diễn Chí (viết năm 1719), để việc này vào năm Quí Dậu (1573), kể chi tiết hơn:

"Lại nói năm ấy ở Đàng Trong, Đoan Quốc Công Nguyễn Hoàng làm trấn thủ hai xứ Thuận Quảng, dân chúng được yên vui, trong cõi yên bình thịnh vượng. Bỗng nghe tin có bọn "giặc giầu sang" (Hiển quý tặc) đem năm chiếc tầu đến đậu ở ngoài khơi Cửa Việt, dùng thuyền nhỏ vào bờ cướp bóc dân lành. Chúa nghe tin liền sai con là Thụy Quận Công (Nguyễn Phúc Nguyên) đem quân đi quyét diệt.

Thụy Quận Công vâng lệnh đem hơn 10 chiến thuyền đi thẳng đến Cửa Việt, thấy thuyền giặc còn ở cách hơn ba mươi dặm, tất cả đều móc neo đậu liền nhau một dải. Quận Thụy cả giận đốc thúc thuỷ quân tiến thốc lên. Đoàn thuyền chiến như một con trường xà đuổi tới, tiếng súng đồng lọat phát nổ, vang động trời đất. Hai tầu giặc bị bắn vỡ. Bọn "giặc giầu sang" cả sợ, vội kéo neo cuốn buồm chạy gấp ra biển Đông. Thụy Quận Công xua quân đuổi theo không kịp, chỉ thu được một số đồ vật của tầu giặc nổi trên biển đem về. Thụy Quận Công lao vào triều báo tin. Đoan vương cả mừng, vỗ về, uỷ lạo rằng: "Con ta thật anh hùng". Nói đoạn bèn trọng thưởng cho Thụy Quận Công, ban khen hậu hĩnh cho ba quân tướng sĩ, mở tiệc mừng. Từ đó về sau tầu của bọn "giặc giầu sang" không dám mon men gần cõi, dân miền ven biển cũng được yên nhờ "[6].

Hơn nửa thế kỷ sau, cháu của chúa Sãi, là chúa Hiền Nguyễn Phước Tần khi còn là Thế tử Dũng Lễ Hầu, lập lại chiến công này: ông đánh quân Hoà Lan ở cửa Eo, Lê Quý Đôn viết:

"Tháng 4, năm Quý Mùi [tháng 6/1643], con thứ hai Phúc Lan là Phúc Tần đem thuỷ quân đánh phá được mười chiếc tầu của giặc Ô-Lan [Hoà Lan] ở cửa Eo [cửa Thuận An]. Phúc Lan khen là dũng, bèn có ý dựng là con nối nghiệp"[7].

Thực Lục ghi việc này vào tháng 4 năm Giáp Thân [tháng 5/1644], viết chi tiết hơn:

"Bấy giờ giặc Ô Lan đậu thuyền ngoài biển cướp bóc lái buôn. Quân tuần biển báo tin. Chúa [Chúa Thượng Nguyễn Phước Lan (1635-1648)] đang bàn kế đánh dẹp. Thế Tử [Nguyễn Phước Tần] tức thì mật báo với chưởng cơ Tôn Thất Trung [con thứ tư chúa Sãi, chú của Tần] ước đưa thuỷ quân ra đánh. Trung lấy cớ chưa bẩm mệnh, ngần ngại chưa quyết. Thế tử đốc suất chiến thuyền của mình tiến thẳng ra, Trung bất đắc dĩ cũng đốc suất binh thuyền đi theo, đến cửa biển thì thuyền Thế tử đã ra ngoài khơi. Trung lấy cờ vẫy lại, nhưng Thế tử không quay lại. Trung bèn giục binh thuyền tiến theo. Chiến thuyền trước sau lướt nhanh như bay. Giặc trông thấy cả sợ, nhắm thẳng phiá đông mà chạy, bỏ rơi lại một chiếc thuyền lớn. Thế tử đốc quân vây bắn. Tướng giặc thế cùng, phóng lửa tự đốt chết. Thế tử bèn thu quân trở về.

Chúa mới nghe tin Thế tử đi có một mình cả sợ, bèn tự đốc suất đại binh tiếp ứng, vừa tới cửa biển, xa trông khói đen bốc mù trời, kíp ra lệnh cho các quân tiến lên. Tới khi được tin thắng trận chúa mừng lắm, kéo quân về hải đình để chờ. Thế tử đến bái yết, Chúa giận trách rằng: "Mày làm Thế tử, sao không thận trọng giữ mình? (...) Rồi chúa cười nói rằng: "Trước kia tiên quân ta [chúa Sãi] đã từng đánh phá giặc biển, nay con ta cũng lại như thế, ta không lo gì nữa"[8].

Sau chiến thắng này, uy thế của chúa Nguyễn càng mạnh, những tầu bè của Tây dương khi đi qua vùng Quảng Nam đều gờm, không dám tính chuyện gì nữa.

 

 

Trương Phước Phan diệt quân Anh ở Côn Lôn

Quần đảo Côn Lôn có vị trí chiến lược quan trọng trong thời kỳ mọi giao thông quốc tế phần lớn dùng đường thuỷ. Quần đảo này ở trên đường đi của các tầu từ Âu Châu sang đông Á, cho nên thuyền, tầu thường dùng làm trạm đỗ. Đại Nam Nhất Thống Chí viết:

"Đảo Côn Lôn, từ cửa Cần Giờ, tỉnh Gia Định, đi thuyền một đêm một ngày thì đến. Đảo rộng trăm dặm. Bản triều trước cho lệ vào đạo Cần Giờ, sau đổi cho tỉnh Vĩnh Long quản hạt. Đời trước bỏ cho bọn ác di, Chà Và [Mã Lai] làm sào huyệt, mỗi năm, chúng nhân gió mùa đông nam đi thuyền vào cướp các châu Giao, Ái, đánh chiếm các châu thành, cướp bóc nhân dân. Đến nước Đại Việt Nam, thì ta mới đuổi chúng đi xa, kén đinh tráng trên đảo biên làm đội ngũ để phòng vệ nghiêm ngặt. Từ đó, người Chà Và không dám phạm hải phận ta nữa, dân ngoài biển của ta mới được ở yên. Đảo ấy sản yến sào, đồi mồi, vích [hải quy, rùa biển rất lớn], quế, cá hàm hương, trai tai tượng, và các thức đồ ăn, tuyệt không có gì khác. Phiá tây nam đảo có suối nước ngọt. Thuyền biển từ Gia Định đi Tân Gia Ba, Xiêm La đều lấy đảo ấy làm nêu để ngắm. Sách Phủ Biên Tạp Lục của Lê Quý Đôn thì chỉ chép vắn tắt rằng: Họ Nguyễn lại đặt đội Bắc Hải, không định số người, hoặc là người thôn Tứ Chính phủ Bình Thuận, hoặc là người xã Cảnh Dương (Ròn) [Bình Thuận], có ai tình nguyện thì cấp giấy sai đi, miễn cho tiền sưu và các thứ tiền tuần đò, sai ngồi thuyền câu, tư đến các xứ Bắc Hải, Côn Lôn và các cù lao ở Hà Tiên để kiếm lượm những vật của tầu (đắm), cùng đồi mồi, hải ba...""[9].

Xin nhắc lại, kể từ tháng giêng năm Quý Dậu [2/1693], Quốc chúa Nguyễn Phước Chu (1691-1725) đã sai Nguyễn Hữu Kính chiếm nốt đất Chiêm Thành: tháng ba Quý Dậu [4/1693] vua Chiêm là Bà Tranh thua chạy, chiếm được nước này, đổi tên là trấn Thuận Thành và tháng 8 Quý Dậu [tháng 9/1693], đổi làm phủ Bình Thuận[10]. Vậy đội Bắc Hải chỉ có thể lập sau năm 1693, và như vậy, quần đảo Côn Lôn, trực thuộc nước ta, kể từ sau năm 1693.

Vẫn theo Nhất Thống Chí, khi người Hoà Lan bị mất thuộc địa Đài Loan [1661][11], đã vào chùa Phổ Đà cướp phá, lấy chuông đồng tượng Phật đúc thời Vạn Lịch[12] đem đi, đến đồn trú ở đảo Côn Lôn, nhưng bị thuồng luồng [?] làm hại; rồi đồ đảng đánh lẫn nhau nên chết nhiều, còn lại mươi người bỏ đi chỗ khác. Vậy khi người Hoà Lan đến chiếm Côn Lôn, đảo này chưa thuộc về Việt Nam. Nhưng từ khi Quốc chúa thiết lập đội Bắc Hải, "kén đinh tráng trên đảo biên làm đội ngũ để phòng vệ nghiêm ngặt" theo lời Lê Qúy Đôn và Nhất Thống Chí, thì Côn Lôn mới thực sự trực thuộc vào nước ta. Và Nhất Thống Chí viết:

"Khoảng năm Khang Hi thứ 46 [1707] người Hồng Mao lại mưu chiếm Côn Lôn, nhưng không dám ở gần núi, đến ven biển mà dựng phố xá. Vì Côn Lôn là chỗ bốn bề thông với các biển, nên chúng thèm nhỏ dãi không thôi. Có thuyền Trung quốc chở gạch ngói đến đổi lấy hàng hoá của Hồng Mao, vì vốn ít mà lãi nhiều (...). Người Hồng Mao vì không phục thuỷ thổ, chết rất nhiều, lại bị người thổ phiên cướp giết, chết hết, chỉ còn đất không".[13]

Việc Anh xâm lược Côn Lôn, bắt đầu từ năm 1702, lúc ấy, Quốc chúa đã chiếm Thuỷ Chân Lạp từ 1698. Tháng 10 Kỷ Mão [12/1699], chúa hạ lệnh tra bắt người theo đạo ở Gia Định, và đuổi người Tây dương về nước. Đến tháng giêng Nhâm Ngọ [2/1702], chúa sai đóng thuyền chiến và tập thủy trận. Những sự kiện này chứng tỏ, vừa bình định Chân Lạp chúa vừa lo phòng bị quân Tây dương, Thực Lục, tháng 8 Nhâm Ngọ [10/1702], viết:

"Giặc biển là người Man An Liệt [An Liệt là phiên âm của chữ English],tám chiếc thuyền đến đậu ở đảo Côn Lôn. Trưởng là bọn Tô Thích Già Thi [Allen Cacthpoole], 5 người tự xưng là nhất ban, nhị, tam ban, tứ ban, ngũ ban [quan một, quan hai, quan ba, ...] (mấy ban cũng như mấy bực, nguyên người Tây phương dùng những tên ấy để gọi bọn đầu mục của họ), cùng đồ đảng hơn hai trăm người, kết lập trại sách, của cải chứa đầy như núi, bốn mặt đều đặt đại bác. Trấn thủ dinh Trấn Biên là Trương Phước Phan (con trưởng dinh Trương Phước Cương) lấy công Chúa Ngọc Nhiễm) đem việc báo lên, chúa sai Phúc Phan tìm cách trừ bọn ấy".

Và một năm sau, tháng 10 Quý Mùi [11/1703], Thực Lục ghi:

"Dẹp yên đảng An Liệt. Trước là Trấn Thủ Trấn Biên Trương Phước Phan mộ 15 người Chà Và [Mã Lai] sai làm kế trá hàng đảng An Liệt, để thừa chúng sơ hở thì giết. Bọn An Liệt không biết. Ở Côn Lôn một năm không thấy Trấn Biên xét hỏi, tự lấy làm đắc chí. Người Chà Và nhân đêm phóng lửa đốt trại, đâm chết nhất ban, nhị ban, bắt được ngũ ban trói lại, còn tam ban, tứ ban thì theo đường biên trốn đi. Phúc Phan nghe tin báo, tức thì sai binh thuyền ra Côn Lôn, thu hết của cải bắt được dâng nộp, chúa trọng thưởng người Chà Và và tướng sĩ theo thứ bậc. Tên ngũ ban thì đóng gông giải đi, chết ở dọc đường"[14].

Trương Phước Phan, họ Trương Công, họ này có công được Chúa ban chữ Phước, thành họ Trương Phước. Ông cố là Gia, làm quan đại thần triều Lê, theo Nguyễn Hoàng vào Nam. Ông nội là Phấn và cha là Cương đều là công thần của chúa Nguyễn. Trương Phước Phan lấy công chúa Ngọc Nhiễm, con gái thứ ba Chúa Ngãi Nguyễn Phước Trăn (1687-1691), làm quan tới chức trấn thủ Trấn Biên, ông chính là cha của Trương Phước Loan.

Tuy Thực Lục viết việc Côn Lôn vắn tắt như thế, nhưng ta đã thấy rõ âm mưu thực dân của người Anh: Họ đến Côn Lôn với tầu và hơn 200 quân, đối với thời ấy, là một lực lượng quân sự đáng kể. Họ chiếm đảo, xây thành đài, đặt đại bác chống giữ, tính chuyện hùng cứ, chứ không chỉ đến để "buôn bán". Trấn thủ Trương Phước Phan, thấy lực lượng mạnh mẽ này, đã dùng kế, mượn 15 người Mã Lai làm nội ứng, đốt thành và ám sát các sĩ quan. Tên ngũ ban chắc là chủ tướng Allen Cacthpoole, bị bắt và bị giết. Và có lẽ quân Trương Phước Phan đã phục sẵn ở ngoài thành, đánh vào, nên mới hạ được, vì với số lính Anh hơn 200 người, thì 15 người Mã Lai không thể cự nổi, vì thế, Quốc chúa mới thưởng công cho người Mã Lai và tướng sĩ Việt. Tuy nhiên, về phiá Việt cũng như Anh, đều không làm lớn chuyện này, chúng ta sẽ hiểu rõ tại sao, ở dưới.

Phan Khoang kể lại như sau: "Công ty Anh, năm 1702 dựng ở Poulo Condore 1 cái đồn làm thương quán, giao cho Allen Cacthpole quản lý". Rồi ông nói qua việc Trương Phước Phan mượn người Chà Và làm nội ứng, đốt đồn và đâm chết nhiều "nhân viên thương quán", và ông kết luận: "Hẳn là người Anh không biết âm mưu của Trương Phước Phan nên mới tưởng như vậy (...) Chúng ta phải tự hỏi tại sao người Anh vốn thận trọng, khôn ngoan lại đến xây đồn ở một nơi mà không cần hỏi han chủ đất để đến gây ra cớ sự này".[15] Một câu hỏi hết sức ngây thơ vì sử gia quá tin vào sự trong sạch của Công Ty Anh đến đây "buôn bán". Những tư liệu của người Âu viết về chuyện này, vô tình làm lộ dần bộ mặt thực dân của họ.

 

1- Thoại của cha Jacques: Năm 1721, Pháp cho tầu Dandé đến mưu chiếm Côn Lôn. Cha Jacques, dòng Tên, ở trên tầu, từ 9/1721-6/1722, viết về vụ Cacthpole như sau:

"Đảo Côn Lôn thuộc Cao Miên. Người Anh đã mua nó trong thế kỷ trước và đã xây một thành trì ở đầu làng; nhưng họ ít người nên phải mượn thêm lính Mã Lai, tất cả đều bị cắt cổ cách đây 20 năm và thành của họ bị phá: hiện nay còn nhìn thấy tàn tích. Từ lúc đó, đảo này thuộc Cao Miên". Người Pháp, cho rằng Côn Lôn đã được người Anh "mua" nhưng rủi bị lính Mã Lai cắt cổ, tuy vậy, họ vẫn sẵn sàng xí phần, đến nơi là đặt ngay tên đảo là Ile d'Orléans[16]. Ông cha Jacques kể tiếp: Tầu Dandé là của Công Ty Pháp-Ấn, do Hiệp sĩ de la Viconté điều khiển, mang một đội quân, cùng 2 kỹ sư mà một người được chỉ định sẽ là quan Điều khiển đảo này (le titre de Commandant de l'ile)"[17].

Tóm lại: Công Ty Pháp-Ấn tự tiện đem quân đến chiếm Côn Lôn, đặt tên, đặt quan cai trị, trước khi biết đất này là của ai. Điều này có nghiã là khi những Công ty Anh-Ấn, Pháp-Ấn, Hòa-Ấn, tới đâu để "mở thương điếm" tức là họ đi cướp đất, bởi vì tuy là công ty thương mại, nhưng họ đi bằng chiến hạm cùng với quân đội, trên tầu có sẵn cả quan cai trị, tự tiện chiếm đất của người ta rồi đặt tên, đặt toàn quyền.

Vì vậy mà các chúa gọi bọn này là bọn "Man", bọn "cướp" cũng không oan uổng gì. Tầu Dandé của Pháp năm 1721, chắc không làm ăn được, nên ít lâu sau rút lui, đâu vào khoảng 1723. Không thấy Thực Lục ghi gì về việc này.

 

2- Thoại của Finlayson, một "du khách" người Anh, đến Côn Lôn ngày 22/8/1822, kể lại:

"Cách bờ biển độ nửa dặm [800m], chúng tôi thấy tàn tích của Công Ty Thương Mại ngày xưa đã xây dựng trên đảo này (...) Cơ sở xây năm 1702, đã bị chính đội quân canh gác thổ dân làm phản, tàn phá một trăm lẻ tám năm trước. Những người Anh thiết lập Công Ty thương mại ở Côn Lôn, cũng là những người Anh đã bị đuổi khỏi thương điếm ở Chousan, bên Tầu, đem những gì còn lại sang lập thương điếm ở Banjarmassin, Bornéo, rồi vì bất cẩn họ cũng phải rời đảo. Quan toàn quyền Catchpoole, đã, theo lệ thời ấy, mượn vài lính thổ dân đảo Célèbres, theo khế ước 3 năm sẽ cho về, nhưng không giữ đúng lời hứa, nên những kẻ khát máu này, đang đêm, xông vào người Anh và giết tất cả những ai ở trong thành trong khi họ đang ngủ. Một số nhỏ, ở ngoài thành, nghe tiếng kêu của đồng bào, hoảng kinh, chạy ra biển, leo lên chiếc tầu đậu sẵn, sau chuyến đi nguy hiểm tới được đất của vua Johore[18]và được tiếp đón tử tế"[19].

Finlayson lờ hẳn những vết tích thành đồn và đại bác, để chỉ giữ lại tàn tích của "Công ty Thương mại"; ông kể thêm chuyện "Công ty Thương mại" bị người Tầu đuổi khỏi Chousan, dời đến đảo Bornéo, rồi vì "bất cẩn" cũng phải đi và cuối cùng đến Côn Lôn. Đến đây, ông Catchpoole trở thành toàn quyền, nhưng quan toàn quyền không giữ đúng khế ước với lính Mã Lai, nên bị bọn "khát máu" nổi dậy giết. Đấy là cái nhìn của người Anh.

 

3- Thoại của Henri Cordier, thuộc Hàn Lâm Viện Pháp viết:

"Ngày 23/11/1699, Allen Catchpoole được Công ty mới [Công ty Anh-Ấn] chọn làm Chủ tịch (Président) của Công ty ở Trung Hoa, đồng thời ông được nhậm chức Bộ trưởng hay Tổng tài của Vua cho Quốc dân Anh (Ministre ou Consul du Roi pour la Nation anglaise). Ông phải đi miền Bắc Trung Hoa để điều đình mở một thương điếm cho Công ty, hoặc ở Liampo (Ninh-Po), hoặc ở Nan-King, và ông được quyền tự do hành động, lập thương điếm ở nơi khác, nếu không được phép mở tại hai nơi kể trên. Ngày 11/10/1700, Catchpoole đi chiếc trung hạm Eaton tới Chousan, nơi Gouch, đến từ Amoy, đã bắt đầu xây một thương điếm. Người Anh bị đuổi khỏi Chousan năm 1702, điều này cũng không ngăn Catchpoole trở lại đó hai lần. Năm 1703, ông rời Chousan để xuống Côn Lôn, sau được lệnh chuyển thương điếm trên đảo này đến Banjermasin, nhưng quá trễ: Catchpoole đã bị quân canh gác Macassar giết ngày 3/3/1705 ở Côn Lôn"[20].

Henri Cordier, học giả Pháp viết đúng hơn cả, ông cho biết Allen Catchpoole không những là Chủ tịch Công ty Anh-Ấn ở Trung Hoa mà còn làm Tổng Tài của vua Anh. Tổng Tài thời ấy là chức vụ quan trọng, cầm đầu việc cai trị và binh bị của Anh ở nước ngoài. Điều này, xác định Công ty Anh-Ấn là đầu não các chiến lược và chiến dịch đánh chiếm thuộc điạ. Vì lẽ đó mà các chính phủ ở Á Châu nghi ngờ các "Công ty", nên khi còn đủ quyền lực, họ đuổi thẳng. Điạ vị Tổng Tài còn giải thích việc Thực Lục ghi: Allen Catchpoole đến Côn Lôn với tám chiếc tầu, "cùng đồ đảng hơn hai trăm người, kết lập trại sách, của cải chứa đầy như núi, bốn mặt đều đặt đại bác".

Nhưng điều lạ là sau khi Trương Phước Phan bắt sống và giết Allen Catchpoole rồi, tại sao không thấy người Anh trả thù? Có hai lý do:

1- Họ không biết việc này do Nam Hà chủ trì, tưởng ông Chủ tịch Công ty Anh-Ấn ở Trung Hoa kiêm Tổng Tài của chính phủ Anh bị lính Mã Lai làm phản giết chết. Điểm này khó tin vì một sự kiện quan trọng như vậy, xẩy ra ở vùng mà nước Anh, cường quốc số một về thuộc điạ, đang làm chủ, lẽ nào lại bỏ qua mà không điều tra kỹ.

2- Chỉ còn điểm thứ hai: Anh không muốn hay chưa thể gây sự với Nam Hà. Điều này dễ hiểu hơn: Nam Hà, đầu thế kỷ XVIII, là một sức mạnh đế quốc, vừa chiếm xong hai nước Chiêm Thành và Thuỷ Chân Lạp. Ngoài ra, trong thế kỷ XVI và XVII đã đánh đuổi quân Hoà Lan. Vậy nếu Anh gây chiến, chưa chắc đã thắng và có thể đưa đến những thiệt hại khó lường. Về phần Quốc Chúa, ông đang lo việc bình định Nam Hà, nên cũng muốn giữ mối quan hệ bình thường với nước Anh. Vì vậy mà cả hai bên đều không xé to việc này. Tuy nhiên sau đó, Anh cũng gờm mặt chúa Nguyễn, không dám sinh sự gì trong suốt thời gian kế tiếp, từ 1702 trở về sau.

 

Về vị trí chiến lược của Côn Lôn, năm 1686, Verret một điệp viên Pháp được gửi đi thám thính, viết về Côn Lôn như sau:

"Ở đây có nhiều đảo không người, và tất cả các loại gia vị đều quy tụ về đây, Côn Lôn là nơi rất thích đáng để xây dựng cơ sở (...) Côn Lôn chu vi độ 6 dặm lý [24km] đối diện với cửa sông Cao Miên [Cửu Long]; có ba hải cảng tốt và có nhiều suối nhỏ, một con sông và cây cỏ dễ chịu nhất thế giới. Tầu Trung Hoa, Bắc Hà, Macao, Manille, Nam Hà, nếu muốn buôn bán ở Ấn Độ, đều đến gần đảo này, cũng như các tầu từ Ấn Độ đến biển Đông, người Anh và người Hoà Lan đều ghé lại khi đi cũng như khi về. Chỗ này quan trọng bằng hai eo biển de la Sonde[21] và Malacca gộp lại"[22].

Nhận xét này đi đôi với lời của Đại Nam Nhất Thống Chí: "Côn Lôn là chỗ bốn bề thông với các biển, nên chúng thèm nhỏ dãi không thôi".

 

 

Nguyễn Ánh đón tầu ngoại quốc vào Nam Hà?

Bác sĩ L. Gaide, Giám đốc Quân y Thuộc địa (Médecin-Inspecteur des Troupes Coloniales) là tác giả bài viết Notice historique sur Poulo- Condor (Tiểu dẫn lịch sử về Côn Lôn) in trong BAVH, 1925, II (t. 87-104), mà chúng tôi vừa trích dẫn nhiều đoạn ở trên. Ông thu thập các tài liệu liên quan đến Côn Lôn để chứng tỏ quần đảo này có những giá trị nhất định, được Anh Pháp đánh, chiếm nhưng không thành, mãi đến năm 1863, Pháp mới làm chủ. Và năm sau, 1864, Bonard dựng nhà tù để giam người Việt. Từ đó Côn Lôn mới trở thành Côn Đảo, giam tù.

Đáng chú ý là phần mở đầu, Gaide dẫn chứng một đoạn văn trích trong cuốn Voyage autour de monde... par les plus célèbres navigateurs (Du lịch vòng quanh thế giới... theo các nhà hàng hải nổi tiếng nhất) do Villiam Smith soạn, nói về việc sứ đoàn Anh do đại uý Gore điều khiển ghé Côn Lôn tháng 1/1780, để tìm lại dấu vết thành trì do Catchpoole xây dựng năm 1702, như sau:

"Ngày 20/1/1780, sứ đoàn đến Côn Lôn, gồm có tầu Résolution và tầu Découverte; do đại uý Gore, thay thế đại uý Cook, vừa mới bị giết cách đây ít lâu[23] điều khiển.

Một phân đội gồm một chuẩn uý và bốn lính thủy được gửi vào trong xóm, vì không có thổ dân nào ra, mặc dù chúng tôi đã bắn hai phát đại bác.

Sau khi bị một đàn trâu đe dọa ngáng lại, họ đã gọi bọn trẻ con giữ trâu lại, và dẫn mấy người đến xóm cách đây một dặm[24] con đường hằn rãnh sâu trên cát trắng. Xóm ở gần bể, nằm sâu trong vịnh khuất, bao bọc một bến cảng an toàn khi gió mùa đông nam thổi mạnh.

Cả xóm có độ hai, ba chục mái nhà sát cạnh nhau, và độ 6, 7, cái nữa, rải rác quanh bãi cát. Người ta dẫn chúng tôi đến căn nhà rộng nhất của ông chủ xóm. Nhờ mấy đồng tiền của tôi và vài vật khác thấy trước mặt tôi ra dấu để giải thích nhiệm vụ của tôi cho người có vẻ là quan trọng nhất trong xóm này. Chúng tôi đi dạo trong xóm, không quên tìm kiến những dấu tích của thành trì do đồng bào chúng tôi xây ở đây năm 1702, gần chỗ chúng tôi đang đứng. Người chủ xóm đi đi lại lại nhiều lần, rồi chìa cho tôi một mảnh giấy và tôi rất ngạc nhiên, đọc được một giấy chứng nhận viết bằng tiếng Pháp, như sau: "Pierre-Joseph-Georges, Giám Mục Adran, đại lý của Giáo Hoàng ở Nam Hà, vv... Viên quan nhỏ mang tờ giấy này đích thực là người của triều đính gửi ra Côn Lôn để đợi và đón tất cả tầu Âu Châu nào đến gần đây. Vậy Thuyền trưởng có thể tin cậy nhờ ông này hướng dẫn tầu đến bến, hoặc chuyển tải những tin tức cần thiết. Làm tại Sài Gòn ngày 10/8/1779. P.J.G. Giám Mục d'Adran". Tôi trả lại tờ giấy và cam đoan rằng chúng tôi là những người bạn tốt của ông quan, tôi thêm rằng tôi hy vọng được gặp ông quan trên tầu để giải thích rõ việc này (...).

Năm giờ chiều, một người dáng điệu lịch sự, diện mạo dễ coi đến gặp đại uý Gore, phong cách bình dị, lễ độ. Ông này cũng mang tấm giấy viết tiếng Pháp và cho chúng tôi biết ông chính là ông quan ghi trong giấy đó. Ông cũng cho chúng tôi biết ông là người công giáo, tên thánh là Luc; ông ở Sài Gòn ra đây từ tháng 8 [1779] và từ ngày đó ông đợi những tầu Pháp đến Côn Lôn để ông dẫn vào một bến cảng tốt ở Nam Hà, cách đây một ngày chèo. Chúng tôi báo cho ông biết, chúng tôi không phải là người Pháp mà là người Anh, và chúng tôi hỏi ông ta có biết là hai nước đang đánh nhau không. Ông trả lời có, và nhiệm vụ của ông là hướng dẫn cho bất cứ tầu nước nào muốn buôn bán với Nam Hà. Ông cho chúng tôi xem một tờ giấy khác và ông yêu cầu chúng tôi đọc, đó là một thư niêm phong và đây là nội dung: "Gửi các Thuyền trưởng tất cả các tàu ghé Côn Lôn: những tin tức mới đến từ Âu Châu cho chúng tôi hay rằng sẽ có một chiến hạm đến Nam Hà nay mai, chúng tôi đã xin triều đình gửi ra đây một ông quan, mang thư này, để đợi tầu đến. Nếu chiếc tầu này đến và ghé vào thực, thì Thuyền trưởng có thể báo cho chúng tôi biết qua người đưa thư hay chính vị quan này sẽ dẫn ông đến một hải cảng tốt của Nam Hà, cách Côn Lôn một ngày thuyền. Nếu ông muốn ở lại Côn Lôn tới khi người đưa thư trở lại, chúng tôi sẽ gửi tới ông những người thông ngôn và sự trợ giúp cần thiết. Ông cũng hiểu chúng tôi khỏi phải dài dòng về việc này". Lá thư đề cùng ngày với bản chứng nhận đã nói ở trên, chúng tôi trả lại Luc, không chép lại.

Đọc thư và nói chuyện với ông quan này, chúng tôi nghĩ rằng Luc đang đợi một tầu Pháp. Nhưng chúng tôi không thể biết rõ mục đích và những dự tính của những chiến hạm mà ông quan này đợi cho Nam Hà.

Đại uý Gore sau đó hỏi về những thực phẩm mà đảo này có thể cung cấp cho chúng tôi. Luc trả lời là có hai con trâu, bán 4 hay 5 $ mỗi con, nhưng họ có thể giúp chúng tôi tìm thấy đủ loại động vật 4 chân khác..."[25].

 

Đoạn văn này, có những chỗ khả nghi và có chỗ tin được:

1- Tầu Anh sao lại mang tên Pháp, nhất là Résolution là tên một tầu Pháp được Faure ghi trong cuốn Bá Đa Lộc. Sau đó người viết, có lẽ là Smith nhưng lại dùng giọng Gore, hay giọng một cấp dưới của Gore để kể chuyện.

2- Câu chuyện Nguyễn Ánh nhờ Bá Đa Lộc viết giấy để đón tầu Pháp từ năm 1779, hơi khó tin, vì lúc ấy Nguyễn Ánh còn đang bận đánh nhau và quan hệ của ông với Bá Đa Lộc như thế nào, chưa biết rõ.

3- Vì nói là đón một tầu Pháp, thì có thể là nhầm với việc năm 1789: Nguyễn Ánh chờ tầu Bá Đa Lộc chở hoàng tử Cảnh từ Pháp về, vào khoảng 1787-1789, cũng lúc ấy mới có chiến tranh Anh-Pháp.

4- Người tên thánh là Luc ở đây, có thể là linh mục Hồ Văn Nghị (tên Paul Nghị), biết tiếng Pháp, người tin cẩn của Nguyễn Ánh và Bá Đa Lộc, thường đi về giữa Côn Lôn và Sài Gòn, sang Macao, Ần Độ, làm các công tác trung gian và bí mật cho Nguyễn Ánh.

Về một trong những công tác của Hồ Văn Nghị ở Côn Lôn 1789, giáo sĩ Le Labousse viết:

"Chúng tôi đi từ Pulo-Condor ngày 2/3 [1789], và đến kinh thành [Gia Định] ngày 5; không cần phải trốn tránh hay sửa soạn trước những gì phải trả lời khi đi qua đoan. Một khi bị gọi lại, chỉ cần bảo: thuyền của cha Nghị, là xong" [26].

Trên đây là những gì ta có thể biết về quần đảo Côn Lôn, nơi Conway, năm 1788-1789 cho là ô uế, chỉ có tù vượt ngục ở, Faure cho rằng Bá Đa Lộc đã có công ngăn chặn quân Anh, tranh thuộc địa của Pháp, và những sản phẩm trồng trên đảo như lúa, mướp, cam, lựu... là do "Đức giám mục Bá Đa Lộc đem vào". Rồi Gaide tìm cách chứng minh "Bá Đa Lộc đã đặt nền móng từ năm 1779, với thư sai người hướng dẫn tầu Tây phương vào Nam Hà". Côn Lôn còn là nơi Olivier de Puymanel và những pháo binh, năm 1789 theo Hồ Văn Nghị đến đây rồi đào ngũ, ở lại đầu quân Nguyễn Ánh.


 


[1] Cristofo Borri, Relation de la Cochinchine (Ký sự Đàng Trong), BAVH, 1931, tập 3-4, do Bonifacy dịch sang tiếng Pháp và chú giải.

[2] BAVH, 1924, IV, t. 307- 332.

[3] Cadière, Le quartier des Arènes, Jean de la Croix et les premiers Jésuites, BAVH, 1924, IV, t. 312.

[4] Cadière, Le quartier des Arènes, Jean de la Croix et les premiers Jésuites, BAVH, 1924, IV, t. 313, 322, 323.

[5] TL, I, t. 32.

[6] Nguyễn Khoa Chiêm, Nam Triều Công Nghiệp Diễn Chí, bản dịch Ngô Đức Thọ và Nguyễn Thúy Nga, nxb Hội Nhà Văn, 2003, t. 40-41.

[7] Lê Quý Đôn, Phủ Biên Tạp Lục, t. 55.

[8] TL, I, t. 55-56.

[9] Đại Nam Nhất Thống Chí, tập 5, t. 154-155.

[10] TL, I, t. 106-107.

[11] Quân Hoà Lan bị Trịnh Thành Công, tướng Minh đánh đuổi, chiếm lại Đài Loan, để lập cơ sở chống Thanh.

[12] Minh Thần Tông 1572-1620.

[13] Đại Nam Nhất thống Chí, tập 5, t. 152- 153.

[14] Thực Lục, I, t. 111, 115, 117.

[15] Phan Khoang, Việt sử xứ đàng trong, quyển hạ, t. 556.

[16] Lấy tên Philippe d'Orléans, nhiếp chính vương lúc đó, vì Louis XV còn nhỏ.

[17] Père Jacques, trích Note historique sur Poulo-Condore (Tiểu dẫn lịch sử về Côn Lôn) của Gaide, BAVH, 1925, II, t. 92.

[18] phiá nam bán đảo Malacca.

[19] Finlayson, trích trong Note historique sur Poulo-Condore của Gaide, BAVH, 1925, II, t. 93.

[20] Note historique sur Poulo-Condore, BAVH, 1925, II, t. 94.

[21] Tức eo biển Sunda, ở đầu Java và Sumatra, gần Jakarta, nối biển Java với Ấn Độ Dương.

[22] Note historique sur Poulo-Condore, BAVH, 1925, II, t. 95.

[23] Đại uý Cook, người Anh, được coi là ngưòi Âu đầu tiên khám phá miền Đông Úc, chết ở Hawai ngày 14/2/1779, khi đánh nhau với thổ dân ở đây.

[24] 1dặm Anh=1km609.

[25] Note historique sur Poulo-Condore, BAVH, 1925, II, t. 87-89.

[26] Thư gửi Létondal ngày 15/6/1789, Launay, III, t. 213.

Thụy Khuê

 

© Copyright Thuy Khue 2015