Thụy Khuê
 

Khảo sát công trạng của những người Pháp giúp vua Gia Long

 

 

Chương 17

 

 

Những người Pháp đến giúp Nguyễn Ánh

 

I- Con số lính Pháp đến giúp Nguyễn Ánh

 

Có bao nhiêu người Pháp trong quân đội Nguyễn Ánh? Câu hỏi này có những giải đáp khác nhau, tuỳ theo vị trí, quan niệm và mục đích của người trả lời. Vì vậy cần phải điều tra cặn kẽ để thử tìm ra một con số gần gụi với sự thực hơn cả.

Đại Nam Liệt Truyện ghi công trạng 7 người:

"Về đồ đệ [của Bá Đa Lộc] có những tên: Mạn Hoè [Manuel], Đa Vật [chỉ Dayot hoặc Chaigneau], Va Nê E [Vannier], Ô Ly Vi (tức tên là Tín) [Olivier de Puymanel] và Lê Văn Lăng [de Forçant] đều là người nước Phú Lãng Sa; còn tên Gia Đố Bi [Santiago] và Ma Nộ E [Emmanuel] đều là người nước Y Pha Nho. Khi trước Đa Lộc tiến Mạn Hoè có thể dùng được, trải bổ làm Khâm sai Cai cơ coi đội trung nông [trung khuông]. Năm Nhâm Dần [1782] Tây Sơn vào lấn Gia Định, các tướng chống lại, bầy trận ở sông Thất Kỳ [gần cửa biển Cần Giờ], thuyền giặc thừa cơ có gió xông vào trận, quân ta đều rút lui, Mạn Hoè một mình đi chiếc thuyền lớn Tây dương bọc đồng cố sức đánh, giặc bốn mặt vây đánh, Mạn Hoè tự liệu không thoát, bèn tự đốt mình chết. Sau truy tặng Hiệu Nghiã công thần, được liệt vào thờ ở đền Hiển Trung ở Gia Định. Gia Đố Bi và Ma Nộ E cũng theo Đa Lộc xin gắng sức theo làm việc. Năm Quý Mão [1783], sai vượt biển sang Lã Tống[1] cầu giúp binh, giữa đường gặp binh thuyền của Tây Sơn bị giết chết.

Đa Vật, Va Nê E, Lê Văn Lăng và O Ly Vi, bốn người ấy theo Đa Lộc từ Tây Dương tới Gia Định, xin ở lại làm thân bộc, đều bổ làm Cai đội. Đa Vật cho tên là Chấn, Va Nê E cho tên là Thắng, đều cho họ là họ Nguyễn, trải theo đánh dẹp [trên] 2 chiếc thuyền lớn là: Long Phi, Phượng Phi, rồi làm đến Chưởng cơ. Minh Mạng năm đầu, vì già xin về nước, vua y cho.

Lê Văn Lăng làm Chưởng cơ, Ô Ly Vi làm đến Vệ úy Vệ ban trực hậu quân Thần sách." [2]

Nhà sử học và văn bản học Trần Kinh Hoà, khi giới thiệu Quốc sử di biên của Phan Thúc Trực, nhận định về Thực Lục và Liệt Truyện như sau:

"...những quyển nội dung rất đầy đủ nhất, thu lượm được sự kiện lịch sử được nhiều nhất, thì là Thực Lục chính biên kỷ thứ hai [tức] Đệ Nhị kỷ (Thực Lục triều Minh Mệnh); [rồi đến] thứ hai là kỷ thứ nhất [tức] Đệ Nhất kỷ (Thực Lục triều Gia Long)" sau đó ông mới kể đến Thực Lục triều Thiệu Trị và Tự Đức[3]. Thực vậy, khi so sánh với các tài liệu gốc về phiá Pháp, Thực Lục và Liệt Truyện có độ chính xác rất cao. Tuy nhiên, trong đoạn văn mà chúng tôi vừa trích dẫn trên đây, trừ đoạn viết về Mạn Hoè, những câu khác có nhiều sai lầm, tại sao? Xin tạm giải thích:

1- Câu: "Về đồ đệ có những tên: Mạn Hoè, Đa Vật, Va Nê E, Ô Ly Vi và Lê Văn Lăng", thực ra, trong 5 người này, chỉ có Mạn Hoè là đồ đệ của Bá Đa Lộc. Còn về Đa-Vật, chữ này ban đầu chắc phiên âm chữ Dayot, được vua trọng vọng trong thời gian đầu, nhưng sau đó, y làm đắm tầu, rồi trốn đi năm 1795, rồi Chaigneau đến đầu quân, nên các sử thần đã dùng chữ Đa-Vật để chỉ Chaigneau, người được coi là "thay thế" Dayot.

2- Trong ba người còn lại: Va Nê E, Ô Ly Vi và Lê Văn Lăng, thì Vannier từ Pondichéry đến, nhận chức Cai đội ngày 27/6/1790. De Forçant quản tầu Bằng Phi, không biết đến từ đâu, khoảng 1800 mới thấy xuất hiện trên Thực Lục và trong thư các giáo sĩ.

3- Olivier de Puymanel, con nhà gia thế, trước khi sang Á Châu, đã được gia đình gửi gấm Bá Đá Lộc, là lính tình nguyện binh nhì trên tầu Dryade, khởi hành cùng Bá Đa Lộc và Hoàng tử Cảnh từ Lorient ngày 27/12/1787. Tầu này, sau khi ghé Pondichéry để vị giám mục và hoàng tử lại đây, sẽ đỗ ở Côn Lôn từ ngày 15 đến 19/9/1788. Tại đây, Olivier ở lại và đào ngũ. Vì vậy, chỉ có mình Olivier de Puymanel, có thể tạm coi là được vị giám mục "đỡ đầu", tuy nhiên quyết định đi Nam Hà của Olivier có từ trước (xem chương 21, Olivier de Puymanel). Giám mục Bá Đa Lộc là chủ giáo địa phận Nam Hà, tất là cha đỡ đầu cho những người Pháp ở đây; vì thế Liệt Truyện coi họ là đồ đệ của Bá Đa Lộc.

4- Còn Gia Đố Bi và Ma Nộ E, tức Santiago và Emmanuel, là hai giáo sĩ Franciscain [dòng St-François d'Assise], năm 1783 về Phi Luật Tân, định cầu viện cho Nguyễn Ánh, bị Nguyễn Nhạc bắt, nhưng không bị giết, sau được thả về; nhưng trong một thời gian dài, giám mục Bá Đa Lộc không biết tin tức của họ nên tưởng họ bị giết[4]. Vì vậy, Liệt Truyện đưa tên họ vào danh sách những người tử nạn vì giúp Nguyễn Ánh.

Tóm lại, Liệt Truyện chỉ ghi tên những người, hoặc có thành tích chiến đấu, hoặc đã theo vua đến chiến thắng cuối cùng, hoặc bị tử trận, hay chết vì nhiệm vụ. Con số là 7 người. Những người bỏ đi, hoặc phản bội, không được ghi tên.

 

Tài liệu của Louvet

Trong cuốn La Cochinchine Religieuse, I, (Leroux, Paris, 1885), phần Chứng từ (Pièces Justificatives), Louis-Eugène Louvet[5] tìm được 7 văn bằng Cai đội vua ban cho: JM Dayot, Philippe Vannier, Julien Girard de L'Isle Sellé, Théodore Lebrun, Jean-Marie Despiaux, Louis Guillon và J. Guilloux; và các thư sai phái, ghi chức Cai đội của 3 người: Barisy, Januario Phượng (người Bồ?) và Gibsons (người Anh?). Tổng cộng là 10 người Âu, chính thức có văn bằng, còn lưu lại.

Những văn bằng này làm theo một kiểu mẫu giống nhau, cùng ghi ngày 27/6/1790, nội dung thay đổi chút ít tuỳ theo phận sự từng người. Vậy có thể hiểu, đã có một buổi lễ vào ngày 27/6/1790, vua cho những người này "nhậm chức" và "tuyên thệ". Vì không có bản quốc ngữ dịch từ bản chữ Hán, chúng tôi xin dịch lại bản đã được chuyển sang tiếng Pháp, in trong La Cochinchine Religieuse của Louvet, ghi Puymanel dịch; nhưng chúng tôi nghĩ rằng, năm 1790, Puymanel chưa thể dịch được những văn bản chữ Hán này, có lẽ Trần Văn Học hay Hồ Văn Nghị dịch giúp.

Sau đây là văn bằng của Dayot:

Văn bằng do vua Nam Hà cấp cho M. Dagot [Dayot]

"Hoàng thượng xét sự trung thành và nhiệt tâm trong công việc của Jean-Marie Dagot, quốc tịch Pháp, người đặc biệt chú ý đến thiện chí mà y đã chứng tỏ khi đến từ rất xa để phục vụ trong ngành thủy binh của người, Hoàng thượng xét thấy y xứng đáng được chọn, và với văn bằng này, cấp cho y chức Khâm sai Cai đội quản chiếu tầu nhị chích trí lược hầu, quản chiếu hai tầu Đồng Nai và Le prince de Cochinchine. Hoàng thượng hy vọng khi thời cơ đến, Jean-Marie Dagot, sẽ kịp thời chứng tỏ lòng can đảm và trí thông minh để điều khiển các tầu được giao phó, và nghiêm khắc áp dụng quân lệnh, y sẽ xứng đáng được tin cậy. Nếu vì lỗi, không làm tròn nhiệm vụ quan trọng này, y sẽ bị nghiêm trị theo luật pháp.

Ngày thứ 15, tuần trăng thứ 5, năm Cảnh Hưng thứ 51, tại Sài Gòn, ngày 27/6/1790".

Văn bằng cấp cho Vannier, có câu: "... với văn bằng này, cấp cho y chức Cai đội chấn thanh hầu, giao cho y quản một trong những tầu của Hoàng thượng là tầu Đồng Nai, dưới quyền điều khiển và phải tuân mọi lệnh của Jean-Marie Dagot, chỉ huy phân khu có tầu này."

Văn bằng cấp cho Isle-Sellé, có câu: "... với văn bằng này, cấp cho y chức Cai đội long hưng hầu, giao cho y quản chiếc tầu Le prince de la Cochinchine, dưới quyền điều khiển và phải tuân mọi lệnh của Jean- Marie Dagot, chỉ huy phân khu có tầu này".

Trong văn bằng cấp cho Le Brun có câu: "Hoàng Thượng xét thấy tài năng của Théodore Lebrun, quốc tịch Pháp, với văn bằng này, cấp cho y chức Khâm sai Cai đội thạnh [thịnh] oai hầu, quản chiếu việc công thự (bản tiếng Pháp là capitaine ingénieur)"[6].

Như vậy trong 7 văn bằng chỉ có Dayot và Le Brun là được thêm chữ Khâm sai, tức là cao hơn những Cai đội khác chút ít[7].

 

Con số 369 người của Alexis Faure

Alexis Faure trong cuốn Monseigneur Pigneau de Béhaine (dẫn là Bá Đa Lộc), mục Chứng từ (Pièces justificatives) (t. 235-249), đã làm một số việc sau đây:

1- Ghi tên các tầu Pháp hoạt động ở Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương, trong thời gian 1785-1790, gồm 12 tầu: Résolution, Vénus, Dryade, Méduse, Subtile, Astrée, Duc de Chartres, Nécessaire, Dromadaire, Pandour, Mulet và Marsouin.

2- Ghi tên họ và chức vụ những người bị đuổi hoặc đào ngũ trên những tầu này, tổng cộng 369 người[8].

3- Ghi hải trình của những tầu này trong 5 năm (1785-1790). Qua hải trình này, ta thấy chỉ có ba tầu Dryade, Méduse và Pandour là ghé Việt Nam thường xuyên. Các tầu còn lại, làm dịch vụ ở những vùng khác. Vậy mà, Faure khi tổng kết, lại viết như sau:

 "Tổng cộng những mất mát trên các chiến dịch của các tầu là: Résolution: 33 người, Vénus: 54, Dryade: 21, Méduse: 126, Subtile: 48, Astrée: 15, Duc de Chartres: 1, Nécessaire: 16, Dromadaire: 4, Pandour: 31, Mulet: 12, Marsouin: 8. Tổng cộng: 369.

Như thế, theo con số ghi nhận vai trò của họ trong thuỷ thủ đoàn của 12 tàu trên đây, thì con số thuỷ thủ Pháp đã bỏ hiệu kỳ để theo Giám Mục Adran đến Nam Hà là 369. Nhưng còn phải thêm vào danh sách trên đây, một phần lớn thủy thủ của tầu Revanche, Espérance, Ariel và Flavie, năm 1794, cũng bị giải giới ở Macao để khỏi bị Anh bắt, họ cũng đi qua Nam Hà với vũ khí và hành lý. Trong số này có một sĩ quan, Chaigneau (Jean Baptiste), sĩ quan (enseigne) trên tầu la Flavie, đến muộn, cũng không kém phần hữu ích cho cuộc tranh đấu mà ông đã theo đuổi đến cuối đời"[9].

Như trên đã nói: trong 12 tầu trên chỉ có 3 tầu là có dịch vụ ghé qua Việt Nam, còn những tầu kia hoạt động ở những vùng khác trên Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương, thì làm sao những người đào ngũ trên các tầu ấy có thể "đến" Việt Nam được? Không lẽ họ đi bộ hay bơi tới Việt Nam để theo Giám mục Adran để tổ chức quân đội Nam Hà" chăng?

Nhưng chưa hết, con số 369, dưới mắt Faure vẫn chưa đủ, ông bảo còn phải kể thêm cả thủy thủ đoàn của bốn tàu bị giải giới nữa, thành ra bao nhiêu? Đó là lối lập luận của Faure.

Dò kỹ danh sách và chức vụ của 369 người này, ta thấy:

- Có một bác sĩ giải phẫu, Dominique Desperles, ở tầu Pandour, và môt phụ tá giải phẫu, Pierre Georgeault, tầu Mulet. Còn tất cả là hạ sĩ (quartier maître), thủy thủ, lính tình nguyện, nhân viên làm các công tác khác.

- Có một sĩ quan, tên Magon de Médine đại uý hải quân (lieutenant de vaisseau), đào ngũ từ tầu Pandour, nhưng không thấy tên trong số những người được nhận chức Cai đội ngày 27/6/1790 và cũng không thấy dấu vết ở đâu cả. Tuy nhiên, Faure vẫn đưa tên Magon de Médine vào danh sách các sĩ quan được Bá Đa Lộc chọn cùng với Puymanel, Le Brun, Guillon, Guilloux, Tardivet, Malespine, Dayot[10].

Trong danh sách 369, có 3 người sau này sẽ nổi tiếng:

Olivier de Puymanel, tầu Dryade, tình nguyện binh nhì (volontaire de 2e classe), chức nhận ngày 15/12/1787, đào ngũ ở Poulo-Condor [Côn Đảo] ngày 19/9/1788. Xung vào quân đội của Nguyễn Ánh.

Théodore Le Brun, tầu Méduse, tình nguyện binh nhất (volontaire de 1è classe), chức nhận ngày 1/1/1789), xuống Macao ngày 13/1/1790. Đào ngũ rồi tìm cách sang Nam Hà phục vụ Nguyễn Ánh.

Jean-Baptiste Chaigneau, tầu Subtile, tình nguyện binh nhì (volontaire de 2e classe), chức nhận ngày 1/7/1787, được hứa sẽ lên binh nhất vào tháng 12/1787, nhưng sau đó đổi sang tầu Flavie, và năm 1794, tầu này bị giải giới ở Macao, Chaigneau không thuộc dạng đào ngũ. Ông không được tầu Flavie cho lên chức sĩ quan (enseigne) như Michel Đức, con trai ông ghi lại trong hồi ký (xem chương 25, J.B.Chaigneau).

Vì những người lính này đều thuộc diện lính tình nguyện, nên chúng ta cần tìm hiểu thế nào là lính tình nguyện.

 

 

Lính tình nguyện

Những người đến Nam Hà, phần lớn đều thuộc dạng lính tình nguyện (volontaire). Vậy trước hết, lính tình nguyện là gì? Faure định nghĩa như sau:

"Những lính tình nguyện trong thủy quân thời trước là những thanh niên, con nhà khá giả, trình độ học vấn tự do (ayant reçu une instruction libérale) thích viễn du, lên tầu nhà nước làm lính ăn ở trên tầu, được trợ cấp mỗi ngày 1 franc để trả tiền ăn. Những người lính tình nguyện này, sau một thời gian đi tầu, qua những cấp bậc liên tiếp, có thể tiến đến chức học viên (élève) hay chuẩn uý thuỷ quân (aspirant de la marine), với tư cách sĩ quan. Danh sách thủy thủ tầu Dryade xếp Olivier de Puymanel vào loại đào ngũ, là không đúng, vì lính tình nguyện thời đó, không bị buộc phải tại ngũ trong thời gian hạn định; đã đi, giao kèo có thể bãi, theo ý muốn của người tình nguyện, nếu anh ta không nợ nần gì nhà nước. Ta sẽ thấy, sau này, lính tình nguyện Le Brun bỏ tầu ở Macao, cùng trong một diều kiện, mà không bị coi là đào ngũ trong danh sách thuỷ thủ"[11].

Câu cuối cùng này Faure viết sai, vì Le Brun đã bị chính ông xếp vào danh sách đào ngũ hai lần: một lần trên tầu Vénus (Faure, Bá Đa Lộc, t. 241) và một lần trên tầu Méduse (Faure, t. 243), việc này cũng không thể xẩy ra, vì lính đào ngũ, khi bị bắt, bị xử ba năm khổ sai chèo ga-le. Faure không đọc kỹ hồ sơ do chính ông thiết lập.

Nhưng ở đây, ông tung ra một câu lập lờ để giải thích điều kiện xung lính tình nguyện: "trình độ học vấn tự do (ayant reçu une instruction libérale)". Học vấn tự do là gì? Chúng tôi bèn vào thẳng Website của Hải Quân Pháp, trên Internet, để tìm định nghiã Volontaire de la marine, thì thấy ghi: "từ 17 đến 26 tuổi, không bắt buộc bất cứ trình độ học vấn nào" (âgé de 17 à 26 ans, aucun niveau scolaire n'est requis). Vậy Faure đã biến câu "aucun niveau scolaire n'est requis" thành "ayant reçu une instruction libérale", để dễ thăng những người lính tình nguyện này lên làm kỹ sư, kiến trúc sư, chăng?

Nhưng đối với chúng ta câu "không bắt buộc bất cứ trình độ học vấn nào" rất đáng chú ý, nó giải thích rõ ràng sự kiện, khi đọc thư những người như Olivier de Puymanel, Barisy, Chaigneau, Vannier... do Cadière sưu tầm đăng trong loạt bài Les français au service de Gia Long: Leur correspondance (Thư từ), BAVH, 1926, IV, ta thấy tiếng Pháp của họ đầy lỗi, viết như người mới học. Và Faure còn nói: sau một thời gian đi biển có thể lên sĩ quan, mà ông không nói rõ là bao lâu. Đô đốc Jurien de la Gravière cho biết: sau sáu năm phục vụ mới xin được ủy ban xét để thăng thiếu uý (sous-lieutenant) trong quân đội chính quy, hoặc phải đợi đến tuổi 23 (thay vì 25) mới có thể xin làm thuyền trưởng đi trường kỳ (capitaine au long cours)[12]. Xem như thế, được làm sĩ quan trong quân đội chính quy của Pháp không phải dễ dàng.

Xét về điều kiện sáu năm này, chỉ một mình Chaigneau là có, vì ông đi biển từ tuổi 12, nhưng Chaigneau, có lẽ vì kém quá, trượt hết các kỳ sát hạch để lên chức, nên vẫn ở mức độ binh nhì, và sau này, khi phục vụ Nguyễn Ánh, ông ở chức Cai đội trong 7 năm, Vannier ở chức Cai đội trong 11 năm, mặc dù Nguyễn Ánh ưu đãi người Âu. Như vậy đủ biết vấn đề trình độ rất quan trọng trong bất cứ quân đội nào, Pháp cũng như Việt.

 

Bá Đa Lộc: có 40 người Âu trong bộ binh

Một thư của giám mục Bá Đa Lộc viết không đề ngày, in trong Montyon II, t. 143, có câu sau: "Trong tám ngày nữa, vua sẽ đi đánh Quy Nhơn (...) ông chỉ mang theo một nửa quân đội. Bộ binh của ông có 40 người Âu, trong đó có một người được lãnh trọng trách cai quản 600 binh; còn thuỷ binh, có hai chiến thuyền Tây phương trang bị đầy đủ vũ khí (deux vaisseaux Européens très bien armés). Tôi tin rằng, nếu chiến dịch này thành công, ta sẽ có cơ gửi những giáo sĩ ra Phú Yên, Nha Trang, Bình Khang và Bình Thuận"[13]. Phần chót lá thư này được Launay in lại, ghi thư Bá Đa Lộc gửi M. Boiret ngày 18/7/1792[14].

Vì thư này viết tám ngày trước khi Nguyễn Ánh khởi binh đánh Thị Nại năm 1792, ta có thể suy ra rằng Nguyễn Ánh xuất quân ngày 26/7/1792. Thực Lục cho biết, trong trận này "Nguyễn Văn Trương và Nguyễn Văn Thành đi thuyền Long [Long Phi] và Phụng [Phượng Phi], đánh thẳng vào"[15]. Nên ta chắc chắn "hai chiến thuyền Tây phương" mà Bá Đa Lộc nói ở trên là hai thuyền đồng Long PhiPhượng Phi ghi trong Thực Lục do các tướng Nguyễn Văn Trương và Nguyễn Văn Thành điều khiển. Trận này tấn công chớp nhoáng, trong lúc Nguyễn Nhạc đi săn vắng, và thắng lớn rồi rút ngay về Gia Định.

Như vậy, theo Bá Đa Lộc, năm 1792, bộ binh của Nguyễn Ánh có 40 người Âu; và có một người được lãnh trọng trách cai quản 600 binh, tuy ông không nói rõ tên, nhưng chắc chắn là Olivier de Puymanel, vì Thực Lục, việc tháng 7-8/1792 có ghi: "Lấy Cai đội Ôlivi (người Tây) làm Vệ Uý ban trực tuyển phong hậu vệ Thần sách"[16] mà chức Vệ uý, thời đó có thể cai quản tới 600 quân. Tóm lại, theo Bá Đa Lộc, có 40 người Âu, trong bộ binh của Nguyễn Ánh, năm 1792.

 

Con số của Vannier: 14 sĩ quan và 80 binh sĩ

Trong thư Vannier viết từ Auray[17] cho Bộ trưởng Nội vụ (không đề ngày, có lẽ vào khoảng 1825-1826, khi Vannier mới trở về Pháp) mục đích xin cho con gái 10 tuổi vào trường hoàng gia ở St-Denis, trong thư có câu: "Nhà vua tìm thấy trong chỗ quen biết mười bốn sĩ quantám mươi binh sĩ giúp ông lấy lại ngai vàng"[18]. Vannier cũng cho biết ông được nhận chức quan võ, hàng bát phẩm, như vậy rất phù hợp với văn bằng vua cho ông chức Cai đội chấn thanh hầu.

Khi nói đến 14 sĩ quan, có thể Vannier nhớ đến 14 người được nhận chức Cai đội, trước và sau ông. Trong số đó, Louvet thu thập được 7 văn bằng và 3 chỉ dụ sai phái.

Chúng ta thử kiểm lại con số của Vannier:

Các văn bằng do Louvet tìm thấy, gồm có: JM Dayot, Philippe Vannier, Julien Girard de L'Isle Sellé, Théodore Lebrun, Jean-Marie Despiaux, Louis Guillon, J. Guilloux. Và chỉ dụ sai phái, gồm có: Barisy, Januario Phượng (người Bồ), và Gibsons (người Anh).

Ngoài ra còn những người như: Puymanel (đến trước), Félix Dayot (đến sau), Chaigneau (đến sau) và de Forcant (chưa rõ đến từ bao giờ). Tổng cộng đúng là 14 người.

Điều này cũng phù hợp với lời Đức Chaigneau viết trong hồi ký, theo lời thuật lại của cha: "Có 14 hay 15 sĩ quan đến giúp Gia Long"[19]. Như vậy, con số 14 này là đúng hơn cả, và cần nói rõ, đó là 14 người được nhận chức Cai đội.

 

Con số của Cosserat: 17 người

H. Cosserat, đại lý thương mại, là một trong những nhà nghiên cứu trung thực của Pháp về thời kỳ này, đã đúc kết trong bài Notes biographiques sur les français au service de Gia Long (Ghi chú tiểu sử những người Pháp giúp Gia Long), BAVH, 1917, III (165- 206), một loạt chân dung những người Pháp này. Ông dùng tư liệu của Louvet, trong La Cochinchine Religieuse, của Faure, trong Bá Đa Lộc và của Cadière trong bài Les documents relatifs à l'époque de Gia Long[20] và những thư từ trong Văn khố của Hội Thừa Sai Paris. Cosserat liệt kê được 17 người: Manoè (Mạn Hoè, Manuel), Joang (Jean), Etienne Malespine, Dominique Desperles, Magon de Médine, Emmanuel Tardivet, Guillamne Guillon, Julien Girard de l'Isle Sellé, Théodore le Brun, Alexis Olivier de Puymanel, Jean-Marie Despiau, Jean-Marie Dayot, Félix Dayot, Laurent Barisy, De Forçant, Philippe Vannier và Jean-Baptiste Chaignau.

Trong 17 người này có 4 người thuộc tầu Pandour, là: Etienne Malespine, tình nguyện binh ba, Dominique Desperles, bác sĩ giải phẫu. Magon de Médine, đại úy (sĩ quan duy nhất có tên trong danh sách đào ngũ) và Emmanuel Tardivet, tình nguyện binh nhất. Những thông tin này ông chép lại của Faure (t. 210), và ông cho biết ông không tìm được dấu vết gì. Chúng tôi thấy nên loại 4 người này ra, vì Faure nhiều khi viết những điều không tin được, nhất là Vannier cho biết chỉ có 14 người được nhận theo diện sĩ quan mà thôi. Và cũng nên nói rõ, vì họ khai họ là sỹ quan, thực ra họ chỉ là lính.

 

 

Tạ Chí Đại Trường: 140 sĩ quan và 80 lính

Tạ Chí Đại Trường phóng đại công trạng của Bá Đa Lộc và những người Pháp quá đáng hơn cả những ngòi bút thuộc địa. Ông dành trọn tiết 12, tựa đề: "Tiếp viện của Bá Đa Lộc"[21] để liệt kê những "công trình viện trợ" của Bá Đa Lộc cho Nguyễn Ánh, mô phỏng theo lập luận của Maybon, Taboulet, và những lời lẽ góp nhặt dông dài khác, tạo nên một câu chuyện lịch sử hoàn toàn hư cấu.

Trước hết, ông Tạ mô tả cuộc trở về "trọng đại" của Đức Giám Mục Bá Đa Lộc như sau:

"Viên thuyền trưởng, Hầu tước De Rosily Meros cho bắn 15 phát súng (...) Luôn thể ông cũng tỏ một cử chỉ bặt thiệp: "Tôi tưởng có bổn phận phải thêm vào cho sứ bộ nhỏ bé này 2.000 cân thuốc súng để cho cậu Hoàng tử không có dáng trở về tay không và để làm vui lòng Giám Mục đã tỏ vẻ ước muốn chúng lắm" (Trích lại của G.Taboulet, Le traité de Versailles, BSEI, XIII, t. 103)".

Không biết "2.000 cân thuốc súng" này, ông Taboulet lấy ở đâu? Vì không thấy nơi nào ghi cả. Bá Đa Lộc không nói đến, Faure không đả động, cả Maybon cũng không. Ông Taboulet viết sử theo lối "tiểu thuyết" như vậy hay là ông Tạ "tiểu thuyết hoá lời ông Taboulet thành một "sự thực sống động" như thế: bao gồm cả lời tuyên bố và cử chỉ bặt thiệp của "Hầu tước De Rosily Meros"?

Tiếp đó, Tạ Chí Đại Trường lấy lại những ngụy biện của Maybon mà chúng tôi đã nói đến trong chương 14, để "chứng minh" Bá Đa Lộc có những nguồn tài trợ, từ khi đến Ile de France và ông còn dùng thêm một loạt "chứng từ" khả nghi khác, để tổng hợp thành một câu chuyện có đầu có đuôi như sau:

"Quần đảo Côn Lôn nằm ngoài bờ biển là nơi thuận tiện nhất để đón chào các tầu thuyền Tây phương. Từ năm 1779, Nguyễn Ánh đã đặt ở đây, những viên quan mang chứng minh thư của "P.J.G Giám mục d'Adran" giới thiệu với các thuyền trưởng Tây phương, mời họ vào bến, cho tin tức. Chủ đích của Pigneau là đón tầu Pháp nhưng Gia Định không cần phân biệt điều đó mà chỉ cần tầu Tây để giao thương thôi. Chính ở Côn Lôn, là nơi vào tháng 9/1788, chiếc tầu La Dryade, trong sứ mệnh dò tình hình Nam Hà, đã thả lại Hồ Văn Nghị và 1.000 khẩu súng mua cho Nguyễn Ánh. Lính thuỷ của tầu Tây trốn xuống ở đây. Cũng ở đây vào cuối năm 1790, Nguyễn Ánh dùng làm nơi nuôi ngựa cho quân đội dùng.

Nhưng khi Gia Định đã bình yên thì Vũng Tầu hay chính Bến Nghé sẽ là nơi đón các tầu, thuyền tiếp viện. Bá Đa Lộc gom góp tiền bạc khí giới lương thực chất lên các tầu ông thuê ở Ile de France và cả ở Pondichéry nữa, nhờ sự giúp đỡ của các nhà buôn như ta đã biết. Nguyễn Ánh làm chủ Gia Định rồi sẽ có đủ tiền bạc mà đeo đuổi chiến tranh. Qua lời thư của De Guignes, viên Lãnh sự Pháp ở Macao, ta thấy ông làm trung gian mua cho Nguyễn Ánh nhiều chiếc tầu. Và cũng từ Macao, trong những tháng cuối năm 1789; 8,9 chiếc tầu đi buôn ở Cochinchine cũng đã mang theo nhiều thứ khí giới quân dụng. Một trong những chiếc tầu đó là chiếc La Garonne đã bán cho sứ giả Nguyễn ở Xiêm hai khẩu đại bác. Tất cả những chuyến mua bán đó làm cho Nguyễn Ánh có dưới quyền một số tầu chiến Tây phương quan trọng. LM Jean de Jésus Maria, viết thư từ Chợ Quán ngày 4/3/1790 ghi nhận Ánh có "khoảng 10 chiếc tầu Bồ và 1chiếc tầu Phán tất cả đều là tầu buôn nhưng võ trang với đầy đủ khí giới quân dụng. Nhưng quan trọng hơn cả là việc có đám người Tây phương giúp. Ở Gia Định có đến 140 sĩ quan và 80 lính Pháp. Một bức thư của Bá Đa Lộc ngày 18/7/1794 nói đến 40 người Âu trong bộ binh, thêm vào chừng ấy nữa trên các tầu đồng. Và không phải chỉ có người Pháp mà thôi; Crawfurd vào Huế tháng 10/1822, thấy ở đó có một bài vị người Irlandais. M. Đức Chaigneau ghi nhận có cả người Anh, Irlandais"[22].

Lối viết sử này rất nguy hiểm, cần được nói rõ tại sao:

Khi Tạ Chí Đại Trường viết câu: "Quần đảo Côn Lôn... là nơi thuận tiện nhất để đón chào các tầu thuyền Tây phương. Từ năm 1779, Nguyễn Ánh đã đặt ở đây, những viên quan mang chứng minh thư của "P.J.G Giám mục d'Adran" giới thiệu với các thuyền trưởng Tây phương, mời họ vào bến, cho tin tức. Chủ đích của Pigneau là đón tầu Pháp nhưng Gia Định không cần phân biệt điều đó mà chỉ cần tầu Tây để giao thương thôi".

Câu "Từ năm 1779, Nguyễn Ánh đã đặt ở đây, những viên quan mang chứng minh thư của "P.J.G Giám mục d'Adran..." rút từ bài viết của Gaide, mà chúng tôi đã nhận xét trong chương 16: không có gì chứng minh năm 1779, Nguyễn Ánh đã tổ chức đón tầu Tây phương. Việc này chỉ có thể xẩy ra vào khoảng 1788-1789, khi Nguyễn Ánh đợi tầu chở hoàng tử Cảnh từ Pháp về.

Câu tiếp theo "Chủ đích của Pigneau là đón tầu Pháp nhưng Gia Định không cần phân biệt điều đó mà chỉ cần tầu Tây để giao thương thôi" hoàn toàn suy diễn: Làm sao biết được "chủ đích" của Bá Đa Lộc và cả "chủ đích" của Gia Định, khi chưa biết rõ năm 1779, Nguyễn Ánh và Bá Đa Lộc đã có "chủ trương" đón tầu Pháp hay chưa.

Câu: "Chính ở Côn Lôn, là nơi vào tháng 9/1788, chiếc tầu La Dryade, trong sứ mệnh dò tình hình Nam Hà, đã thả lại Hồ Văn Nghị và 1.000 khẩu súng mua cho Nguyễn Ánh. Lính thuỷ của tầu Tây trốn xuống ở đây", chép Maybon: nhận vơ những súng này là của Bá Đa Lộc giúp Nguyễn Ánh. Thực ra, 1000 khẩu súng này là Nguyễn Ánh sai Hồ Văn Nghị đi Ấn Độ mua, rồi chở trên tầu Dryade về (xem Chương 14, Maybon).

Từ đoạn sau đây trở đi: "Bá Đa Lộc gom góp tiền bạc khí giới lương thực chất lên các tầu ông thuê ở Ile de France và cả ở Pondichéry nữa, nhờ sự giúp đỡ của các nhà buôn như ta đã biết... Qua lời thư của De Guignes, viên lãnh sự Pháp ở Macao, ta thấy ông làm trung gian mua cho Nguyễn Ánh nhiều chiếc tầu. Và cũng từ Macao, trong những tháng cuối năm 178; 8,9 chiếc tầu đi buôn ở Cochinchine cũng đã mang theo nhiều thứ khí giới quân dụng..."

Cả đoạn dài trong trang 203 này, Tạ Chí Đại Trường chép Maybon và Taboulet, nhưng ông còn đi quá bản gốc một mức. Ví dụ, Maybon chỉ biện hộ cho giả thuyết Bá Đa Lộc có thể có tiền, mua khí giới chứ không dám viết trắng trợn là: Bá Đa Lộc gom góp tiền bạc khí giới lương thực chất lên các tầu ông thuê ở Ile de France và cả ở Pondichéry", vì không có một chứng cớ nào xác định Bá Đa Lộc "thuê tầu" và "chất lên tầu" ở Ile France và Pondichéry "khí giới lương thực" gì cả. Rồi Maybon cũng chỉ bảo de Guignes "cho" rằng, tức là de Guignes nghĩ rằng, giả thiết rằng: "sự thành công của Nguyễn Ánh là "nhờ nhiều tầu ông ta đã mua", Tạ Chí Đại Trường biến câu giả thiết thành xác quyết: "ta thấy ông [de Guignes] làm trung gian mua cho Nguyễn Ánh nhiều chiếc tầu", vv... Tóm lại, hoặc ông hiểu sai tiếng Pháp, hoặc ông cố ý cường điệu lời Maybon.

Nhưng lỗi nặng nhất ở đây là Tạ Chí Đại Trường đã phóng đại con số những người Pháp đến giúp Nguyễn Ánh, khi ông viết:

"Nhưng quan trọng hơn cả là việc có đám người Tây phương giúp. Ở Gia Định có đến 140 sĩ quan và 80 lính Pháp. Một bức thư của Bá Đa Lộc ngày 18/7/1794 nói đến 40 người Âu trong bộ binh, thêm vào chừng ấy nữa trên các tầu đồng (dẫn bởi Taboulet, La Geste française ... t. 204)"[23].

Không hiểu con số 140 sĩ quan Pháp này Tạ Chí Đại Trường lấy ở đâu? Trong sách của Taboulet, trang 204, mà ông Tạ dẫn, không có con số này. Về số lính Pháp đến giúp Nguyễn Ánh, Taboulet viết khá đứng đắn, ông bác bỏ con số 369 của Faure. Và sau khi nhắc lại lời Vannier: có 14 sĩ quan và 80 người lính và lời Bá Đa Lộc: có 40 người Âu trong bộ binh, Taboulet thêm vào câu: "có lẽ còn phải thêm vào con số [40] này cũng chừng ấy người nữa trên các chiến thuyền bọc đồng" (auxquels il convient sans doute d'en ajouter autant pour les vaissaux doublés de cuivre). Tức là Taboulet chỉ "gợi ý" nên thêm vào câu của Bá Đa Lộc 40 thuỷ thủ nữa trên các tầu chiến bọc đồng, để cộng lại vừa đúng con số 80 người lính mà Vannier đề ra. Tất cả đều có lô gích.

Nhưng không hiểu sao Tạ Chí Đại Trường lại thổi phồng con số này lên ngoài sức tưởng tượng, khi viết: "Nhưng quan trọng hơn cả là việc có đám người Tây phương giúp. Ở Gia Định có đến 140 sĩ quan và 80 lính Pháp. Một bức thư của Bá Đa Lộc ngày 18/7/1794 nói đến 40 người Âu trong bộ binh, thêm vào chừng ấy nữa trên các tầu đồng". Ông Tạ đã chép lại câu của Taboulet, nhưng bỏ tất cả những rào đón của Taboulet. Ông viết như một sự thực. Và ông đưa ra con số 140 sĩ quan Pháp không thấy ở đâu chép cả.

Ông viết nhầm hay ông cố ý đặt điều ra như thế? Với mục đích gì? Để "chứng minh" là đã có một đội ngũ hùng mạnh gồm 140 sĩ quan Pháp đến giúp Nguyễn Ánh "tổ chức quân đội", "làm tầu chiến", "xây dựng thành trì", "chiến thắng Tây Sơn", bởi ông nghĩ phải có con số lớn như vậy thì mới có thể làm được những việc "phi thường" kể trên chăng? Thực không thể nào hiểu được.

 

 

II- Những người Pháp đến giúp Nguyễn Ánh

 

Công việc những người Pháp đã thực sự làm ở Nam Hà trong khoảng 1789-1790, sẽ được tìm hiểu cặn kẽ qua những nguồn tin đáng tin cậy, qua văn bằng Cai đội của họ và qua những thư sai phái của vua.

 Nhưng trước hết, chúng tôi muốn viết về hai người là Joang (Jean) và Mạn Hoè (Manuel), đến trước năm 1789. Mạn Hoè, đối với triều Nguyễn, là người có công lớn nhất, đã chiến đấu đến chết. Và trước Mạn Hoè, còn một người nữa tên Joang (Jean), ít ai biết đến, nhưng Sử Ký Đại Nam Việt có ghi tên Gioang và giáo sĩ Bouillevaux cũng nhắc đến trong cuốn L'Annam et le Cambodge. Sử Ký Đại Nam Việt đặt sự kiện này vào khoảng 1777-1778. Bouillevaux đặt sự kiện vào năm 1783. Chúng tôi tin rằng Sử Ký Đại Nam Việt viết đúng hơn, vì vậy xin đưa Joang lên hàng đầu trong danh sách những người đã đến giúp Nguyễn Ánh.

 

 

Joang (Jean)

Không biết rõ nguồn gốc và họ, chỉ biết tên là Joang, theo phiên âm tiếng Việt.

Cosserat đã soạn loạt bài tiểu sử những người Pháp giúp Gia Long đầu tiên, tuy sơ lược nhưng ngay thẳng, ông chỉ ghi lại những điều khả tín. Ông cũng là người duy nhất nhắc đến tên Joang. Vì ông không đọc được Thực Lục và Liệt Truyện, nên không biết là hai sách này đều có nói đến Mạn Hoè. Trong bài Notes biographiques sur les français au service de Gia Long (Ghi chú tiểu sử những người Pháp giúp Gia Long), Cosserat cho biết:

"Có lẽ [Joang] đã đến Nam Hà vào khoảng 1782. Trong những tư liệu mà tôi [Cosserat] đã khảo duyệt trong khi nghiên cứu, tôi chỉ tìm thấy một nơi nói đến ông, trong cuốn L'Annam et le Cambodge do giáo sĩ C.E. Bouillevaux viết."[24]

Chúng tôi tìm lại sách của Bouillevaux, thấy ông viết như sau:

"Đầu năm 1783, những kẻ phản loạn dùng binh thuỷ bộ vào chiếm Gia Định lần thứ ba. Thuỷ binh hai bên gặp nhau ở cửa Cần Giờ: đại uý Pháp Ma-noê (Manuel), nổi tiếng anh hùng, tử trận. Nguyễn Ánh phải lui binh."[25] và trong chú thích cùng trang, ông viết:

"Hai người Pháp phiêu lưu dường như đã đắc lực giúp Nguyễn Ánh trong những trận đánh đầu tiên; một người được các nhà viết sử biên niên hay nhà báo (chroniqueurs)[là ai?] gọi là Joang (Jean), và một người nữa là Ma-noê (Manuel), lính thủy người Bretagne, trước làm cho giám mục Adran... Joang dường như đã dùng trái phá (grenades) đánh nhau với Tây Sơn, và có lẽ nhờ khí giới này mà Chúa Nguyễn [Nguyễn Ánh] đã chiếm lại được miền Nam lần đầu. Những kẻ phản loạn không biết khí giới quỷ quái này là gì, chạy xa hết. Còn Ma-noê được xếp vào những anh hùng của Nam Hà: bài vị được thờ ở đền Hiển Trung[26] trước khi người Pháp chiếm Sài Gòn. Người chiến sĩ can đảm này điều khiển một chiến thuyền trong trận Cần Giờ. Tầu của anh bị mắc cạn, thuỷ thủ đoàn bỏ đi, Ma-noê ở lại một mình, chiến đấu dũng mãnh như sư tử; nhưng anh thấy chiến thuyền Tây Sơn bao vây tứ phiá, và quân Tây Sơn đã lên sàn tầu, anh bèn xuống hầm chứa chất nổ, châm lửa và nổ cùng với địch quân!!!..."[27]

Những điều Bouillevaux kể trên đây, có lẽ đúng cả, nhưng ông chỉ nói qua việc Joang đến Nam Hà mà không xác định thời điểm, Sử Ký Đại Nam Việt viết rõ hơn, đặt chuyện Joang vào năm Nguyễn Ánh 15 tuổi [1777] bị Nguyễn Huệ truy nã gắt lắm, chỉ còn hai thầy trò (Nguyễn Ánh và đứa tiểu đồng) ẩn náu trong rừng, may gặp thầy cả Phao Lồ [tức Paul Nghị hay Hồ Văn Nghị], Ánh xưng danh và nhờ giúp, Nghị chèo thuyền đưa xuống Hà Tiên, giấu trong nhà Bá Đa Lộc, rồi báo tin cho vị giám mục, lúc bấy giờ đang ở Cao Miên, biết. Được một tháng, sợ bị lộ, Nghị đưa Ánh vào rừng ẩn, rồi ông và thày giảng Toán, thay nhau tiếp tế cho Ánh. Tây Sơn tiếp tục truy lùng, Ánh ẩn trong thuyền của cha Nghị ở Rạch Giá. Và tác giả kết luận: "Vì chưng nếu không có thầy cả ấy, thì ông Nguyễn Ánh phải bắt chẳng khỏi". Sau đó, như ta đã biết, Hồ Văn Nghị sẽ trở thành người thân tín của vua, được giao phó những nhiệm vụ khó khăn, tế nhị. Vẫn theo Sử ký Đại Nam Việt, câu chuyện Gioang, xẩy ra ít lâu sau [khoảng cuối 1777, đầu 1778], khi Bá Đa Lộc ở Cao Miên về:

"Khi ấy Đức thầy Vê Rô [Bá Đa Lộc] ở Cao Miên mà về, tìm được ông Nguyễn Ánh; người lại đem theo một Lang Sa, tên là Gioang, có nghề võ cũng bạo dạn gan [can] đảm và có tài đánh giặc lắm. Khi ông Nguyễn Ánh đã tu binh đặng ít nhiều, thì ông Gioang đã giúp người nhiều việc.

Vậy trước hết, khi thấy quan Nhất Trịnh [có lẽ là quan Điều khiển Hoà của Tây Sơn] đã lấy đặng đồn kia, thì ông Gioang cứ phép Tây mà làm nhiều trái phá, đoạn xuống thuyền lớn. Bấy giờ Nhất Trịnh chưa ngờ điều gì, thì vào Long Hồ, là nơi quân Tây Sơn đóng nhiều tầu lắm. Vậy ông Nguyễn Ánh làm tướng cai quân, và ban đêm, thình lình, thì xông vào đánh quân Tây Sơn. Khi ấy, ông Gioang chỉ đốt và bắn trái phá, nên quân Tây Sơn bất thình lình nghe tiếng trái phá, và thấy nhiều người chết, thì sợ hãi lắm, vì chưa từng biết sự làm vậy, cũng chưa thấy trái phá bao giờ, nên bỏ tầu mà nhẩy xuống sông. Những kẻ phải chết chém hay là bị trái phá thì chẳng bao nhiêu song kẻ chết đuối vì sợ mà vội nhảy xuống sông đè lộn nhau, thì không biết là ngần nào. Trong trận này, ông Nguyễn Ánh làm tướng [15 tuổi], rất khôn ngoan và gan đảm lắm, vì cũng đánh như lính, dầu chung quanh người chết gần hết, song ông ấy chẳng phải nao. Khi đã tàn trận mà thấy ông ấy những máu dầm dề cả mình, mà chẳng bị vết tích gì, thì ai ai đều kể là phép lạ. Những tầu quân Tây Sơn ở Long Hồ, thì ông Nguyễn Ánh lấy được hết"[28].

Nếu tin Sử Ký Đại Nam Việt, thì ta có thể tạm tóm tắt tình hình như sau: Khoảng tháng 11/1777, Bá Đa Lộc từ Cao Miên về, đem Gioang về giúp Nguyễn Ánh. Gioang làm trái phá, một loại lựu đạn thô sơ, nhưng khi nổ làm quân Tây Sơn hoảng sợ, nhẩy xuống sông chết đuối rất nhiều. Nguyễn Ánh thắng trận Long Hồ, thu được nhiều tầu bè, khí giới của Tây Sơn, tiếp tục cùng Đỗ Thanh Nhơn và quân Đông Sơn, đánh chiếm Gia Định.

Đó là đoạn ngoại sử chép đầy đủ về trận Long Hồ, chiến thắng đầu tiên của Nguyễn Ánh. Thực Lục tháng 11 Đinh Dậu [12/1777], chỉ chép vắn tắt như sau: "Đánh úp Điều khiển giặc là Hoà ở dinh Long Hồ [Vĩnh Long] cả phá được. Tháng 12 [1/1778] đánh được Sài Gòn"[29].

 

 

Mạn Hòe (Manuel)

Chuyện Mạn Hoè được nhiều nơi ghi lại:

1- Trịnh Hoài Đức là người đầu tiên viết về Mạn Hoè và trận Ngã Bẩy (Cần Giờ):

 "Tháng 3 [Nhâm Dần, 4/1782], giặc Tây Sơn là Nguyễn Văn Nhạc và Nguyễn Văn Huệ đem quân thủy bộ lần thứ ba vào cướp Gia Định. Thuỷ quân ta bầy trận ở sông Ngã Bẩy cửa biển Cần Giờ. Quân giặc thừa gió thuận nước lên, no buồm xông thẳng. Quân ta không đánh mà tự tan vỡ. Duy có Mạn Hoè (Emmanuel) tầu Tây dương, chống cự hồi lâu (Mạn Hoè là người Tây dương -nước Phú Lang Sa- hướng nghiã ra sức làm quan đến chức Khâm sai Cai cơ, quân Trung Khuông đội, An Hoà Hầu. Khi chết truy tặng làm Hiếu nghiã công thần phụ quốc thượng tướng quân, được tòng tự ở miếu Hiển Trung). Giặc Huệ họp quân vây đánh, đốt cháy tầu, Mạn Hoè bị chết. Giặc bèn thừa thắng liền phá quân ta ở ngã ba Soi Rạp, thẳng đến Bến Nghé [Sài Gòn]. Quan binh chạy tan. Vua chạy đến xứ Ba Giồng [thuộc Định Tường]..."[30].

Tuy gọi Nhạc, Huệ là "giặc", "cướp", nhưng Trịnh tiên sinh phản ảnh rất rõ tình trạng "quân ta": không đánh mà tan, quan binh chạy tan... chứng tỏ sức mạnh thần tốc của bọn "giặc, cướp" này.

2- Đại Nam Thực Lục soạn sau, chép khá giống Gia Định Thành Thông Chí:

"Tháng 3 [Nhâm Dần, 4/1782], giặc Tây Sơn Nguyễn Văn Nhạc và Nguyễn Văn Huệ vào đánh phá. Văn Nhạc nghe tin Đỗ Thành Nhân [Đỗ Thanh Nhơn] đã bị giết, mừng nói: "Thành Nhân chết rồi, các tướng khác không đủ sợ nữa!" Bèn đem chiến thuyền vài trăm chiếc, cử đại binh vào đánh. Quân Tây Sơn đến cửa biển Cần Giờ. Vua sai Tống Phước Thiêm điều bát trận thủy binh ở Ngã Bẩy (Thất Kỳ giang). Giặc nhân gió mạnh xông thẳng tới. Quân ta phải lùi. Một mình Cai cơ là Mạn Hoè, đi tầu Tây cố sức đánh rất lâu. Giặc đổ quân bao vây bốn mặt, ném hỏa khí đốt tầu, Mạn Hoè bị chết (Mạn Hoè là người Phú Lãng Sa, Bá Đa Lộc giới thiệu là người dùng được, vua trao cho chức Khâm sai Cai cơ coi đội Trung Khuông, sau được tặng là Hiệu nghiã công thần phụ quốc thượng tướng quân)"[31].

Thực Lục cho biết thêm chi tiết: Thanh Nhơn chết rồi, Nhạc mừng lắm, mới khởi quân đánh, điểm này chứng tỏ uy thế của Đỗ Thanh Nhơn trong những năm đầu khởi nghiệp Nguyễn Ánh.

3- Sử Ký Đại Nam Việt tường thuật như sau:

"Ông Nguyễn Ánh sai ông Hữu Ngoại [Đỗ Thanh Nhơn] đi với người Lang Sa kia, đã sang với đức thầy Vê Rô [Bá Đa Lộc] mà ở lại giúp việc nhà nước, tên là Manoe (Emmanuel)".

Vậy Đỗ Thanh Nhơn đã từng "cộng tác" với Mạn Hoè. Theo Trịnh Hoài Đức và Thực Lục, Mạn Hoè làm quan tới chức Cai Cơ, tức là khá lớn và được quản một chiếc tầu Tây dương. Lại theo Sử Ký Đại Nam Việt tả trận Ngã Bẩy, ta thấy quân đội của Nguyễn Ánh lúc đó đã khá hùng hậu:

"Vua nghe tin ấy [tin Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ vào đánh] chẳng lấy làm lo chút nào, bởi có nhiều tầu, nhiều ghe, cùng khí giái [giới] sẵn; lại có nhiều binh sĩ lắm. Vậy vua bắt các quan và binh sĩ đi đón quân giặc. Trước hết có một ông Manoe, là người Lang Sa, cai một chiếc tầu lớn: Chẳng hay những tầu vua xuống sông đi ngược nước, chưa ra cửa [Cần Giờ], liền gặp những thuyền quân giặc Tây Sơn vào cửa đi xuôi nước. Mấy tầu vua có một chiếc đi trước là tầu ông Manoe, phòng triệt chẳng cho quân Tây Sơn vào cửa.

Bấy giờ quan quân thấy tầu quân Tây Sơn vào cửa mà chạy xuôi nước thuận gió làm vậy, thì kinh khiếp cả. Vả lại ông Manoe chẳng quen đàng [đường], thì tầu phải [mắc] cạn, chẳng còn đi được; lại chẳng ai có gan đến cứu người. Quân trong tầu thấy làm vậy, lại quân giặc ở gần lắm, thì mất viá. Lại thấy tầu đã bê vào bờ, nên quân ấy chạy trốn, chẳng còn ai ở lại. Ông Manoe một mình ở trong tầu túng lắm; song chẳng ngã lòng, một cứ thói quân lính bên tây mà đánh cho đến chết. Quân giặc thấy tầu phải cạn thì đua nhau đến. Nhưng mà bao nhiêu người xuống tầu ấy thì ông Manoe chém đi hết. Song bởi quân ấy đông quá, mà ông Manoe thì một mình chẳng làm chi được. Bấy giờ ông ấy thấy tầu đầy quân giặc, thì xuống dưới lòng xét, nơi đã quen trữ thuốc súng mà đốt đi. Cho nên bỗng chốc cả thuyền vỡ ra cháy cách gớm ghiếc lắm; bao nhiêu người trong tầu chết hết; và những chiếc tầu ở xung quanh thì phải vỡ cả. Ông Manoe chết cách khốn nạn như vậy, song thiên hạ khen là "anh hùng"[32].

 Bouillevaux và Sử Ký Đại Nam Việt có những chi tiết giống nhau, không biết ai chép của ai. Tác giả Sử Ký Đại Nam Việt rất phục Tây, nên viết những câu như: "ông Gioang cứ phép Tây mà làm", "cứ thói quân lính bên Tây mà đánh cho đến chết", ngoài điểm ấy, những chỗ khác có thể tin được. Tập hợp cả ba nguồn: Gia Định Thành Thông Chí, Thực Lục và Sử Ký Đại Nam Việt, ta có thể tóm tắt trận Ngã Bẩy như sau:

Tháng 4/1782, nghe tin Đỗ Thanh Nhơn đã bị Nguyễn Ánh giết, Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ thống lĩnh đại binh vào đánh Gia Định. Nguyễn Ánh sai Tống Phước Thiêm đón đánh Tây Sơn ở Ngã Bẩy (Thất Kỳ Giang, gần cửa Cần Giờ). Thuyền Tây Sơn xuôi chiều gió, mạnh tiến vào cửa Cần Giờ. Quân của Tống Phước Thiêm tan rã. Tầu của Mạn Hoè, không thuộc đường sông, bị mắc cạn. Nguyễn Huệ cho quân bao vây, "ném hỏa khí đốt tầu". Như vậy quân của Nguyễn Huệ đã dùng "hoả khí", cũng là một loại "trái phá" chăng? Tức là cả hai bên đều dùng "hoả khí", và như thế, chưa chắc "trái phá" đã là "đặc sản" của Tây do Joang đem vào giúp Nguyễn Ánh, mà cả Nguyễn Huệ cũng đã có khí giới này.

Sử Ký Đại Nam Việt và Bouillevaux cho rằng: Mạn Hoè tự đốt thuốc súng ở hầm tầu, chết cùng địch quân. Nhưng Trịnh Hoài Đức viết: "Nguyễn Huệ cho quân vây đánh đốt cháy tầu đó" và Thực Lục ghi rõ hơn: "Giặc đổ quân bao vây bốn mặt, ném hỏa khí đốt tầu", tức là tầu của Mạn Hoè bị quân Nguyễn Huệ vây đốt. Thoại thứ hai này có vẻ thực hơn, vì thứ nhất: người Âu không có truyền thống tự vẫn, và thứ hai, nó chứng tỏ quân Nguyễn Huệ dùng "hoả khí". Lời Trịnh Hoài Đức có lý hơn, bởi không lẽ gì mà ông lại tự viết lời khen "giặc" giỏi.

Đối với triều đình nhà Nguyễn, Mạn Hoè là người anh hùng và có công đầu trong số những người Pháp đến giúp Nguyễn Ánh. Sau khi chết, ông được thăng Hiếu Nghiã công thần phụ quốc Thượng tướng quân, bài vị được thờ ở đền Hiển Trung cùng với các danh tướng khác. Đền Hiển Trung ở trên đường Sài Gòn-Chợ Lớn, Pháp gọi là Pagode des Mares, (Đền Ao) đền này bị quân Pháp tiêu hủy khi tấn công đại đồn Kỳ Hoà của Nguyễn Tri Phương, năm 1861.

4- Cosserat trong bài Notes biographiques sur les Français au service de Gia Long[33] viết khá dài về Mạn Hoè, ông kể lại hai chuyện: giáo sĩ Bouillevaux viết về cái chết của Mạn Hoè, như đã trích dẫn ở trên và Bá Đa Lộc đã dùng chuyện Mạn Hoè, tâu lên vua Louis XVI, để thuyết phục vua Pháp ký hiệp ước cầu viện.

Xin tóm tắt việc Bá Đa Lộc: Khi Bá đem Hoàng tử Cảnh sang Pháp cầu viện, ngày 5 hay 6/5/1787 ông được vào triều kiến vua Louis XVI, với sự hiện diện của Thống chế de Castries, Bộ trưởng hải quân và Công tước de Montmorin, Bộ trưởng ngoại giao. Nội dung buổi triều kiến được hai ông bộ trưởng này ghi lại trong notes, và được lưu trữ trong văn khố bộ Hải quân và bộ Ngoại giao Pháp. Faure sưu tầm hai bài notes này và viết lại trong cuốn Monseigneur Pigneau de Béhaine (Bá Đa Lộc) (t. 78-85). Theo Faure, trước hết Bá Đa Lộc trình bầy tình hình chung đại khái: Nam Hà có vị trí độc đáo, ai chiếm được thì có thể làm chủ sự lưu thông cả vùng, ngăn ngừa được đế quốc Anh bành trướng. Những lợi ích đem quân giúp Nguyễn Ánh rất lớn mà sự đổ bộ lên vịnh Đà Nẵng là an toàn, vv... ông Bá còn xác định với Pháp hoàng rằng lực lượng thủy binh của Tây Sơn "không có gì đáng kể", lời lẽ như sau:

"Những chiến thuyền mạnh nhất của chúng [Tây Sơn] chỉ bằng thứ thuyền nhỏ ba cột buồm (chasse-marée) của ta. Thần có thể nói rằng, trong những trận đánh lúc bắt đầu cuộc nổi loạn, một thần dân can đảm của bệ hạ mà hạ thần dẫn từ Pondichéry đến giúp Nguyễn Ánh, chỉ huy một chiếc tầu bé, với 10 đại bác rất nhỏ và vài tên lính thuỷ ở vùng Gia Định (Sài Gòn), vậy mà cũng cầm cự được một ngày, chống lại cả một hạm đội của quân địch gồm 100 chiến thuyền, mà không bị bắt. Đúng, là anh tử tiết với tầu. Đúng, anh là một người Pháp can đảm, có một nghị lực phi thường, mà tên tuổi anh, vì hành động này, sẽ mãi mãi là thần tượng ở nước Nam"[34].

Lời Bá Đa Lộc khác hẳn lời Trịnh Hoài Đức: Quân ta không đánh mà tự tan vỡ, và lời Sử Ký Đại Nam Việt: quan quân thấy tầu quân Tây Sơn vào thì kinh khiếp cả. Ngoài ra ông Bá lại còn tưởng rằng có thể đổ bộ dễ dàng lên vịnh Đà Nẵng (Nguyễn Huệ đang làm chủ). Tất cả những sai lầm này đã làm hại vị giám mục: có thể Conway đã điều tra được sức mạnh đích thực của Nguyễn Huệ, nên khuyên vua Louis XVI bãi bỏ hiệp định Versailles, nhưng có lẽ vị công tước này không thông minh đến thế, ông khuyên vua Pháp bỏ hiệp ước Versailles vì ông tin vào những báo cáo láo của thuộc hạ, cho rằng nước Nam không có lợi lộc gì mà chiếm, Côn Lôn, Cù Lao Chàm ô uế, không ai thèm ở, vv...

Tuy nhiên, khi Bá Đa Lộc và Hoàng tử Cảnh từ Pháp về tới Pondichéry năm 1788, dư luận lúc đó chắc khá sôi nổi, cho nên mới có một số thủy thủ đào ngũ trên các tầu Pháp, từ Pondichéry, Macao tìm đến Nam Hà, đầu quân Nguyễn Ánh. Trong số đó có: Guillaume Guilloux, Jean-Baptiste Guillon, Julien Girard de l'Isle-Sellé, vv...

 

Guillaume Guilloux

Quê ở Vannes (Morbihan, Bretagne), tình nguyện binh nhất trên tầu Le Duc de Chartres. Theo Faure thì  Guilloux đến Pondichéry ngày 22/6/1784, và ở lại[35]. Từ năm 1784 đến 1790 không biết Guilloux làm gì. Ông được văn bằng Phó Cai đội của vua ngày 27/6/1790, trong có câu: "Hoàng thượng nhận thấy, dù J. Guilloux, quốc tịch Pháp, chưa có cơ hội làm việc nhiều, nhưng đã tỏ ra có thiện chí, nhất là đến từ rất xa, để phục vụ trong thuỷ binh của nhà vua; vì thế hoàng thượng ban cho y chức Phó Cai đội nhuệ tài hầu, dưới quyền của JM. Dagot [Dayot]..."[36]

Và ông đã trở lại Pondichéry tháng 1/1792, tức là chỉ ở Nam Hà trong 6 tháng, thư của giáo sĩ Le Labousse gửi Hội thừa sai Paris ngày 16/6/1792, cho biết:

"Tất cả những người Pháp ở đây giúp vua được hơn hai năm, đều trở về Macao. Trong đó có hai anh em Dayot, quê quán Rhedon, ông Vannier, quê Auray. Các ông Launey và Guilloux quê ở Vannes, đều đã sang lại Pondichéry rồi; Launey, ngày mồng một năm ngoái [1/1/1791], và Guilloux tháng giêng vừa rồi..."[37]

Như vậy, theo Le Labousse, hầu hết những người lính Pháp đến đầu quân giúp Nguyễn Ánh, chỉ ở trong hơn hai năm rồi bỏ đi. Tuy nhiên hai anh em Dayot sẽ đổi ý, ở lại đến 1795, và Vannier ở lại đến 1822, mới về hẳn Pháp. Theo Cosserat, Guilloux "đi mất, không để lại dấu vết"[38].

 

Jean-Baptiste Guillon

Quê ở Vannes (Morbihan, Bretagne), Faure viết:

"Tình nguyện binh nhì (nhận chức ngày 22/12/1787), trên tầu Dryade, rời cảng Lorient ngày 27/12/1787. Vào bệnh viện Pondichéry ngày 1/8/1788, ra ngày 14/8/1788. Trở lại Pondichéry cùng với tầu ngày 1/7/1789 và ở lại đây. Chú thích: Tới Brest, mang giấy thông hành của toà thị chính Saint-Brieuc ngày 18 Germinal năm thứ XIII, (18/4/1804), lên tầu Républicain làm đội phó tài công (deuxième maitre de timonerie)"[39]. Jean-Baptiste Guillon, lính tình nguyện trên tầu Dryade, rời Lorient ngày 27/12/1787, trên cùng tầu với Olivier de Puymanel, Bá Đa Lộc và Hoàng tử Cảnh. Vậy có thể Guillon đã quen Bá Đa Lộc trong chuyến đi này. Đến Pondichéry anh ta phải vào bệnh viện, ra viện tiếp tục làm thuỷ thuỷ, trở về Pondichéry làn thứ hai ngày 1/7/1789; lần này mới đào ngũ, rồi tìm cách đi Nam Hà. Guillon được nhận văn bằng phó Cai đội ngày 27/6/1790, trong có câu: "... tuy chưa có cơ hội trổ tài, nhưng đã tỏ ra có thiện chí, đến từ rất xa để phục vụ trong thủy binh của nhà vua. Hoàng Thượng tin tưởng vào tài năng của y, với văn bằng này, ban cho y chức Phó Cai đội oai dõng hầu, dưới quyền của JM Dagot [Dayot]..."[40]

Faure còn viết: "Ông Guillon, nhận chức Lieutenant de vaisseau Nam Hà ngày 27/6/1790, đã phụng sự ở đó cho tới ngày về lại Brest, tức là trong vòng 14 năm"[41]. Câu này chắc sai, vì Thực Lục không ghi tên Guillon trong các chiến dịch hành quân và Cosserat cho biết, ông cũng không tìm thấy dấu vết gì của Guillon trong vòng 14 năm này[42].

 

 

Julien Girard de l'Isle-Sellé

Không biết quê ở đâu. Theo Cosserat, có lẽ là công chức thuộc địa, vì không thấy tên trong danh sách thủy thủ đào ngũ của Faure. Trong văn bằng vua cấp cho Isle-Sellé ngày 27/6/1790, có câu: "... với văn bằng này, cấp cho y chức Cai đội Long hưng hầu, giao cho y quản chiếc tầu Le Prince de Cochinchine, dưới quyền điều khiển và phải tuân mọi lệnh của Jean-Marie Dagot [Dayot], chỉ huy phân khu có tầu này"[43]. Văn bằng này rất giống văn bằng của Vannier, cả hai đều ở dưới quyền Dayot. Tuy nhiên không thấy Thực Lục nói đến tên ông, và Cosserat cũng cho biết: có lẽ ông không ở lâu vì, tôi không tìm thấy tài liệu gì của ông sau năm 1790.

 

Jean-Marie Despiaux (?-1824)

Jean-Marie Despiaux là một bác sĩ, ở Nam Hà từ 1799 đến khi ông mất, khoảng 1824. Ông được vua Minh Mạng giao việc đi Macao mua thuốc chủng đậu. Không biết ông đến Nam Hà năm nào, nhưng ông được nhận văn bằng bác sĩ ngày 2/4/1799:

"Văn bằng cấp cho M. Despiaux

Trẫm, vua Nam Hà, cấp bằng này cho Jean-Marie Despiaux, quốc tịch Pháp. Người tên J.M. Despiaux, nghe tiếng trẫm lãnh đạo công minh đã tìm đến Nam Hà, trẫm biết y có tài làm thuốc, ban cho y chức bác sĩ trong quân đội, lệnh xuống tầu Phụng [Phượng phi] theo quân, sẵn sàng tới bất cứ nơi nào cần gọi, để hành nghề. Nếu người tên J.M. Despiaux, không chu toàn bổn phận, sẽ bị trừng phạt theo đúng luật pháp. Khâm tai." Ngày 2/4/1799[44].

Cosserat cho biết: Despiau (hay Despiaux, tên những người Pháp mỗi chỗ viết một khác) quê ở Bazas (Gironde), là bác sĩ giải phẫu. Theo Đức Chaigneau, ông đã ở Macao rồi đến nước Nam, được người Pháp ở đây đón tiếp nồng hậu nên quyết định ở lại, và trở thành một trong số các thầy thuốc của vua. Ông đã có mặt lúc Bá Đa Lộc mất, ngày 9/10/1799 và đã săn sóc cho vị giám mục tới phút cuối. Lá thư của Vannier viết cho M. Baroudel ngày 13/7/1820, cho biết: "Tôi [Vannier] đề nghị với vua [Minh Mạng] sai M. Despiau đi tìm thuốc [thuốc chủng đậu, ở Macao], ông ở đây đã lâu và cũng là một trong những thầy thuốc ở trong cung. Nhà vua bằng lòng..."[45]

Một lá thư nữa của giám mục La Bartette gửi Baroudel từ Huế ngày 2/8/1821 và một thư khác của Vannier gửi Baroudel từ Huế ngày 2/8/1821[46] cũng nói đến sự hiện diện của M. Despiaux vào thời điểm này. Rồi không có tin gì nữa. Năm 1825, trong bản báo cáo của Nam tước Bougainville gửi Bộ trưởng hải quân, viết từ Đà Nẵng, ngày 12/2/1825, trên tầu Thétis, có câu: "Ngay hôm đến đây, tôi đã trao cho quan sở tại một lá thư cho ông Chaigneau, trong đó tôi yêu cầu ông đến Đà Nẵng và thông báo sự cập bến của Hạm đội [cho vua biết]; tôi không biết là ông Chaigneau đã đi rồi, đến ngày hôm sau nữa, là 14, tôi mới biết chỉ còn có một người Pháp ở lại đây, ông Despiau, thầy thuốc, vừa mới chết..." [47]

Đức Chaigneau viết: "Ông Despiau, những khả năng trí tuệ đã bị mất đi, không còn sáng suốt để làm thầy thuốc, điều mà ông nhận là đã có học trong thời trẻ. Người ta gọi ông là bác sĩ, nhưng ông chỉ có tên thôi, còn thì ông chỉ cho thuốc chữa bệnh ngoài da, mà người Việt rất thích. Ông Despiau thuộc đám kiều dân nhỏ chúng tôi, không có gia đình ở Huế, rất thân với hai gia đình Pháp chúng tôi [Chaigneau và Vannier] mà ông coi là gia đình ông" [48].


 


[1] Lã Tống tức Luzon, đảo lớn nhất của Phi Luật Tân, chỉ thủ đô Manille.

[2] LT, II, mục từ Bá Đa Lộc, t. 506-507.

[3] Trần Kinh Hoà, bài Tựa cuốn Quốc sử di biên, Nxb Văn Hoá Thông tin, 2009, t. 12.

[4] Theo thư Bá Đa Lộc gửi M. Descourvières ngày 5/12/1783, Launay, III, t. 76-81.

[5] Louis-Eugène Louvet sinh tại Rouen ngày 17/5/1838, thụ phong linh mục ngày 19/12/1863. Kém sức khỏe, ông mắc bệnh lao. Ngày 14/8/1872 vào Hội Thừa Sai và ngày 29/1/1873 được gửi đi miền tây Nam Kỳ, ông ở trong Nam đến 1896 thì bị liệt. Ông mất tại Sài Gòn ngày 2/8/1900 và được an táng trong mộ Bá Đa Lộc.

Trong khoảng thời gian 1873-1875, nhiều lần vào dưỡng viện (sanatorium) ở Hồng Kông, ông viết sách. Bộ La Cochichine Religieuse được in năm 1885. Louvet là một trong những tác giả cực lực bảo vệ lập trường "giáo hóa" của đạo Thiên Chúa và "tố cáo tội ác"của các vua Nguyễn, đặc biệt Minh Mạng và Tự Đức.

[6] Louvet, La Cochinchine Religieuse (Đạo giáo ở Nam Kỳ) Leroux, Paris, 1885, I, t. 532, 533, 534, 535, 536.

[7] Từ Điển Nhà Nguyễn của Võ Hương An: "Khâm là mệnh lệnh của của vua, sai là bảo làm", nghiã thứ nhất: "Thời các chúa Nguyễn và đầu đời nhà Nguyễn, khi chưa có quan chế mới (1827), từ Khâm sai thường được dùng đặt trước các chức danh quan võ, có lẽ nhằm làm rõ chức mệnh quan trọng của người mang nó" (Tập I, t. 354).

[8] Trang 248 Faure ghi 369, nhưng trang 210, ông lại ghi 359, nhưng số 369, đúng với con số tổng cộng.

[9] Faure, Monseigneur Pigneau de Béhaine (Bá Đa Lộc, Challamel, Paris, 1891), t. 248.

[10] Faure, Bá Đa Lộc, t. 210.

[11] Faure, Bá Đa Lộc, note 2, t. 199-200.

[12] Jurien de la Gravière, Souvenir d'un amiral, 1872, t. 15; in lại trong Taboulet, I, t. 244.

[13] Montyon, II, t. 143.

[14] Launay, Histoire de la Mission de Cochinchine, III, t. 284.

[15] TL, I, t. 287.

[16] TL, I, t. 286.

[17] Thuộc tỉnh Lorient, miền Bretagne, Pháp.

[18] Nguyên văn: "Ce prince trouva dans les connaissances de quatorze officiers et quatre-vingts soldats des secours tels qu'ils l'aidèrent à remonter sur son trône) (Documents d'André Salles, Philippe Vannier, BAVH 1935, II, t. 143).

[19] Đức Chaigneau, Souvenirs de Huế, t. 18.

[20] BEFEO số 12, 1912 (t. 1- 82).

[21] Lịch sử nội chiến ở Việt Nam, t. 200-208.

[22] Lịch sử nội chiến ở Việt Nam, t. 202-203.

[23] Lịch sử nội chiến ở Việt Nam, t. 203.

[24] Cosserat, Notes biographiques sur les français au service de Gia Long, BAVH, 1917, III, t. 169.

[25] Bouillevaux, L'Annam et le Cambodge, voyages et notices historiques (An Nam và Cao Mên, du hành và lược dẫn lịch sử), Victor Palmé, Paris, 1874, t. 381.

[26] Bouillevaux gọi đền này Panthéon des Mares, các tác giả Pháp gọi là Pagode des Mares (Chùa Ao). Đền Hiển Trung bị Pháp phá khi đánh thành Sài Gòn.

[27] Bouillevaux, L'Annam et le Cambodge, t. 381.

[28] Sử Ký Đại Nam Việt, t. 13-14.

[29] TL, I, t. 205.

[30] Gia Định Thành Thông Chí, t.130.

[31] TL, I, t. 211-212.

[32] Sử Ký Đại Nam Việt, t. 15 và t. 24.

[33]Notes biographiques sur les Français au service de Gia Long, BAVH, 1917, III, t. 166-169.

[34] Faure, Bá Đa Lộc, t. 82-83.

[35] Faure, Bá Đa Lộc, t. 246.

[36] Louvet, La Cochinchine Religieuse (Đạo giáo ở Nam Kỳ), I, t. 538.

[37] Cadière, Documents relatifs à l'époque de Gia Long, BEFEO, t. 28.

[38] Cosserat, Notes biographiques sur les Français au service de Gia Long, BAVH, 1917, III, t. 172.

[39] Faure, Bá Đa Lộc, t. 242.

[40] Louvet, La Cochinchine Religieuse, I, t. 537.

[41] Faure, Bá Đa Lộc, t. 242.

[42] Cosserat, Notes biographiques sur les Français au service de Gia Long, BAVH, 1917, III, t. 172.

[43] Louvet, La Cochinchine Religieuse, I, t. 535.

[44] Louvet, La Cochinchine Religieuse, I, t. 537.

[45] Cadière, Doc. Rel., BEFEO, t. 63.

[46] Cadière, Doc. Rel. BEFEO, t. 65 và t. 67.

[47] Henri Cordier, Le consulat de France à Huế sous la restauration, nxb Ernerst Leroux, Paris 1884, t. 106.

[48] Michel Đức Chaigneau, Souvenirs de Huế, t. 231.

Thụy Khuê

 

© Copyright Thuy Khue 2015