Thụy Khuê Khảo sát công trạng của những người Pháp giúp vua Gia Long
Chương 19
Jean-Marie Dayot (1759-1809)
Trong thời đại Internet, mục từ Jean-Marie Dayot trên Wikipédia được phổ biến qua nhiều thứ tiếng, bản tiếng Anh tóm tắt tiếng Pháp, bản tiếng Việt dịch lại tiếng Anh... Wikipédia Pháp chỉ định "chức tước" của Jean-Marie Dayot: "Grand amiral de la flotte annamite et commandant des bâtiments français de l'Annam" (Đại đô đốc của hạm đội An Nam và tư lệnh những tầu Pháp của nước Nam), và ghi những "chiến công" lừng lẫy của Dayot như sau: "Năm 1792, ông cầm đầu một chiến dịch cho Nguyễn Ánh, ông tàn phá 5 tầu chiến, 90 chiến thuyền, và khoảng 100 tầu nhỏ của Tây Sơn; ông cho đổ bộ quân đội lên bộ và phá huỷ những đồn luỹ trước khi quay về bến Can-Tru [Cần Giờ]. Năm 1793, ông đặt ra chiến dịch hàng năm (Giac mua) [Giặc mùa], trong khi bộ binh do Olivier de Puymanel điều khiển, tấn công Qui Nhơn một lần nữa. Ông bắt được 60 chiến thuyền của Tây Sơn và chiếm được các tỉnh Bình Thuận và Phú Yên, mặc dù thành Quy Nhơn vẫn chưa hạ được. Jean-Marie Dayot còn thực hiện một công trình lớn lao là thủy đạo đồ bờ biển nước Nam, bản đồ do người em vẽ và ông gửi một bản sao về Paris. Ông lấy tên mình, Port Dayot, đặt cho cảng Van Phong[1]. Năm 1795, Jean-Marie Dayot bị kết án oan ức là đã cố tình làm đắm chiếc tầu do ông cai quản. Oan thực, vì lúc đó ông đâu có ở trên tầu. Ông bị kết án vì bất cẩn và bị đóng gông. Nhờ Olivier de Puymanel và giám mục Adran can thiệp, ông mới được thả sau 4 ngày chịu nhục hình. Ghê tởm vì bị đối xử như thế sau những phụng sự lớn lao như thế, ông rời bỏ Nam Hà". Những điều Wikipédia Pháp viết trên đây, tổng hợp toàn bộ những gì các ngòi bút thuộc địa đã phóng tác và xây dựng nên huyền thoại "sự nghiệp" của Dayot, con người "lừng lẫy", "bị kết án oan ức" và bị Gia Long "đối xử tàn nhẫn". Đây là trường hợp điển hình về sự xuyên tạc lịch sử, được Wikipédia quảng bá trên toàn thế giới. Những sai lầm và xuyên tạc này đến từ các tác giả thực dân, mà chúng tôi đã chứng minh dần dần trong các chương trước, nay xin đưa thêm một số nhận xét mới: - Chức Grand amiral, Đại đô đốc, tương đương với chức của Nguyễn Văn Trương, người chỉ huy toàn bộ thủy binh của Nguyễn Ánh, đã lập chiến công trong các trận Thị Nại 1792, Thị Nại 1801, trận Đà Nẵng, trận Phú Xuân, trận Trấn Ninh... - Việc "Dayot đặt ra chiến dịch giặc mùa" hoàn toàn bịa đặt. Gió mùa chứ không phải giặc mùa. Thời đó, tất cả tầu bè Âu, Á đều dùng buồm, đi đâu cũng phải đợi thuận gió mới khởi hành được. Không chỉ Nguyễn Ánh dùng chiến dịch gió mùa, mà Tây Sơn cũng đợi thuận chiều gió để đánh vào Nam, giặc mùa là tiếng dân miền Nam chỉ quân Tây Sơn. - Văn bằng vua cấp cho Jean-Marie Dayot ghi: Khâm sai Cai đội quản chiếu tầu nhị chích [Khâm sai Cai đội chỉ huy hai chiếc tầu (nhị chích là hai chiếc)]. Không có chỗ nào trong sách Việt gọi anh ta là "Đại đô đốc của hạm đội An Nam và tư lệnh những tầu Pháp của nước Nam", người thống lãnh thuỷ binh của Nguyễn Ánh là Nguyễn Văn Trương. - Cũng không có bằng cớ đích xác về sự có mặt của Dayot trong trận Thị Nại 1792. Vì vậy, chương viết về Dayot dưới đây khá dài, không phải vì "công trạng" của Dayot đối với vua Gia Long "lớn lao" như Wikipédia đã chép, mà vì phải điều tra lại những sự kiện đã bị xuyên tạc, vì trong thời kỳ Dayot ở Nam Hà, có những biến cố lịch sử phức tạp, liên quan đến Bá Đa Lộc, Dayot và những người Pháp, cần được giải thích. Chương này chia làm bốn phần: Phần I: Sức mạnh của thuỷ binh Nguyễn Ánh Phần II: Chức vụ và trách nhiệm của Jean-Marie Dayot Phần III: Tội của Dayot Phần IV: Việc thổi phồng sự nghiệp Dayot
I. Sức mạnh của thủy binh Nguyễn Ánh Trước khi điều tra nguồn gốc và công trạng của Jean-Marie Dayot, người được tâng lên chức "Đại đô đốc của hạm đội An Nam và tư lệnh những tầu Pháp của nước Nam", chúng tôi tìm hiểu sức mạnh đích thực của thuỷ quân Nam Hà, để gián tiếp trả lời sự chủ quan của người Pháp, tưởng cái gì họ cũng làm thầy, và giải tỏa mặc cảm bị trị của người Việt, tưởng cái gì cũng do Tây dạy. Trước hết, xin nhắc lại một số dữ kiện sau đây: Đầu thế kỷ XIX, thuyền tầu Tây phương chưa tiến bộ đến mức vượt xa thuyền tầu Đông phương. Cả hai bên đều dùng thuyền buồm. Trận thủy chiến của chúa Sãi và chúa Hiền đánh quân Hoà Lan thế kỷ XVI và XVII chứng tỏ điều đó. Xem thuyền Bounty trong cinéma, hay thuyền của Lafayette mà người Pháp vừa làm lại nguyên bản, cho chạy xuyên đại dương sang Mỹ là thấy rõ. Đến nửa sau thế kỷ XIX, khoa học Âu Châu phát triển mạnh trong khi Á Châu vẫn chưa tiến bộ, vì thế mà quân Pháp, sau 30 năm chiến tranh, đã chiếm được toàn bộ nước ta. Trong lá thư dài viết ngày 1/5/1800, gửi các Giám đốc Viện Thừa sai, giáo sĩ Le Labousse nói về sức mạnh của thủy binh Nguyễn Ánh năm 1800: "Trong ít ngày nữa nhà vua sẽ đi đánh, có lẽ ông đi thẳng đến cung điện của vua ngụy [Phú Xuân]. Bình thường ông sẽ thắng: ông có khoảng 80.000 quân thiện chiến. Thủy binh của ông mạnh nhất trong vùng Ấn Độ, không nước nào sánh được. Ngoài bốn chiến hạm đại hiệu, ông còn có hơn 40 chiến thuyền làm theo kiểu trong nước, trong số đó có 5 chiến thuyền, mỗi thuyền chở 46 đại bác đạn cỡ 18 [quarante six canons de dix-huit]; những thuyền chiến còn lại chở 20 hay 26 [đại bác]. Ông cũng có gần một trăm ga-le lớn, và ít nhất hai trăm ga-le nhỏ hơn, rất lợi hại khi đánh trên sông. Thuỷ binh này sẽ vô địch khi có những thuyền trưởng Âu Châu cầm đầu. Giá trị của họ làm địch quân kinh ngạc, khiến quân đội của ông phấn khởi". Le Labousse, cũng như tất cả các tác giả Pháp, Việt, đều không bỏ được thói quá tin vào giá trị "xuất chúng" của "các thuyền trưởng người Âu", mặc dù, khi ông viết những dòng này, chưa có người Âu nào được điều khiển tầu đại hiệu, tầu chiến bọc đồng. Nhưng ông đã không sai khi tin rằng sức mạnh thuỷ binh của Nguyễn Ánh sẽ là yếu tố quyết định chiến thắng: "Chính thuỷ quân này là sức mạnh của nhà vua: nhờ nó mà nhà vua chinh phục lại được nhiều vùng, và nhờ vào độc mình nó mà nhà vua có thể lấy lại được toàn diện lãnh thổ. Đánh bộ, quân địch có thể chống lại được, thậm chí có thể thắng; nhưng trên biển, họ không bao giờ thắng nổi, dù họ có nhiều tầu và ga-le hơn"[2]. Chúng ta thử tìm hiểu, tại sao có sự hùng mạnh này.
Nguồn cội sức mạnh thuỷ quân Nguyễn ÁnhCác tác giả thuộc địa đều cho rằng nhờ Bá Đa Lộc giúp khí giới và những "sĩ quan" Pháp đem kỹ thuật tân tiến Tây phương vào mà Nguyễn Ánh có đội ngũ thủy binh hùng mạnh; người viết sử Việt cứ thế chép lại, như trường hợp Tạ Chí Đại Trường: "Đặc sắc của thuỷ quân Gia Định là sự dồi dào vũ khí, hiệu suất cao của chúng, là các tầu bọc vỏ đồng chắc chắn cùng chiến thuật mới của các sĩ quan Tây phương đưa vào" [3]. Tóm lại: Thuỷ quân Nam Hà mạnh là nhờ có tầu Tây, do Tây lãnh đạo và huấn luyện, mà Dayot là thuỷ tổ! Một thành kiến hết sức sai lầm. Sự thực không phải như thế. Đừng quên rằng Nguyễn Huệ và Nguyễn Ánh đều mạnh về thuỷ binh: Nguyễn Huệ vào Nam, ra Bắc, thần tốc, tiêu diệt quân Xiêm, quân Thanh phần lớn cũng nhờ sức mạnh thủy quân. Bởi vì Huệ và Ánh sống trong Nam, thừa hưởng truyền thống thuỷ quân của chúa Nguyễn. Chúng ta chưa biết rõ Nguyễn Huệ phát triển thuỷ binh như thế nào, riêng Nguyễn Ánh đã phát triển ngành này từ trước khi các "ông Tây" đến, rất lâu. Trịnh Hoài Đức viết: "Đất Gia Định có nhiều sông, hồ, đầm, bãi, cứ 10 người thì có đến 9 người thạo chở thuyền, biết lội nước (...) Ở Gia Định, chỗ nào cũng có thuyền ghe hoặc lấy thuyền làm nhà, hoặc lấy thuyền để đi chợ, thăm bà con, chỏ củi gạo, đi buôn bán lại càng tiện lợi. Thuyển ghe đầy sông, đi lại đêm ngày, mũi thuyền, đuôi thuyền liền nhau "[4]. Trong điều kiện sống của người dân miền Nam như thế, Nguyễn Ánh đã sớm mở mang kỹ thuật đóng thuyền, tầu (ta gọi tất cả là thuyền), lại nhờ tướng giỏi, có tài như Đỗ Thanh Nhơn, Võ Di Nguy và ông còn mua thuyền, tầu ngoại quốc. Năm 1793, Nguyễn Ánh có thêm Trần Văn Thái, thuộc Công bộ của Tây Sơn về hàng, hợp lực với Võ Di Nguy trong việc đóng thuyền. Võ Di Nguy tử trận ở Thị Nại, năm 1801. Trần Văn Thái sau làm đến chức Công bộ thượng thư. Trước đó, tháng 8/1787, Nguyễn Văn Trương, Chưởng cơ Tây Sơn đem 300 quân tinh nhuệ và 15 chiến thuyền về theo, Nguyễn Ánh phong chức Khâm sai Chưởng Cơ, quản đạo Tiên phong Thuỷ dinh Trung quân; sau Trương trở thành đại tướng thống lãnh toàn bộ thuỷ binh của Nguyễn Ánh, lập công lớn trong các trận Thị Nại 1792, Thị Nại 1801, Quảng Nam, Phú Xuân, Trấn Ninh... Những việc này chứng tỏ Nguyễn Ánh biết dùng người và Tây Sơn có nền thuỷ binh mạnh mẽ, có những chuyên viên đóng tầu giỏi không kém. Nguyễn Ánh phát triển việc đóng tầu rất sớm, vừa thoát chết khỏi tay Nguyễn Huệ, theo Thực Lục, tháng 4/1778, Ánh mới 16 tuổi, đã sai đóng hơn 50 chiến hạm gọi tên là thuyền hiệu Long Lân và mua nhiều bè hoả công[5]. Trịnh Hoài Đức giải thích việc này: "Năm 1778... Quân ta đắp lũy đất từ bờ bên tây sông Bến Nghé dọc đến bờ sông An Thông [sông Sài Gòn]. Phàm các cửa sông đều đóng cọc gỗ để ngăn chặn chống cự. Bèn ngầm đến sông Thị Tĩnh thuộc sông lớn An Thông, đóng hơn 50 chiếc thuyền chiến, trong số thuyền ấy có làm thuyền đầu nhọn, thân và đầu thuyền gác ba tấm ván có vẽ như kiểu tầu biển của Tây dương. Giàn bầy chằng chịt gọi là thuyền vẩy rồng [Long Lân]; lại sắp sẵn bè hoả công. Vào ngày 19 tháng 6 giờ dần, ngầm ra sông lớn Bình Dương [phụ lưu của Bến Nghé], đánh úp quân giặc, đốt thuyền giặc, chém đựợc tư khấu giặc là Nguyễn Uy, lấy được hết khí giới thuỷ sư của giặc"[6]. Vậy từ năm 16 tuổi, Ánh đã sai đóng chiến hạm, rồi vẽ theo kiểu "tầu biển Tây dương" để "doạ" địch. Đến tháng 5/1778, Ánh sai Trần Văn Phúc sang đạo Tân Châu, Nguyễn Đức Huy sang đạo Quang Hoá đóng thuyền đi biển[7]. Nhưng việc đóng tầu chiến thực sự bắt đầu với Đỗ Thanh Nhơn, Trịnh Hoài Đức viết: "Gỗ thì có gỗ sao (...) đóng thuyền làm nhà là gỗ tốt nhất. Nhà nước có lệnh cấm dân gian không được dùng riêng (...) Thế Tổ Cao hoàng đế [Gia Long] năm Canh Tý thứ ba mùa thu tháng 7 [8/1780] sai các quân chặt lấy gỗ cây để đóng thuyền quân. Ở miền Quang Hóa [Tây Ninh] có cây sao già cỗi, ban đêm trên ngọn cây, thường thấy lửa sáng như hình hai ngọn đèn. Người dân miền núi kinh sợ phải lánh xa, cho nên nó cao lớn không cây nào bằng (...) không dám động đến (...) Đỗ Thanh Nhân truyền lệnh tiễn đốc bắt phải chặt lấy được, người nào sợ tránh thì lấy quân pháp trị ngay (...) Từ đấy gỗ lạt rất nhiều, Thanh Nhân mới sáng chế làm thuyền bánh lái dài (trường đà) cho thuỷ quân để đi biển cho yên ổn (để cả bánh lái tròn để đi sông) gọi là thuyền hai bánh lái, trên lầu gác sàn để chiến đấu, hai bên treo phên tre để cho thuỷ binh, bên dưới cho họ chuyên sức bơi chèo, trên sàn thì bầy bộ binh để xông trận đánh giặc. Do đấy cái sở trường về thuỷ sư lại càng thêm giỏi, đến nay [khoảng 1816] vẫn theo như thế"[8]. Những thuyền chiến có hai bánh lái để đi biển và đi sông này, do Đỗ Thanh Nhơn tạo ra, được Montyon mô tả như sau: "Về việc đóng thuyền, nước này [Việt Nam] có một kỹ thuật đặc biệt: những tấm ván làm thuyền được buộc chặt với nhau bằng dây mây, thay đinh, lối ráp này khiến thuyền uyển chuyển hơn, đặc biệt chống lại sóng biển. Những thuyền lớn, ngoài tay lái thường, còn một tay lái phòng hờ có hình thể đặc biệt. Tay lái thường, ngắn, được gắn gần như thẳng góc; tay lái khác thường dài hơn, được gắn gần như nằm ngang: khi gió to, người ta dùng tay lái khác thường, khiến tàu đi nhanh hơn. Khi biển động, dùng cả hai tay lái."'[9] Năm 1786, Nguyễn Ánh lập đội Trường Đà, sự lợi hại của các chiến thuyền này đã khiến Quang Trung tưởng trường đà là thuyền Tây dương, nên ông có nhắc đến trong bài Hịch và từ điển Hàn Lâm Viện Pháp 1798, cũng có chữ ballon, ghi nghiã như sau: "Ballon còn là loại tầu có nhiều chèo, để đi sông và đi biển ở Xiêm" (Ballon est aussi une sorte de vaisseau à plusieus rames, dont on se sert pour aller sur les fleuves et les mers du pays de Siam"). Trong bản dịch Hịch Quang Trung ra tiếng Pháp người dịch đã dùng chữ ballon này (xem chương 8, Hịch vua Quang Trung). Sau đó, trong 12 năm (1781-1793), Nguyễn Ánh tiếp tục mở mang thuỷ quân, với những mốc đáng chú ý: Tháng 5-6/1781, duyệt binh, 3 vạn quân, 80 thuyền đi biển, 3 thuyền chiến lớn và 2 tầu Tây. Tháng 9-10/1782, sai Võ Di Nguy, Trương Phước Dĩnh sửa đóng chiến thuyền. Ngày 9/4/1785, Nguyễn Ánh chạy sang Xiêm với 30 quần thần, 200 quân và 5 chiến thuyền: Phượng Phi, Bằng Phi, Hùng Trì, Chính Nghi, Thuyền Ô[10]. Vậy hai tầu nổi tiếng Phượng Phi và Bằng Phi, thường được gọi là tầu đồng, nhiều chỗ chép là tầu Tây, Nguyễn Ánh đã có từ năm 1781. Trong thời gian tạm trú ở Xiêm, Nguyễn Ánh không ngừng việc đóng tầu: 1785, sai Hoàng Tiến Cảnh, Trương Phước Dĩnh đến đảo Giang Khảm đóng thuyền chiến. 1786, sai Hồ Văn Lân đóng chiến thuyền ở đảo Trà Chiêm, sai Nguyễn Văn Nhàn và Trương Phước Luật đến Giang Khảm đóng chiến thuyền, phái Trương Phước Luật trông coi đội trường đà, sai Mai Tiến Vạn và Hoàng Tiến Cảnh đóng 10 thuyền hiệu ở Giang Khảm[11]. Tháng 8/1787, Nguyễn Ánh bỏ Xiêm về Gia Định, tháng 9/1788, chiếm lại Gia Định, vẫn tiếp tục đóng tầu: Tháng 8/1789, đóng hơn 40 chiến thuyền lớn, 100 thuyền đi biển, và tháng 12/1789 sai Võ Di Nguy đóng một chiếc thuyền lớn và 15 chiếc thuyền đi biển[12]. Tháng giêng 1791, Nguyễn Ánh lập xưởng Thuỷ sư, dài trên ba dặm [khoảng 1km700] từ bờ sông Tân Bình [Bến Nghé] đến bờ sông Bình Trị [Thị Nghè]. Thuyền biển, thuyền chiến, thuyền ô (sơn đen), thuyền son (sơn đỏ), thuyền lê (đầu đuôi chạm vẽ) đều đậu ở đó. Tháng 5/1791, đóng hơn 100 chiến thuyền. Tháng 2/1792, đóng năm hiệu thuyền Hoàng Long, Xích Nhạn, Thanh Tước, Bạch Yến và Huyền Hạc[13]. Thư của giáo sĩ Liot gửi từ Tân Triều (Đồng Nai) về Paris ngày 18/7/1792, (mấy ngày trước khi Nguyễn Ánh xuất quân đánh trận Thị Nại 1792): "Vua vừa làm xong 15 tầu chiến, mũi, đuôi và giàn cột buồm giống tầu Trung Hoa, tất cả phần còn lại làm theo lối Tây, sắp đi đánh Tây Sơn[14]. Tháng 2-3/1793, lại đóng thêm các tầu đại hiệu: Long Ngự, Long Thượng, Long Hưng, Long Phi, Bằng Phi, Phượng Phi, Hồng Phi, Loan Phi, Ưng Phi. (Chắc chỉ sửa lại Phượng Phi và Bằng Phi, vì hai tầu này đã có từ năm 1785, và tầu Long Phi đã dự trận Thị Nại 1792 )[15]. Nhìn qua những mốc trên đây, ta thấy: năm 1791, lập xưởng đóng tầu. 1792, Nguyễn Ánh đóng tầu "theo lối Tây phương". Hai tầu Phượng Phi và Bằng Phi (tầu chiến bọc đồng theo kiểu Tây phương), Nguyễn Ánh có từ năm 1785, do người Việt điều khiển. Tầu Phượng Phi năm 1790 sẽ giao cho Trần Văn Học và Nguyễn Văn Chấn (Vannier) cai quản[16]. Trong trận Thị Nại 1792, Long Phi và Phượng Phi sẽ được các tướng Nguyễn Văn Thành và Nguyễn Văn Trương sử dụng. Mặc dù thuỷ thủ Pháp đến Nam Hà từ 1790, nhưng phải đến tháng 3/1800, tức là 10 năm sau, mới có ba người Chaigneau, Vannier, và de Forçant được chỉ định lái ba chiếc thuyền đồng Long Phi, Phượng Phi và Bằng Phi[17]. Riêng Dayot được điều khiển hai thuyền buôn Đồng Nai và Prince de Cochinchine. Điều này chứng tỏ vai trò của người Pháp trong thủy binh Nam Hà rất giới hạn. Đảm lược, biết dùng người, Nguyễn Ánh đã đặt người Âu vào những chỗ thích hợp: ông sai Dayot, Barisy, Gibsons, Januario, Puymanel... đi ngoại quốc mua bán vì họ nói được tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Bồ, dễ giao thiệp hơn người Việt. Trừ Puymanel biết về pháo binh, được xung vào đội Thần Sách, còn những người khác, không có phận sự tác chiến. Trong trận Thị Nại 1801, Nguyễn Ánh sai Chaigneau, Vannier, de Forçant, quản ba tầu chiến bọc đồng Long Phi, Phượng Phi và Bằng Phi đi hộ giá, là để thị uy, phô trương lực lượng, chứng tỏ ông có người Pháp đi hầu, còn việc đóng tầu, đánh nhau, không phải là việc của họ. Nhìn qua số lượng tầu thuyền tây, ta mà Nguyễn Ánh mua hoặc làm lấy, mới thấy 2 thuyền Đồng Nai và Prince de Cochinchine mà Dayot được điều khiển, thực là khiêm nhượng. Và việc tâng bốc, thượng thăng ông Khâm sai Cai đội Dayot lên làm Chỉ huy trưởng hải quân Nam Hà thực ấu trĩ.
II. Chức vụ và trách nhiệm của Jean-Marie Dayot
Tóm tắt tiểu sửDayot quê ở Redon (Bretagne), hai anh em Jean-Marie và Félix đến giúp Nguyễn Ánh khoảng 1789. Jean-Marie Dayot tới trước, được nhận văn bằng Khâm sai Cai đội và giữ vai chính. Félix Dayot đến sau, trợ giúp anh, không có chức tước rõ ràng, và không được ghi nhận trong các giấy tờ chính thức. Theo Taboulet, Jean-Marie Dayot sinh ngày 21/3/1759[18]. Theo Faure, Dayot là cháu của Charpentier de Cossigny, cựu toàn quyền Pháp ở Ấn Độ. Dayot trực thuộc vào trụ sở thuộc địa địa phương ở Ấn Độ, với tư cách trợ tá đại úy hải quân, làm việc trên các thương thuyền, bị cướp ở Vizaudrut (giữa Goa và Bombay) bị đánh đập, trốn thoát, nhưng bị mất tầu.[19] Maybon tìm thêm được một số chi tiết khác: "gia đình Dayot sang lập nghiệp tại Ile de France, có nhiều người làm việc cho công ty Pháp-Ấn. Dayot có họ với Charpentier de Cossigny, cũng sinh ở Ile de France, tư lệnh Pondichéry từ 1785 đến 1787. Năm 1786, JM Dayot điều khiển chiếc thuyền nhỏ hai cột buồm (polacre) Adélaide, trang bị ở Ile de France để đi Pointe-de-Galles [Sri Lanka-Tích Lan] và Mascate [Oman] mua lưu huỳnh và gia vị; nhưng gặp cướp người Mahrattes [Trung Ấn]. Chủ tầu khiếu nại nhiều lần không có kết quả, Dayot bèn về Pondychéry cầu cứu tướng Conway hiện đang làm tư lệnh quân Pháp ở Ấn Độ, nhờ ông can thiệp với nhiếp chính vương Mahratte để được bồi thường"[20]. Sau đó, Maybon chép lời Sainte-Croix, cho rằng Dayot đã lái một trong hai chiếc tầu hộ tống giám mục Bá Đa Lộc cùng Hoàng tử Cảnh trở về Nam Hà tháng 7/1789. Điều này, như ta đã biết hoàn toàn sai, vì vị giám mục về với độc một chiếc tầu. (Xem chương 14, Maybon). Cosserat[21] cho biết, ông không tìm thấy tài liệu nào chứng nhận đích xác ngày JM Dayot đến Nam Hà, nhưng ông lại xác định JM Dayot đã có mặt ở Nam Hà từ năm 1788, bởi vì ông dựa vào lời thuật sau đây của Faure: Tầu Dryade, khi đến Cavite (Phi Luật Tân) cuối năm 1788, đã để lại đây ba giáo sĩ Le Labousse, Pocard và Lavoué, theo Bá Đa Lộc từ Paris về và 7 pháo binh đào ngũ. Hình như những pháo binh này "sẽ tới tăng cường cho đội ngũ của tầu tư Saint-Esprit do Jean-Marie Dayot, đại uý hải quân, một tay đào ngũ khác của hạm đội ta, cai quản". Tiếp đó Faure lại nói phóng lên rằng J.M Dayot đã được Bá Đa Lộc "trao cho nhiệm vụ thành lập và chỉ huy hải quân của Gia Long", và Dayot sang Phi mua bán khí giới cho Gia Long theo lệnh của Bá Đa Lộc[22]. Những điều Faure viết đều biạ đặt cả: tầu Dryade đậu ở Cavite từ 7/10/1788 đến 29/11/1788, tức là trong lúc Bá Đa Lộc còn đang ở Pondichéry, chưa về tới Gia Định, làm sao ông đã có thể phát sẵn chức tước như thế? Ngoài ra, ta đã biết, Bá Đa Lộc chẳng mộ lính, cũng chẳng mua khí giới gì cho Nguyễn Ánh, ông cũng không có quyền hành gì về chính trị lẫn quân sự. Vậy ta chỉ có thể đoán rằng JM Dayot đã đến Nam Hà vào khoảng 1789, trước Félix Dayot, vì theo thư Vannier viết ngày 2/8/1821, thì Félix đến Nam Hà cùng với Vannier năm 1789; và theo Faure, thì Jean-Marie đến trước rồi mới gọi em sang sau. Ngày chính thức đầu quân, là ngày nhận văn bằng Khâm sai Cai đội, tức là 27/6/1790. Được tin Quang Trung sẽ đánh miền Nam qua Lào, ngày 16/6/1792, Le Labousse viết thư về Hội thừa sai Paris, tóm tắt tình hình, có câu: "Tất cả những người Pháp ở đây giúp vua được hơn hai năm, đều trở về Macao. Trong đó có hai anh em Dayot, quê Rhedon, và ông Vannier quê ở Auray"[23]. Tuy nhiên, anh em Dayot sẽ ở lại đến 1795 và Vannier, sẽ ở lại đến đầu đời Minh Mạng. Năm 1795, vì phạm tội làm đắm tầu, Dayot trốn sang Phi Luật Tân, tiếp tục buôn bán, và chết đuối năm 1809 ở gần Vũng Tầu. Félix Dayot mất năm 1821. Thư Vannier, từ Huế gửi M. Baroudel, quản thủ Hội thừa sai Macao, ngày 2/8/1821, có câu: "Tôi rất đau đớn về cái chết của Félix Dayot cùng quê với tôi và đi cùng với tôi sang nước Nam năm 1789" [24].
Văn bằng Khâm sai Cai độiBản chứng nhận Dayot xung vào quân đội Nguyễn Ánh là văn bằng sau đây: Văn bằng do vua Nam Hà cấp cho M. Dagot [Dayot] "Hoàng thượng xét sự trung thành và nhiệt tâm trong công việc của Jean-Marie Dagot, quốc tịch Pháp, người đặc biệt chú ý đến thiện chí mà y đã chứng tỏ khi đến từ rất xa để phục vụ trong ngành thủy binh của người, Hoàng thượng xét thấy y xứng đáng được chọn, và với văn bằng này, cấp cho y chức Khâm sai Cai đội quản chiếu tầu nhị chích Trí lược hầu, quản chiếu hai tầu Đồng Nai và Le prince de Cochinchine. Hoàng thượng hy vọng khi thời cơ đến, Jean-Marie Dagot, sẽ kịp thời chứng tỏ lòng can đảm và trí thông minh để điều khiển các tầu được giao phó, và nghiêm khắc áp dụng quân lệnh, y sẽ xứng đáng được tin cậy. Nếu vì lỗi, không làm tròn nhiệm vụ quan trọng này, thì y sẽ bị nghiêm trị theo luật pháp. Ngày 15, tuần trăng thứ 5, Cảnh Hưng thứ 51, tại Sài Gòn" [ngày 27/6/1790][25]. Cùng ngày này, có bốn người nữa ở dưới quyền Dayot được cấp văn bằng Cai đội và phó Cai đội, là: Vannier, Cai đội chấn thanh hầu, quản tầu Đồng Nai, Isle-Sellé, Cai đội long hưng hầu, quản tầu Le Prince de la Cochinchine, Guillon, Phó Cai đội oai dõng hầu và Guilloux, Phó Cai đội nhuệ tài hầu. Dayot được vua giao chức vụ Khâm sai Cai đội quản chiếu tầu nhị chích trí lược hầu với trách nhiệm quản chiếu hai tầu Đồng Nai và Le Prince de la Cochinchine, mỗi tầu có một phụ tá Cai đội và phó Cai đội người Pháp ở dưới quyền. Theo chỉ dụ sai phái cấp cho Dayot cùng ngày nhậm chức, thì hai tầu này là hai tầu buôn, có thể đi xa, tới Ma Cao, Phi Luật Tân, vv...
Nhiệm vụ mua bán của DayotNhiệm vụ đầu tiên Dayot nhận được, là chỉ dụ sai phái, ký cùng ngày 27/6/1790 với văn bằng Khâm sai Cai đội. Chỉ dụ sai phái này cho thấy nhiệm vụ của Dayot và sự giao dịch của Nguyễn Ánh với các nước lân cận năm 1790: bán gạo để mua khí giới và tầu chiến; đồng thời cho thấy sự nghiêm ngặt trong chi tiêu, ngân quỹ của vua. Để tránh sự thâm lạm (dưới thời Gia Long và cả thời Minh Mạng cũng vậy, vua mua gì cũng ghi vào sổ), chỉ dụ ghi rõ từng món hàng, giá cả, rất chi li. Vì vậy, sự thâm lạm ngân quỹ của Dayot trong chuyến đi lần thứ nhì, sẽ là một lỗi nặng, và những người Pháp như Dayot, Chaigneau, Vannier thường chỉ trích sự "hà tiện" của các vua. Lệnh sai phái này khá quan trọng và hơi dài, chúng tôi xin tóm tắt, như sau: "Lệnh cho ngươi Jean-Marie Dagot [Dayot], Khâm sai Cai đội quản chiếu tầu nhị chích trí lược hầu, quản chiếu hai tầu Đồng Nai và Le prince de Cochinchine và lệnh cho quan Trung (mandarin Trung) làm trọn vẹn những điều khoản sau đây: 1- Chở 3.900 tạ[26]gạo sang Macao bán. 2- Dùng tiền thu được trả lương còn thiếu cho thủy thủ đoàn của hai tầu ... 3- Hàng tháng, dành 300 đồng, để chi cho việc ăn uống trên hai tầu. 4- Làm mọi cách để đòi ở Macao tiền 5.000 cây cau, mỗi cây 3 đồng, mà Antoine Vincent de Rosa, còn nợ vua, cộng thêm nợ cũ của y còn đọng lại 6.208 đồng; và tiền 1.908 tạ cau, giá 3 đồng một tạ, mà Antoine Milner ở Macao còn nợ vua; những số tiền này tổng cộng là 26.933 đồng (piastres) và 4 condorins [?]. Với tất cả tiền thu được [tiền bán gạo và tiền nợ] Jean-Marie Dagot lấy ra 3.848 đồng thiếu một quan, để trả lương cho thủy thủ đoàn như đã nói trên, chỗ còn lại đưa cho quan Trung giữ. Sau đó các ngươi sẽ đi Manille, và sau khi xin phép quan toàn quyền ở đấy, sẽ sửa chữa hai tầu, rồi sắm sửa buồm, dây và những thuyền cụ khác. Mua 500 tạ lưu huỳnh và làm một chuyến tải gạo đem về Macao bán. Với số tiền còn lại, và nếu giữ gìn sổ sách đúng đắn, các ngươi sẽ mua được 1.000 cái cuốc sắt, 500 cuốc đinh (pic de clou) đủ loại lớn nhỏ, mua những súng trường tốt và những đại bác đạn 12 livres[27]hay lớn hơn. Các ngươi phải rời Macao và về đến đây vào khoảng giữa tháng giêng năm tới [2/1791] là chậm nhất. Nếu các ngươi thấy một chiếc tầu lớn, trang bị đầy đủ những thứ cần thiết, và có thể chở tới 40 ngàn canjus [?] thì các ngươi có thể trả tới giá 40.000 đồng, với điều kiện sẽ trả làm ba lần: 1- 10.000 đồng, tiền mặt. 2- 5.000 tạ gạo, khi Khâm sai Cai đội Dagot trở về đây. 3- Chỗ còn lại đến tháng 6 sang năm sẽ trả hết. Các ngươi phải cẩn thận thi hành đúng những điều khoản trên đây, nếu vì bất cẩn hay vì lỗi, mà không hoàn thành nhiệm vụ thì sẽ coi như phạm tội nặng". Sài Gòn ngày thứ 15, tuần trăng thư 5, năm thư 51, đời Cảnh Hưng [27/6/1790][28] Trên đây chỉ là chỉ dụ vua cấp cho Dayot, một trong những người được sai đi mua bán, còn có những chỉ dụ khác cho Barisy, Januario Phượng, Gibsons... đi bán gạo, cau... để mua khí giới ở những vùng khác như Mã Lai, Indonésia, Ấn Độ, vv... và có thư từ của nhà vua viết cho vua Anh, vua Đan Mạch, vv... với cùng mục đích. Như vậy, chúng ta thấy địa bàn hoạt động để mua khí giới và tầu chiến của Nguyễn Ánh rất rộng; về phía Tây Sơn, tuy không có tài liệu, nhưng chắc cũng không kém, vì qua thư từ, các giáo sĩ cho biết Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ và Quang Toản cũng tiếp xúc rộng rãi với người Âu.
Nguyễn Vương gửi gấm Dayot với toàn quyền PhiNăm ngày trước khi JM Dayot nhận chức Khâm sai Cai đội quản hai tầu Đồng Nai và Le Prince de Cochinchine và chỉ dụ sai phái đi ngoại quốc mua hàng, ngày 22/6/1790, vua đã viết một thư cho toàn quyền Phi Luật Tân, gửi gấm Dayot và quan Trung (mandarin Trung), sau đây là đoạn chính: "... Quả nhân vẫn luôn luôn có ý muốn giao dịch với các hạ. Hôm nay, vì có việc, quả nhân phải gửi hai tầu đến Macao và Quảng Đông, và sai bọn JM. Dagot, người Pháp, Khâm sai Cai đội, quản hai tầu và quan Trung đi cùng; sau khi xong nhiệm vụ ở hai nơi nói trên, họ sẽ đến Manille để mua lưu huỳnh và sửa chữa hai tầu này. Trong trường hợp hai phái viên này cần đến sự giúp đỡ của các hạ để hoàn tất nhiệm vụ, quả nhân xin mạn phép yêu cầu các hạ đoái hoài đến họ, nếu họ có thiếu thốn tiền bạc gì, xin các hạ vui lòng ứng ra cho, như đối với chính quả nhân vậy. Nếu sau có dịp thừa nhận những sự giúp đỡ này, xin các hạ yên tâm rằng quả nhân sẽ hết sức sốt sắng... Ngày thứ 14, tuần trang thứ 5, năm Cảnh hưng thứ 51" [22/6/1790] Dayot đã làm xong nhiệm vụ đầu tiên này, nên một năm sau, trong thư cám ơn toàn quyền Phi, chính phủ Nam Hà viết: "Năm ngoái, hoàng thượng đã gửi tới Manille Jean-Marie Dagot [Dayot], người Pháp, với tầu của người để mua vật liệu chiến tranh và sửa chữa phần chìm của vỏ tầu. Hoàng thượng đã viết thư cho quan toàn quyền Phi Luật Tân nhờ che chở và giúp đỡ. Hoàng thượng hết sức hài lòng khi biết quan toàn quyền đã hết sức chú ý đến sự thỉnh cầu của người và đã cấp cho phái viên tất cả những phương tiện để thành công trong nhiệm vụ. Hoàng thượng xin gửi tới quan toàn quyền sự biết ơn sâu xa và không bao giờ người quên sự giúp đỡ này...." Cảnh Hưng năm 52, ngày 1, tuần trăng thứ 6 [1/7/1791][29] Nhưng chỉ có chuyến đi đầu là kết quả tốt, đến chuyến đi thứ nhì, Dayot đã phạm lỗi thâm lạm ngân quỹ. Vì thế, năm 1792, vua chuyển Dayot sang công tác vận tải lương thực, và chính nhờ việc tải lương theo dọc bờ biển Nam Hà mà Dayot đã vẽ được tập bản đồ bờ biển miền Nam.
Nhiệm vụ tải lương, vẽ bản đồ bờ biển miền NamKhoảng tháng 6/1792, thấy sự thâm lạm ngân quỹ của Dayot sau chuyến đi mua hàng thứ nhì, Nguyễn Vương nổi giận, đuổi tất cả lính Pháp, nhưng sau ông hồi tâm. Dayot chỉ bị chuyển sang ngành vận tải quân lương. Tuy vậy, cũng không phải là một hình phạt, nhờ sự biệt đãi của nhà vua mà Dayot vẽ được bản đồ bờ biển miền Nam. Tháng 2/1792, Nguyễn Vương hoạch định chiến dịch tấn công theo gió mùa: thuận gió đánh ra Trung, ngược gió quay về Gia Định. Tháng 6/1792, khám phá ra vụ thâm lạm ngân quỹ, Dayot bị chuyển sang đội tải lương. Trong bài ký sự dưới đây, được đặt tên là "Jean-Marie Dayot lợi dụng chiến tranh gió mùa để làm thủy đạo đồ bờ bể nước Nam (1791-1795)", Jean-Marie Dayot thuật lại chuyện anh ta đã lợi dụng nhiệm vụ này để vẽ bản đồ thủy đạo miền Nam như thế nào: ..."Lần đầu tiên đi khắp nơi với quân đội của Vua Nam Hà, từ Vũng Tầu đến Qui Nhơn, tôi đã ngạc nhiên vì con số vịnh, những chỗ trú, những chỗ tầu đậu mà chúng tôi thấy trên mỗi bước đường, ở vùng bờ biển vẫn được trình bầy trên bản đồ như nhiều chỗ đầy đá ngầm. Dù trong chiến dịch này, tôi chưa có dịp trông thấy phần lớn những bến cảng đẹp, tôi đã thoáng nẩy ý định sẽ tu chỉnh lại vùng này, bằng những bản đồ đúng hơn tất cả những bức mà tôi đã có từ trước tới giờ... Tôi bèn tâu với vua, vì biết ông là người rất thích những gì có tính cách khám phá, khoa học, và tôi đã không lầm; ông hết lòng với việc này và đã cho tôi tất cả những trợ giúp cần thiết mà tôi đã hoài công tìm ở những nơi khác... ... Làm việc trong hải quân của nhà vua và cai quản các tầu Tây phương, lực lượng chính của quân đội ông, tôi bắt buộc phải đi theo quân mỗi khi có chiến dịch, thường kéo dài từ tháng 5 đến tháng 10. Trong 5 năm liên tục, tôi chạy dọc theo bờ biển, từ Bắc xuống Nam và từ Nam lên Bắc cùng quân đội. Nhiệm vụ tải lương, cho một số lượng tầu bè nhiều đến thế, đi với quân đội và tuỳ tùng, và cho cả bộ binh, thường tiến dọc theo bờ biển, bắt buộc chúng tôi phải đỗ lại mỗi buổi chiều, để tập hợp một đoàn thuyền tầu, thường tới hơn nghìn cánh buồm. Nhiều khi chúng tôi cũng bị bắt buộc phải ở lại một nơi nhiều ngày để đợi bộ binh và phân phát thực phẩm cho họ. Khi ở trên đất địch, thì phải tiến chậm hơn và trong thời gian tầu thả neo, chúng tôi đo đạc kích thước và dò chiều sâu của bể. Nhà vua cho tôi hai thuyền chèo và hai thuyền buồm, chuyên làm việc ấy, luôn luôn đi theo tầu do tôi điều khiển. Tôi được những sĩ quan có học và chăm chỉ giúp đỡ, hết lòng vào việc ấy, đến nỗi không có một điểm nào là không được đo đạc ghi chép bằng năm, sáu vị trí khác nhau... Khi mùa gió bắt buộc chúng tôi phải quay lại Sài Gòn, nhà vua thường để cho tôi tự do sử dụng những chiếc tầu dưới quyền điều khiển của tôi, để đến các bến khác nhau và ở lại bao nhiêu ngày cũng được tuỳ tôi định, theo công việc đo đạc bản đồ... khiến tôi có thể bảo đảm rằng có rất ít bến tầu được đo đạc kỹ càng và chính xác như những bến thấy trên bản đồ trong sưu tập bản đồ của tôi. Mặc dù cẩn thận như vậy, nhưng vẫn có nhiều chi tiết thoát ra hoặc không đúng, bởi vì, nhìn từ biển vào, những đối tượng này có vẻ khác với bộ mặt thật của chúng, nếu M. Olivier de Puymanel, sĩ quan đầy công trạng và tài giỏi, điều khiển đoàn quân cận vệ của nhà vua và là kỹ sư đầu tiên của nhà vua, vui lòng cho tôi biết tất cả những tư liệu và làm việc vài lần với tôi, thì chúng tôi đã cùng nhau làm bản đồ sông Sài Gòn, và nhiều chỗ khác lưu thông với Cao Miên. Anh thường đi cùng với chiến dịch trên bộ, luôn luôn dọc theo bờ biển, và anh không để lỡ cơ hội nào mà không vẽ bản đồ những chỗ anh đi qua và ghi lại những nhận xét. Về phía chúng tôi, những bản đồ mà chúng tôi làm trên các hạm đội, nhiều hơn, lại có dấu hiệu thông báo cho chúng tôi mỗi ngày, đúng 12 giờ trưa... ... Nhờ sự chăm sóc đặc biệt của những sĩ quan mà tôi có hân hạnh điều khiển, nên hôm nay tôi rất hài lòng tặng cho các thủy thủ một công trình đáng tin cậy, nhờ sự chính xác của họ, nhờ tính hiếu kỳ của họ, và bằng sự mới mẻ của họ. Tôi không dám nhiều lời về tất cả số lượng đo đạc khổng lồ đã được kỹ lưỡng vẽ lại trên giấy. Đó là một phần công việc của tôi và Félix Dayot, em tôi, nhưng những bản đồ (cartes) và những đồ thị (plans) được vẽ rõ ra từ đám mây mù, chính nhờ cây bút chì của Félix..."[30] Chỉ được quản hai tầu Đồng Nai và Cochinchine, mà Dayot viết thành cai quản các tầu Tây phương, lực lượng chính của quân đội Gia Long. Chuyện Olivier điều khiển đoàn quân cận vệ và là kỹ sư đầu tiên của vua, là biạ rồi: Olivier ở trong đội quân Thần Sách. Nhưng điều quan trọng ở đây là Dayot cho biết: được Nguyễn Vương tin cậy, cho sử dụng hai tầu này để đi lại, vẽ bản đồ bờ biển cho ông. Nhưng lại một lần nữa Dayot phản bội Gia Long: Dayot trao toàn bộ bàn đồ này cho Sainte-Croix đem về Pháp, kèm theo lá thư viết cho Ste-Croix (sẽ trích dưới đây) nói rõ chủ đích của anh ta. Những ai cho rằng Dayot có công vẽ bản đồ bờ biển miền Nam cho vua Gia Long sử dụng, là hoàn toàn sai lầm.
Công của Dayot với nước PhápCông trạng này được Maybon ghi nhận qua những hàng sau đây: "Trong những chuyến đi đi về về, dọc theo bờ biển nước Nam, không chỉ "đi theo quân" mà còn đi tải lương nữa, anh em Dayot đã làm một công việc đáng vinh danh là vẽ thuỷ đạo đồ bờ biển và những hải cảng. Chính Renouard de Sainte-Croix đã đem về Pháp tập hồi ức và bản đồ của Dayot. Trong thư Dayot viết cho Ste-Croix từ Macao ngày 15/11/1807, có lẽ ít ngày sau khi Ste-Croix rời Macao, có những dòng hơi lạ này: "Chút tài mọn không cho phép tôi mơ ước chức hội viên thông tin của một cơ quan bác học [chỉ Viện Lưu Trữ] như thế, nhưng tôi sẽ rất mừng nếu công trình của tôi được chấp nhận. Tôi sẽ gửi tiếp những nhận xét bổ ích về cái xứ, có thể nói là vô danh này, để chiếu thêm chút ánh sáng, sẽ thú vị hơn. Anh de Sainte-Croix thân, tôi tin trước những quan tâm tế nhị và sốt sắng của anh. Tôi giao cho anh kết quả công việc sáu năm cam go của tôi, tất cả những gì anh sẽ làm, đối với tôi sẽ là tốt đẹp, và nếu có trở ngại gì với việc anh vì tình bạn giúp tôi và lòng mong muốn của tôi phục vụ tổ quốc [Pháp], thì cũng không giảm bớt được lòng biết ơn suốt đời của tôi đối với anh"[31]. Sainte-Croix đã đệ công trình mà Dayot giao phó. Năm 1820, chính phủ quyết định dành cho Dayot một câu lạc bộ thiên văn; nhưng sự tưởng thưởng đến quá muộn, Dayot đã mất từ năm 1809. Ông cũng không nhìn thấy những bản đồ của ông được Viện lưu trữ hải quân phát hành năm 1818, và cũng không biết lời khen ngợi hết mình của Abel Rémusat: "... chúng ta biết có nhiều người nước ta đã giữ những chức vụ quan trọng trong triều nước Xiêm và nước Việt, và nhờ vào một trong những người đó, ông Dayot, nay đã qua đời, mà chúng ta có tập địa đồ (Atlas) cực kỳ quý giá về nước Nam, được vua [Louis XVIII] sai khắc năm 1818, đó là một trong những công trình bất hủ của khoa học địa lý về cái xứ rất xa Âu Châu này... Từ khi các bản đồ của ông Dayot được in ra, chúng ta biết rõ bờ biển nước Nam có lẽ còn rõ hơn cả một số bờ biển Âu Châu" [32]. Năm 1817, vua Louis XVIII sai Kergariou sang biển Đông, với bản đồ của Dayot (xem chương 26: Các sứ bộ Anh Pháp đến Việt Nam). Trong thư ngày 28/3/1818 gửi bộ trưởng Hải quân, Kergariou viết: "Tôi đã đi khắp các cửa biển của nước Nam và trong hải trình chông gai này, tôi đã có dịp kiểm chứng, đảo lộn hầu như tất cả công trình của Ông Dayot. Chẳng có lời nào đủ để khâm phục sự chính xác mà đất đai được chiếu lại trên các bản đồ này"[33]. Sau này, liên quân Pháp Tây Ban Nha cũng dùng bản đồ này để đánh chiếm nước ta dưới thời vua Tự Đức.
Bộ bản đồ của Dayot gồm có: Số 1: Bản đồ đại cương bờ biển Việt Nam và Cao Miên từ vĩ độ 8° đến 17°. Số 2: Bản đồ sông Sài Gòn. Số 3: Thành phố Sài Gòn. Số 4: Phần bờ biển Nam Hà từ Vũng Tầu đến Đèo Cả giả [le faux Cap Varelle, cách Đèo Cả 70 dặm về phía nam]. Số 5: Phần bờ biển Nam Hà kể từ Đèo Cả giả [le faux Cap Varelle]. Số 6: Vịnh và cảng Cam Ranh. Số 7: Vịnh Nha Trang. Số 8: Bờ biển Nam Hà từ đảo Shala [?] tới Đèo Cả. Số 9: Hải cảng Xuân Đài [Quan-Dai], Vũng Lấm [Vung Lam] và Vũng Chào [Vung Chao]. Số 10: Hải cảng Cù Mông và Qui Nhơn. Số 11: Hải cảng Đà Nẵng, rút ở tác phẩm của lord Macartney. Số 12: Một phần sông Sài Gòn, từ tỉnh Sài Gòn ra tới cửa biển, của phó đô đốc de Rosily, và bản đồ cảng Cần Giờ [Candiu] (bản in). Số 13: Một phần biển Đông vẽ theo nhận xét của phó đô đốc de Rosily, 1798 (bản in). Số 14: Vịnh Manillle và vùng chung quanh, theo nhận xét của de Rosily, 1798 (bản in)[34].
Tạ Chí Đại Trường tô điểm công trạng DayotTạ Chí Đại Trường đã ca tụng công trạng vẽ bản đồ của Dayot như sau: "JM Dayot phục vụ Nguyễn Ánh trong những năm 1790-1795 đã nhân dịp điều khiển các tầu Tây trong chuyến xuất quân vào khoảng tháng 5 đến tháng 10 dl [Dương Lịch] để mà lập cả một chương trình vẽ các hải cảng, đi dò đáy nông sâu. Chính đội này dắt theo sau cả hàng ngàn thuyền mang lương thực cho binh lính -cả lính bộ- có khi phải ghé lại một bến đến vài ngày để chờ bộ binh tới lãnh lương" [35]. Câu này ông Tạ rút từ bài ký sự của Dayot, mà chúng tôi đã dịch ở trên, tuy nhiên, ông Tạ vẫn hiểu sai tiếng Pháp. Xin nhắc lại lời Dayot: "Làm việc trong hải quân của nhà vua và cai quản các tầu Tây phương, lực lượng chính của quân đội ông, tôi bắt buộc phải đi theo quân mỗi khi có chiến dịch, thường kéo dài từ tháng 5 đến tháng 10. Trong 5 năm liên tục, tôi chạy dọc theo bờ biển, từ Bắc xuống Nam và từ Nam lên Bắc cùng quân đội. Nhiệm vụ tải lương, cho một số lượng tầu bè nhiều đến thế, đi với quân đội và tuỳ tùng, và cho cả bộ binh, thường tiến dọc theo bờ biển, bắt buộc chúng tôi phải đỗ lại mỗi buổi chiều, để tập hợp một đoàn thuyền tầu, thường tới hơn nghìn cánh buồm. Nhiều khi chúng tôi cũng bị bắt buộc phải ở lại một nơi nhiều ngày để đợi bộ binh và phân phát thực phẩm cho họ". Viết những dòng này, Dayot đã thổi phồng nhiệm vụ của mình khi nói rằng: "[tôi] cai quản các tầu Tây phương, lực lượng chính của quân đội ông", thực ra, anh ta chỉ được cai quản có hai chiếc tầu Đồng Nai và Le Prince de Cochinchine mà thôi; và không có gì xác nhận hai tầu này là tầu Tây. Câu kế tiếp, Dayot nói về công việc đi theo chiến dịch: phải phát lương thực cho một số lượng tầu bè rất lớn, có khi tới hơn nghìn cánh buồm, rồi nhiều khi còn phải đỗ lại vài ngày đợi bộ binh, để phát thực phẩm cho họ nữa. Nhưng Tạ Chí Đại Trường lại hiểu sai, nên ông viết: "Chính đội này dắt theo sau cả hàng ngàn thuyền mang lương thực cho binh lính". Khổ quá! Dayot đâu có nói thế: y làm gì mà được cai quản hàng ngàn chiếc thuyền! Mà ai lại chở lương trên cả ngàn chiếc thuyền như thế! Vậy thuỷ binh của Nguyễn Ánh phải có tới cả vạn thuyền à? Ông Tạ chẳng hiểu gì cả, ông cứ thổi phồng trách nhiệm của Dayot lên cho hợp với điều các ngòi bút thực dân phóng ra!
III. Tội của Dayot
Tất cả hình ảnh các "sĩ quan" Pháp đứng đầu trong các ngành, là "kỹ sư trưởng", "chỉ huy trưởng", "xây dựng thành đài theo kiểu Vauban", "thành lập thuỷ binh", "huấn luyện quân đội"... mà các ngòi bút thuộc địa dầy công tô đậm, đôi khi chỉ cần vài dòng chân thực của một vị thừa sai, là bị quét sạch. Lời giáo sĩ Le Labousse dưới đây nói lên phần nào sự thực về hành vi và thân phận của những người lính đánh thuê.
Sự vô hạnh của những người lính đánh thuêSự vô hạnh của những lính Pháp và Bồ, khi đặt chân đến nước Việt, được Le Labousse ghi lại trong lá thư gửi M. Létondal, quản thủ tu viện Macao, ngày 28/5/1790, một tháng trước khi một số trong bọn họ được nhận chức Cai đội: "Chúng tôi rất bực mình vì mỗi ngày được nghe và thấy hàng ngàn câu chuyện nhục nhã xẩy ra vì hạnh kiểm của bọn [lính] Pháp và Bồ... Chúng tôi đã chán ngán phải rên siết vì chiến tranh tàn phá giáo dân, không cần những người Âu này đến để trùm lên chúng tôi những hỗn độn vì sự dâm ô và vô kỷ luật của họ (leur incontinence le leurs désordres). Đức Ông [Bá Đa Lộc] đã quỵ ngã vì gánh nặng này (succombe sous le faix); người đã chán ngấy bọn đồng hương này; phải có một tâm hồn cao thượng và mạnh mẽ lắm, người mới trụ nổi"[36]. Hai năm sau, giáo sĩ Lavoué gửi thư cho M. Létondal từ Lái Thiêu, ngày 16/6/1792, viết: "... nhà vua, bất mãn với những người Pháp, đã cho họ nghỉ tất cả, trong những ngày đầu tháng năm [1792]; hay chính những người Pháp bất mãn với vua, đã xin nghỉ và vua cho phép ngay lập tức"[37]. Ngày 16/4/1793, trong một thư gửi cho hai người bạn Lewet và Roland, Puymanel viết: "... tôi thề vời các anh đó, trạng thái này [xưng tội] tốt hơn hết tất cả những gì mà ta gọi là khoái lạc. Tôi cũng xấu hổ vì nhiều khi đã làm gương xấu cho các anh, và tôi muốn sữa lỗi, vì tôi tin chắc rằng sự chơi bời dẫn đến sự vô đạo"[38]. Nhờ những dòng ngắn ngủi này mà chúng ta hiểu rõ tình trạng những năm đầu, khi đám lính Pháp và Bồ đánh thuê đến Nam Hà và vai trò cũng như tình cảm của Bá Đa Lộc đối với những người này. Lời trên đây của các giáo sĩ Le Labousse, Lavoué và chính Puymanel đã: - Đặt những người lính Pháp đào ngũ, đánh thuê, trong bối cảnh thực sự của họ với những thói hư tật xấu. - Vô hiệu hoá tất cả các lập luận cho rằng giám mục Bá Đa Lộc "điều khiển quân đội" và ban các chức "Tư lệnh bộ binh" cho Puymanel, "Tư lệnh hải quân" cho JM Dayot, vv... mà ngược lại, vị giám mục đã chịu đựng sự vô hạnh của họ như nỗi bất hạnh của chính mình. Chuyện Dayot thâm lạm ngân quỹ năm 1792 chỉ là giọt nước làm tràn cái chén đã đầy.
Vụ Dayot thâm lạm ngân quỹ năm 1792Được hưởng ân sủng và sự tin cậy của Gia Long, nhưng Dayot đã không làm tròn phận sự ghi trong văn bằng Khâm sai Cai đội. Nếu chuyến đầu tiên vua sai Dayot đi Phi Luật Tân (chỉ dụ ngày 27/6/1790) thành công, khiến vua bằng lòng, tháng 7/1791, triều đình viết thư cám ơn viên toàn quyền Phi Luật Tân, như đã nói ở trên, thì chuyến đi Phi lần thứ hai, Dayot đã phạm tội thâm lạm ngân quỹ. Thư của giáo sĩ Le Labousse viết cho M. Letondal ngày 17/6/1792, có những lời sau: "Chuyến đi xui xẻo từ Macao sang Manille của Dayot và sổ sách cực kỳ thâm lạm của anh ta đã làm cho vua ghê tởm, bực quá không thèm nói gì thêm, vua sai đuổi hết không chỉ các lính thủy, mà tất cả sĩ quan, ai muốn đi thì đi, không giữ. Họ cũng không đợi vua đuổi, họ đã làm đơn xin về và được chấp thuận liền. Điều này khiến cho Đức Cha [Bá Đa Lộc] quyết định, vì từ lâu người đã rất bất mãn với vua và vv..., lại một lần nữa xin vua cho phép người được về Pháp, lấy cớ có việc nhà. Vua đã thuận cho, rồi nghĩ lại, vua đổi ý"[39]. Vụ thâm lạm ngân quỹ này trùng hợp với những khó khăn khác, do thời sự gây ra mà giám mục Bá Đa Lộc là một yếu tố trong cuộc. Từ khi đem Hoàng tử Cảnh ở Pháp trở về, vị giám mục ở trong địa vị rất khó khăn: 1- Thất bại trong sứ mệnh cầu viện Pháp. 2- Là cha đỡ đầu cho một bọn lính đào ngũ vô kỷ luật. 3- Vì dạy hoàng tử Cảnh không được lạy tổ tiên (họ gọi là lạy xác), vua nổi giận, các bà hoàng ác cảm. 4- Giám mục bất mãn vì vua không nghe lời khuyên nên đánh ra Bắc (vì Bá không hiểu tình hình). Trong hai năm, ông đã bị dày vò về vấn đề đi hay ở. Năm 1791 ông đã xin đi, rồi lại ở lại. Năm 1792 có thêm một cái họa lớn khác: Quang Trung sắp đánh miền Nam qua ngả Lào. Nếu Quang Trung thắng mà ông còn ở đó, thì họ đạo của ông sẽ bị tiêu diệt vì Quang Trung không thể tha thứ tội ông đem Hoàng tử Cảnh sang Pháp cầu viện. Mà trở về Pháp trong thời điểm hỗn loạn đẫm máu sau cách mạng 1789, giáo quyền bị tận diệt, là điều bất cẩn, có thể mất đầu, nên ông định đi lánh nạn ở nước ngoài, đợi khi chiến cuộc Nguyễn-Tây Sơn ngã ngũ, sẽ trở về đất Việt, đó là toan tính của ông. Về phiá những lính Pháp đánh thuê, sự bỏ Gia Long để đi chỗ khác, đến từ những lý do khác với Bá Đa Lộc: 1- Vì sự vô hạnh của họ nên vua nổi giận đuổi họ đi. 2- Họ chê vua trả lương ít. 3- Họ đến đây với mục đích tìm của, tìm vàng, nhưng không "tìm" thấy gì cả. 4- Sau cùng, khi nghe tin Nguyễn Huệ sắp đánh xuống miền Nam, họ không muốn chết vì một cuộc chiến không dính dáng gì đến họ. Tuy nhiên, Gia Long là một nhà chính trị lỗi lạc, ông biết trong tình trạng cấp bách này, không nên để cho địch thấy sự đổ vỡ của việc "người Âu đến giúp" mà ông vẫn dùng như một lợi khí tuyên truyền. Vì vậy, ông đã thuyết phục giám mục Ba Đa Lộc ở lại, và khi vị giám mục, người cha tinh thần của họ ở lại, thì những người lính theo đạo Gia Tô này sẽ theo. Sau đó, vua tìm cách uỷ lạo: cho Puymanel được thăng chức Vệ uý (vì đã có công trong đội ngũ pháo binh, "chế tạo các hạng hoả xa, chấn địa lôi, binh khí" cùng với Trần Văn Học)[40]. Dayot cũng được vua bỏ qua lỗi thâm lạm, tuy nhiên, sẽ không được đi mua bán ở nước ngoài nữa, mà chuyển sang ban tiếp vận quân lương. Nhờ nhiệm vụ mới này mà Dayot có phương tiện vẽ thủy đạo đồ bờ biển miền Nam. Đến năm 1795, lại xẩy ra một vụ án mới: Dayot làm đắm tầu Đồng Nai trong lúc vua đang sửa soạn xuất quân đánh Tây Sơn. Việc này lại xẩy ra trong lúc Nguyễn Vương vừa nhận được lá sớ của Trần Đại Luật.
Trần Đại Luật dâng sớ chém đầu Bá Đa LộcTrần Đại Luật là một trong những người đã theo Nguyễn Ánh sang Vọng Các từ 1785. Khi Vương chiếm lại Gia Định, được bổ chức hàn lâm chế cáo. Tuy là quan văn nhưng ông vẫn được dự các buổi luận bàn chiến lược và đã tham dự các trận đánh Diên Khánh và Quy Nhơn. Các quan lúc bấy giờ sợ ảnh hưởng quá lớn của Bá Đa Lộc trên hoàng tử Cảnh, vì Bá trông nom hoàng tử từ lúc còn thơ, sợ khi hoàng tử lên ngôi, Bá Đa Lộc sẽ trở thành một thứ Richelieu, Mazarin, hai Hồng y, Tể tướng, dưới triều Louis XIII và Louis XIV; mặc dù ngoài Bá Đa Lộc, hoàng tử còn học các thày Việt Ngô Tòng Châu, Trịnh Hoài Đức, Lê Quang Định, Ngô Nhơn Tĩnh... Thoại của Liệt Truyện: Khoảng tháng 3-4/1795, Trần Đại Luật dâng sớ nói về cái hại của đạo giáo nói chung và của đạo Gia Tô nói riêng mà Bá Đa Lộc đã đem vào, xin vua chém đầu. Việc này không phải ai cũng dám làm, bởi nếu vua không nghe thì có thể bị mất đầu như chơi, nên trước khi dâng sớ, ông đã dặn người nhà đóng áo quan đợi. Liệt Truyện viết: "Đến khi ra coi việc quân, [Trần Đại Luật] thấy người Tây là Bá Đa Lộc kiêu ngạo, dâng một sớ nói: "Cái hại về đạo Phật Lão tệ hơn đạo Dương Mạc, mà cái hại về đạo Gia Tô lại tệ hơn đạo Phật Lão, nên trị mối dị đoan, thánh nhân răn về hại ấy, giữ về tà đạo, tiên vương [chỉ Võ Vương Nguyễn Phước Khoát] bảo tất phải giết, là rất ghét về loạn chính, dối dân để họa về sau. Nay Đa Lộc mang giáo cho Thiên Chúa để lừa dân ngu, không có tình thân cha con, nghiã lớn vua tôi, lại tự cậy là bảo hộ Đông Cung có chút công lao, sinh lòng kiêu ngạo, không sợ hãi gì, nay như thế, ngày khác lại như thế nào, kẻ ấy mà không giết, sao gọi là pháp luật được. Tôi xin được thanh gươm của vua dùng chém đầu hắn treo ở cửa chợ, để tạ cả nước mà bỏ được sự mê hoặc của mọi người". Tờ sớ dâng vào vua rất khen, nhưng sợ bị hắn thù, bèn cạo bỏ tên họ [Trần Đại Luật] và cất vào hòm", rồi triệu Luật bảo mật rằng: "Ngươi có lời nói thẳng, trẫm không phải là không tin, nhưng nay đánh đông dẹp tây, về việc dùng người, rất là việc cần, kẻ dối trá và ngu cũng nên dùng, không nên tỏ cho người biết là hẹp hòi, tạm hãy để đó"[41]. Liệt Truyện không ghi rõ ngày, nhưng theo thư ngày 27/4/1795 của Lavoué gửi Létondal[42], vụ Trần Đại Luật xẩy ra vào khoảng tháng 3-4/1795. Tất cả việc này chứng tỏ sự sáng suốt và tài chính trị của Gia Long. Thư từ của các vị thừa sai sau đó, than phiền hoàng tử "không còn như xưa", tức là xa dần đạo chúa. Thực Lục, tháng 2 Ất Mão [3-4/1795] ghi: "Vua thân đem thuỷ quân cứu Diên Khánh, để Đông cung trấn giữ Gia Định, có Tả quân Phạm Văn Nhơn, Giám thành sứ Tô Văn Đoài, Lễ bộ Nguyễn Đô, Tham mưu Nguyễn Thái Nguyên, Hộ bộ Phan Thiên Phúc, Hình bộ Nguyễn Văn Nghị, trợ giúp".[43] Điều này chứng tỏ: Bá Đa Lộc không còn là một nhân vật quan trọng bên cạnh Đông cung. Đến tháng 10 Ất mão [11-12/1795], Thực Lục viết: "Tháng 10, mùa đông, sai phó tướng Tả quân Phạm Văn Nhơn phụ đạo Đông Cung. Dụ rằng: "Đông cung là ngôi trừ nhị [ngôi sẵn để làm vua], tuổi còn non trẻ, tuy công phu học vấn vốn nhờ giảng viện, nhưng nhiệm vụ giúp bảo [phụ đạo] là ở đại thần. Tướng sĩ giáp binh dinh Tả quân cho khanh vẫn quản lãnh như trước, còn việc trong môn đình của Đông cung, như quan lại, liêu thuộc, thị vệ, tôi tớ, hết thẩy mọi việc đều uỷ cho khanh. Cốt sao giúp đỡ Thái Tử, hun đúc đức tốt, chẳng những trong khi nói năng nghĩ ngợi sao cho ít lỗi, lại mong mọi việc quốc gia thảy đều biết cả."[44] Vậy vua đã nghe lời Trần Đại Luật, Bá Đa Lộc không còn giữ vai trò phụ đạo như trước nữa và Phạm Văn Nhơn trở thành người thầy chính. Thoại của giáo sĩ Lavoué: Trong thư ngày 27/4/1795 gửi Létondal, Lavoué kể lại sự việc gần giống như Liệt Truyện: "Đúng lúc này [lúc xẩy ra vụ Dayot làm đắm tầu] thì các quan dâng vua lá sớ chống Đức Cha; vua đọc và làm thinh. Đức Cha được báo tin ngay, nhưng giả vờ [không biết] trong vài ngày; sau thấy vua không đả động gì đến vụ này và còn tỏ ra đồng ý với các quan; Đức Cha mới cay đắng than thở, vua nghe mách lại, lúc đó mới gửi cho Đức Cha lá sớ". Ở cuối thư, Lavoué viết thêm: "Trong số những người buộc tội có hai đại thần, hiện đang ở tù vì tội đã hèn nhát bỏ rơi hai quan khác đang bị ngụy quân vây nguy khốn. Họ xin Đức Cha che chở và nói rằng số phận họ ở trong tay cha. Số phận họ sẽ ra sao? Chưa biết thế nào, nhà vua đã đi đánh trận mất rồi"[45]. Lavoué cũng cho chuyện vua đồng ý với sớ Trần Đại Luật, nhưng ông không biết rõ người buộc tội là ai, ông nói đến "hai đại thần, hiện đang ở tù vì tội đã hèn nhát" tức là hai ông Nguyễn Văn Thành và Nguyễn Huỳnh Đức, thấy quân Tây Sơn mạnh, không dám đánh mà rút lui, bị Nguyễn Ánh phạt tù, sẽ nói rõ ở dưới. Nhưng hai ông Thành và Đức đã ở tù rồi, thì làm sao ký sớ được, và giám mục cũng đang "khốn đốn", làm sao giúp họ được, Lavoué phỏng đoán sai. Thoại của Bá Đa Lộc: Giám mục Bá Đa Lộc trình bầy việc này khác hẳn. Ông phân trần về vụ này trong hai thư dài gửi quản thủ Létondal. Thư đầu viết ngày 18/5/1795, chỉ nói đến việc các quan viết sớ xin vua cho hoàng tử ít gần ông hơn, họ sợ hoàng tử chịu ảnh hưởng của ông, vì vậy ông lợi dụng cơ hội này để xin vua cho đi Macao, và theo ông "nhà vua đã khóc xin ông đừng bỏ ông ta", rồi vua "bắt hai vị đại thần đầu triều chủ trương việc này đem chém đầu, nhưng họ được ông xin ân xá". Lá thư thứ nhì viết ngày 30/5/1795, Bá Đa Lộc lại nói khác hẳn: ông kể chuyện 19 vị đại thần, vì ghét đạo, đã viết sớ tâu vua, vua đọc xong "nổi giận, ném lá sớ xuống đất" và dọa sẽ trừng trị nặng nề những kẻ viết. Sau đó, 2 đại tướng trong số 19 người này bị xử tử, và chính Đức Giám Mục phải can thiệp, họ mới khỏi bị chém đầu![46] So với lời Liệt Truyện và Lavoué, thì vị giám mục để biện hộ cho mình, đã hơi giầu tưởng tượng. Chúng ta có thể tóm tắt lại sự kiện như sau: Vua nhận được sớ của Trần Đại Lộc, bèn cạo tên người ký, để tránh hậu họa cho Đại Lộc. Mọi người nghe phong thanh có lá sớ đòi chém đầu Bá Đa Lộc, bèn phao lên rằng do nhiều quan đại thần ký. Vụ này xẩy ra vài tháng sau khi hai tướng Thành và Đức rút lui trước sức mạnh tiến quân của Lê Trung, nên bị bắt tù. Lavoué và Bá Đa Lộc bèn thêm chuyện Đức Giám Mục "xin tha cho họ". Chúng tôi không tin điều này, vì Đức Giám Mục chẳng có thẩm quyền gì để xin cho những đại tướng như Nguyễn Văn Thành, Nguyễn Huỳnh Đức, trong lúc bản thân ông đang bị nguy khốn vì lá sớ của Trần Đại Luật. Tạ Chí Đại Trường thêm thắt thành câu chuyện sau đây: Khi Dayot làm đắm tầu "Nguyễn Ánh tức giận chửi lung tung. Đúng dịp ấy, 19 người đại thần trong số đó có người chú vua (Tôn Thất Thăng?) và một người hoàng phái, dâng sớ bầy tỏ mối nguy hại nếu cứ để Hoàng tử Cảnh cho Bá Đa Lộc dạy dỗ". Vẫn theo lời ôngTạ: Biết có lá sớ này "Bá Đa Lộc khôn ngoan ẩn tránh vài ngày. Thấy Nguyễn Ánh có vẻ nghe theo lời sớ, ông lên tiếng phàn nàn thì Ánh đến tận nhà đưa tờ biểu cho ông coi." Bá Đa Lộc coi xong lá sớ, đòi về Pháp ngay, Nguyễn Ánh bèn "nhân dịp hai người có tên trong sớ là Nguyễn Huỳnh Đức và Nguyễn Văn Thành không đi cứu Phố Hài, ông kêu về tống giam, vừa để trị tội, vừa để làm vừa lòng Giám Mục"[47]. Lối viết sử của Tạ Chí Đại Trường là như vậy: cứ suy diễn và thêm thắt cho câu chuyện ly kỳ như tiểu thuyết, và cuối cùng thế nào cũng dẫn đến sự tôn sùng Bá và hạ bệ Gia Long. Thực ra Nguyễn Văn Thành và Nguyễn Huỳnh Đức bị phạt vì tội rút quân, không dám đương đầu với Lê Trung chứ không phải vì bỏ rơi ai hết, câu chuyện này xẩy ra vào tháng giêng năm Ất Mão (tháng 2/1975), tức là trước vụ lá sớ vài tháng, được cả Thực Lục lẫn Liệt Truyện viết rõ: Mùa đông Giáp Dần (1794) Trần Quang Diệu lại vây Diên Khánh, Nguyễn Ánh phát cho Nguyễn Văn Thành 3000 quân, sai đi giữ Bình Thuận, "Thành nói: "Quân giặc nhiều, Bình Thuận lại là nơi tứ chiến không cho tôi 5000 quân, tôi không giữ được". Nguyễn Huỳnh Đức xin đi, vua bèn sai Nguyễn Huỳnh Đức điều bát, Thành làm phó. Quân đến Phan Rý, Tư lệ giặc là Lê Trung chọn chỗ hiểm để chống Đức, vì lương quân không đủ ăn, trước dẫn quân đi, Thành cùng lui quân về Na Ly cùng họp với quân Đức, bèn lui giữ Bà Rịa. Vua giận là hèn nhát bắt Thành cùng Đức về cho đình thần xét. Thành dẫn biện việc lui quân có sự trạng, vua chiếu tha không hỏi tội nữa"[48]. Không có chuyện Nguyễn Văn Thành, Nguyễn Huỳnh Đức và 19 đại thần ký sớ gì cả. Còn chuyện chém đầu hai vị đại thần, Bá Đa Lộc xin tha, cũng bịa đặt nốt. Bởi vì, nếu có thực, thì tại sao các sử gia triều Nguyễn không ghi lại?
Dayot làm đắm tầu, trốn đi năm 1795Những ngày cuối cùng của Dayot ở Việt Nam không mấy vinh hiển. Việc Dayot làm đắm tầu Đồng Nai xẩy ra tháng 4/1795, đúng lúc Trần Đại Luật gửi lá sớ xin chém đầu Bá Đa Lộc, và vụ tất cả những người Âu bỏ đi lần thứ nhì. Ste-Croix thuật lại vụ này theo lời kể của Dayot trong bài Introduction, chúng tôi đã dịch trong chương 10, Sainte-Croix, ở đây xin tóm tắt lại như sau: Dayot "chống tham nhũng" nên bị các quan căm ghét, tìm cách triệt hạ. Một hôm trời bão, Dayot không có trên tàu, tầu bị thổi xuống nước, lật. Vua đang sửa soạn xuất quân, nổi giận vì sự mất tầu này. Các quan bèn lợi dụng tâu vua: tầu chìm là do Dayot cố tình làm để chậm trễ việc quân. Dayot bị đóng gông, đáng lý bị xử tử ngay, nếu "bạn bè" không "chận lại". Đúng lúc này Giám mục Bá Đa Lộc "đi vắng", Dayot chịu gông 4 ngày. Khi giám mục về, "giảng dạy" lẽ phải trái vua mới "hối lỗi" tha ngay và "xử tử" các quan. Vì vụ oan uổng này mà anh em Dayot phải bỏ đi, và tất cả những người Pháp khác, kể cả Puymanel cũng từ chức, bởi vì công việc của họ khó khăn như thế mà vua không cho họ của cải gì cả.[49] Nhưng theo thư của giáo sĩ Lavoué và giáo sĩ Le Labousse, mọi sự xẩy ra khác hẳn: 1- Giáo sĩ Lavoué gửi M. Létondal, thư ngày 27/4/1795, viết: "Nhà vua vừa hết sức giận dữ những người Âu đang giúp việc, và bắt bỏ tù hai người: Ông Dayot và phó Cai đội của chiếc tầu bị đắm [Guillon], bị hư hại nặng nề; người ta vừa báo cho vua biết là tầu không còn dùng được nữa, điều đó làm cho vua nổi trận lôi đình, trong lúc quá giận đã chửi bới thậm tệ những người Âu, sau đó vua có hối lại, và có lẽ ông còn hối lại nữa bởi vì từ lúc ấy, công việc của ông ngày càng tồi tệ [ý nói chiến tranh với Tây Sơn]. "Đúng lúc này thì các quan dâng vua lá sớ chống Đức Cha; vua đọc và làm thinh. Đức Cha được báo tin ngay, nhưng giả vờ [không biết] trong vài ngày; sau thấy vua không đả động gì đến vụ này và còn tỏ ra đồng ý với các quan; Đức Cha mới cay đắng than thở, vua nghe mách lại, lúc đó mới gửi cho Đức Cha lá sớ".[50] Chúng ta thấy ngay sự bịa đặt trong lời Ste-Croix: Bá Đa Lộc không đi vắng, ông đang bị nạn vì lá sớ của Trần Đại Luật, và đang tìm cách tự cứu, nói chi đến việc cứu Dayot. 2- Thư giáo sĩ Le Labousse viết cho M. Létondal, quản thủ viện thừa sai Macao, từ Sài Gòn ngày 22/6/1795, cho biết thêm một chi tiết quan trọng sau đây: "... Ông ta [Nguyễn Ánh] đang ở trong thế kẹt.[Chỉ việc Trần Quang Diệu và Lê Trung đang tấn công mặt trận Diên Khánh]... Tất cả người Âu bỏ đi... Tôi sợ rằng đó là tiên khởi của chúng ta... Đức Cha đã sửa soạn một chiếc tầu tốt rồi... Ông sẽ thấy các ông Olivier và Dayot tới Macao. Dayot phải trốn khỏi tầu của mình khi ra hàng ở cảng Saint Jacques. Sự tẩu thoát này sẽ là tổn thất nặng nề cho nhà vua. Trên tầu của Olivier có Chaigneau, cùng quê với tôi..."[51] Vậy, theo Le Labousse, chính Bá Đa Lộc cũng sửa soạn một chiếc tầu để ra đi. Ta có thể đoán, vì hai lý do: thứ nhất, vì lá sớ của Trần Đại Luật và thứ hai, vì sức mạnh của Trần Quang Diệu và Lê Trung. Lần này cũng như năm 1792 khi Quang Trung định tấn công miền Nam, thấy Nguyễn Ánh có thể thua nên tất cả người Âu lại cuốn gói bỏ đi. Còn Dayot, sau khi làm đắm tầu, bị đóng gông và kết án, trốn ra Vũng Tầu, nhưng bị bắt lại, rồi lại trốn trên tầu của Olivier de Puymanel; tầu này có cả Chaigneau nữa (lúc ấy Chaigneau chưa đầu quân, còn đang buôn bán trên đường Sài Gòn-Macao). Puymanel cũng định bỏ đi, nhưng rồi sẽ quay trở lại. Việc Dayot trốn, chứng tỏ y chẳng oan uổng gì, câu chuyện Ste-Croix kể ở trên hoàn toàn biạ đặt, để chạy tội cho y. Bá Đa Lộc chẳng thể can thiệp và cũng không có chuyện vua "xử tử" các quan đã "vu khống" cho Dayot.
Dayot trở lại Nam Hà và được vua Gia Long khoan hồngDayot trốn đi, sang lập nghiệp ở Phi Luật Tân; mọi sự dễ dàng vì anh ta đã hai lần được vua sai sang Phi mua bán và đã được vua viết thư gửi gấm với viên toàn quyền Phi từ 1790. Chín năm sau, toàn quyền Phi sai Dayot trở về Nam Hà mua gạo. Vua Gia Long đã bỏ qua tội cũ và cho phép y mua gạo đem về Phi. Lá thư của Giám mục Labartette viết cho M. Foulon, quản thủ mới của Hội thừa sai Macao, ngày 15/4/1804, kể về về việc này với giọng mỉa mai, như sau: "...Ở đây vừa xẩy ra một chuyện khá lạ lùng mà chắc chẳng ai chờ đợi và có lẽ sẽ ầm ỹ lên. Số là cái ông Dayot danh tiếng, ngày xưa đã ở đây khá lâu phục vụ vua Nam Hà thời Giám mục Bá Đa Lộc còn ở Đồng Nai, rồi bỏ đi vì bất mãn gì đó với vua; cái ông này mới trở lại Đà Nẵng khoảng độ mươi ngày nay. Ông ta được viên toàn quyền ở Manille gửi đến, trên chiến thuyền Y Pha Nho, tên là La Princesse royale. Người ta đồn ông ta đến với sứ mệnh rất quan trọng cho lợí ích của hai nước, đó là sự cộng tác thương mại giữa nước Nam với cái gọi là chính phủ Manille. Việc phái bộ Anh bí mật đến nước Nam [chỉ việc phái bộ Roberts năm 1804 đến xin thông thương] chắc đã bị các cường quốc Âu Châu khám phá ra, bởi vì ông Dayot lại thông báo rằng chiến tranh Anh Pháp đã nổ ra từ 10 tháng nay, rằng cả Âu Châu theo Pháp, Anh đứng một mình. Rằng Manille đang đợi hai hạm đội, một của Pháp, một của Y Pha Nho. Chính phủ Manille thông báo cho vua Nam Hà biết dự định của Anh muốn có một hải cảng ở nước Nam và khuyên nhà vua đừng cho. Hơn nữa, vì người ta sợ khi hai hạm đội kia đến Manille sẽ thiếu gạo ăn, Dayot xin được mua gạo, vua cho phép xuống Đồng Nai mua. Hình như nhà vua thích cái đề nghị cộng tác của chính phủ Manille..."[52] Việc Dayot mua gạo cho Phi Luật Tân được Thực Lục ghi trong tháng 4/1804, như sau: "Lữ Tống bị đói, xin đong gạo ở Gia Định. Lưu trấn thần không muốn bán, đem việc tâu lên. Vua nói rằng: "Bờ cõi dù có khác nhau, nhưng lấy lòng chung mà thương nhau, sao nỡ không ngó đến". Bán cho 50 vạn cân gạo"[53]. Vậy, năm 1804, Dayot không dám đến Huế gặp vua, như lời giám mục Labartette: "Người ta đồn ông ta đến với sứ mệnh rất quan trọng cho lợi ích của hai nước". Có lẽ Dayot chỉ ghé lại Đà Nẵng, rồi không mua được gạo, mới xuôi thuyền xuống Gia Định, nói (dối) quan trấn thủ rằng Lữ Tống bị đói, xin mua gạo, nhưng quan trấn thủ không bán, mà tâu về triều, và vua đã ra lệnh bán. Điều này chứng tỏ không những Gia Long đã tha thứ cho Dayot, mà ông còn muốn giúp người láng giềng Phi Luật Tân. Có lẽ nhà vua không quên ơn cũ, khi ông viết thư nhờ quan toàn quyền Phi giúp đỡ Dayot khi ông sai y sang Phi mua bán và sửa tầu năm 1790? Ba năm sau, trong thư Chaigneau, viết từ Huế gửi M. Létondal ngày 6/6/1807, có câu: "Vua hay hỏi thăm tin tức anh em ông Dayot và mong họ trở lại Nam Hà"[54]. Lời này, nếu thật, xác định lần nữa, Gia Long không những đã tha thứ tất cả lỗi lầm cho anh em Dayot mà còn mong họ trở lại. Tuy nhiên, Dayot vẫn tiếp tục sự phản bội, y còn lừa vua thêm một lần nữa, Cadière viết: "Dayot chẳng bao lâu trở thành tồi tệ với Gia Long, người ta nói với vua rằng ông ta đã làm gián điệp cho Anh. Chúng tôi biết được điều này nhờ lá thư của thừa sai Audemar ở Nam Hà viết ngày 6/6/1808 cho vị quản thủ viện thừa sai Macao" [55]. Kể từ năm 1804, sau khi sứ bộ Roberts đến xin "thông thương", tức là xin Cù Lao Chàm để mở "thương điếm", vua không cho, đã để lại lá thư lời lẽ rất hỗn xược, hăm hoạ (xem chương 26, Các sứ bộ Anh Pháp đến Việt Nam), vua Gia Long hết sức đề phòng người Anh.
Cái chết của DayotDayot chết đuối mùa thu năm 1809. Thư của giáo sĩ Audemar từ Nam Hà ngày 28/4/1811, cho biết: "Khoảng gần một năm rưỡi nay ông Dayot bị đắm tầu và chết đuối gần đây cùng với vợ và hai chục người nữa. Đúng là lỗi tại ông ấy, bởi vì, khi gặp cơn bão đầu mùa thu đến bất ngờ trên biển, ông ấy đã đến rất gần một bến tầu nhỏ. Trận bão thật dữ dội. Mọi người đều muốn ghé vào bờ; nhưng không hiểu sao mà điên rồ đến thế, ông ta đã làm gì? Tay khư khư cầm kiếm, đe doạ chém đầu hoa tiêu nếu anh ta lái tầu vào bến. Thế là tầu ngập nước. Chỉ có khoảng 7 thủy thủ bơi thoát được vào bờ. Thực ông ấy chết như đã sống, một cách vô đạo (en impie)!" [56] Vị giáo sĩ dùng chữ en impie (vô đạo) theo nghiã vô thần, khinh đạo, nhưng nếu chỉ vào cách sống của Dayot, còn có nghiã là vô luân nữa. Dayot chọn cái chết, chứ nhất định không cho tầu cập bến Việt Nam, có phải vì anh ta sợ lần phản bội cuối cùng: "làm gián điệp cho Anh" này, sẽ không được vua Gia Long tha thứ như những lần trước?
IV- Việc thổi phồng sự nghiệp Dayot
Sau khi biết rõ những gì Dayot đã làm trong thời gian phục vụ Nguyễn Ánh từ 1790 đến1795, chúng ta có đủ điều kiện để mổ xẻ sự xuyên tạc và mạo nhận lịch sử của các ngòi bút thực dân, khi họ vẽ nên hình ảnh một Jean-Marie Dayot: "Grand amiral de la flotte annamite et commandant des bâtiments français de l'Annam" (Đại đô đốc của hạm đội An Nam và tư lệnh những tầu Pháp của nước Nam), với chiến công lừng lẫy ở trận Thị Nại 1792: ông tàn phá 5 tầu chiến, 90 chiến thuyền, và khoảng 100 tầu nhỏ của Tây Sơn... được Wikipédia Pháp, Anh, Việt, ghi lại trên Internet. Tại sao có "chiến công" Thị Nại? Tại vì lúc trận này xẩy ra, Dayot còn ở Việt Nam, những trận đánh lớn sau, Dayot đã trốn sang Phi Luật Tân. Trong chương 8, Hịch Quang Trung, chúng tôi đã xác định trận Thị Nại bắt đầu từ 26/7/1792 và chấm dứt ngày 5/8/1792. Đây là chiến thắng lớn đầu tiên của Nguyễn Ánh, phá hoại toàn bộ thuỷ quân của Nguyễn Nhạc đậu ở cửa Thị Nại trong khi Nguyễn Nhạc đi săn vắng. Trận này đánh dấu ngõ quặt, khiến Quang Trung nổi giận, truyền hịch đánh Nam Hà, và hai mươi ngày sau khi hịch truyền, Quang Trung mất. Vì sự quan trọng của trận Thị Nại 1792, trong cuộc chinh phục lại lãnh thổ của Gia Long, cho nên các sử gia thuộc địa bằng mọi giá, đã tìm cách "xác định" chiến công Thị Nại 1792 là chiến công "lừng lẫy" của người Pháp, đặc biệt của Jean-Marie Dayot, để đưa Dayot lên hàng "đại đô đốc thống lĩnh thuỷ quân của Nguyễn Ánh", và "xác định" chính người Pháp là "tác giả" việc thống nhất đất nước của Gia Long. Sau này, họ sẽ nhai đi nhai lại "công ơn" này trong suốt chiều dài lịch sử từ đầu thề kỷ XIX đến ngày nay. Barrow là một trong những người đầu tiên viết về Dayot và trận Thị Nại 1792, khá dè dặt: "Mùa xuân 1792, ông [Nguyễn Ánh] xuống thuyền đi đánh Qui Nhơn, để trên đầu hạm đội, 2 sĩ quan Pháp, cai quản hai tầu chiến Tây phương. Người ta đồn rằng, một trong hai người này, ông Dayot, đã làm cho hạm đội Việt [Tây Sơn] thiệt hại lớn, đốt cháy, đánh đắm, hoặc xâm chiếm tất cả những thuyền gặp trên đường. Nhưng hăng say, tiến sâu quá và thuyền ông mắc cạn. Người ta đồn rằng nhà vua tuy chứng kiến tai nạn này, có thể làm cho ông thua trận, nhưng vẫn tỏ chút mãn nguyện, nói rằng: "Ông ấy đã làm nhiệm vụ của mình, tôi không chờ đợi ông ấy làm nhiệm vụ của tôi"[57]. Câu: [Nguyễn Ánh] để trên đầu hạm đội, 2 sĩ quan Pháp, cai quản hai tầu chiến Tây phương, và một trong hai người này là Dayot hoàn toàn vô căn cứ, không biết Barrow chép ở đâu. Năm 1792, Dayot chỉ được quản hai tầu buôn Đồng Nai và Prince de Cochinchine, không nơi nào ghi Dayot có nhiệm vụ tác chiến và lái thuyền đồng. Có thể vì thấy hai thuyền đồng Long Phi và Phượng Phi do Nguyễn Văn Trương và Nguyễn Văn Thành điều khiển, người ta vội phóng lên là tầu Tây. Với thành kiến, tầu Tây thì "nhất định" phải do Tây lái! Còn vụ tầu mắc cạn, lại quá giống chuyện Mạn Hoè. Barrow chép những việc này ở đâu, không đề xuất xứ, nhưng ông đã cẩn thận dùng những tiếng "người ta đồn rằng", chứng tỏ ông không chắc và ông cũng biết rằng chẳng ai dựa vào những lời "người ta đồn" để viết sử. Về trận Thị Nại, Thực Lục ghi: "Giặc Tây Sơn Nguyễn Văn Nhạc đóng nhiều chiến thuyền để ở cửa biển Thị Nại, mưu toan vào cướp, kẻ gián điệp báo tin. Vua muốn ra đánh trước để chặn giặc, mới dụ cho tướng sĩ các dinh Tiên Phong và Chấn Võ thuộc Trung Quân chỉnh bị lương thực súng ống khí giới như phép hành quân, định ngày thử các chiến hạm ở ngoài biển, thuyền đại hiệu (là loại thuyền lớn) và thuyền ô sai (là thuyền nhẹ để sai phái, sơn đen), 128 chiếc"[58]. Nguyễn Vương qua cửa Cần Giờ, Nguyễn Văn Thành tiên phong, Phạm Văn Nhơn, thứ nhì. Nguyễn Văn Trương hộ giá, Nguyễn Văn Nhuận tiếp sau: "Khi quân đến ngoài cửa biển Thị Nại, thì trước hết sai quân tinh nhuệ đổ bộ phóng lửa đốt thuỷ trại giặc. Nguyễn Văn Trương và Nguyễn Văn Thành dùng thuyền Long và thuyền Phụng [đánh] thẳng vào, các quân tiến theo. Đô đốc giặc là Thành (không rõ họ) thấy đại quân chợt đến, bỏ chạy, thuyền ghe và khí giới bị quân ta bắt được hết (thuyền lớn 5 chiếc, thuyền đi biển 30 chiếc, thuyền sai 40 chiếc)"[59]. Thực Lục không nói có người Pháp tham dự. Điều này dễ hiểu, bởi vì tháng 6/1792, có cuộc khủng hoảng giữa vua và những người Pháp: nghe tin Nguyễn Huệ sắp đánh, giám mục Bá Đa Lộc xin đi (xem chương 8: Hịch Quang Trung). Dayot thâm lạm ngân quỹ, khiến vua nổi giận muốn đuổi tất cả lính Pháp. Sau vua hồi tâm, giữ Bá Đa Lộc ở lại; Dayot không bị đuổi mà bị chuyển sang ngành tải lương. Trong lúc đó, chớp nhoáng xẩy ra trận Thị Nại. Quyết định hết sức nhanh, tuy nhiên Nguyễn Ánh tổ chức và phân công rõ ràng: chỉ có 2 dinh quân Tiên Phong và Chấn Võ, tức là quân cảm tử, dự trận, còn các thuyền đại hiệu, chỉ có hai thuyền đồng Long Phi và Phượng Phi do hai đại tướng Nguyễn Văn Trương và Nguyễn Văn Thành điều khiển. Đã biết rõ bối cảnh và cách hành quân của Nguyễn Ánh, chúng ta càng hiểu rõ hơn sự xuyên tạc của các sử gia thuộc điạ.
Maybon "chứng minh" Dayot "tiêu diệt" hạm đội Tây SơnMaybon, để "chứng minh" Dayot là "anh hùng" trận Thị Nại 1792, trước hết ông đưa ra những xác định vô bằng: - "Không thể chối cãi được rằng họ [những người lính Pháp] đã góp phần rộng lớn vào chiến thắng của Gia Long. Chưa nói đến sự đóng góp của họ vào những chiến công quan trọng, như việc tiêu diệt hạm đội Tây Sơn năm 1792, và những cuộc hành quân khác dẫn đến chiến thắng Huế, năm 1801". - "Trên biển cả, những tầu Tây phương, do Dayot và Vannier điều khiển, với thủy thủ đoàn người Việt được thuỷ binh Pháp tập luyện và đưa vào khuôn phép, mang lại cho đội ghe buồm một sự trợ giúp mà thuỷ quân Tây Sơn không có". - Trận Thị Nại chứng minh rõ điều đó" [60]. Sau khi mô tả trận Thị Nại bằng tài liệu của Thực Lục, Maybon trách Thực Lục không đếm xỉa đến công lao của những người Pháp, nhưng may mắn ông tìm được tài liệu khác, đó là lá thư của giáo sĩ Le Labousse viết tháng 7/1793[61], trong có đoạn như sau: "Nhà vua đi vào khoảng cuối tháng 7, với một hạm đội nhỏ, được chiến hạm Âu Châu của ông yểm trợ, đi thẳng tới hải cảng Quy Nhơn ở đó có toàn bộ hạm đội của địch quân... ông vào hải cảng, dưới sự che chở của chiến hạm Âu Châu, làm quân địch khiếp sợ. Sau vài giờ chiến đấu, ông làm chủ hải cảng và tất cả hạm đội địch. Ông hoàng này chưa quen với thành công, chưa biết nhận thành quả của chiến thắng. Sợ không đạt được mục đích, vội đốt hết: chỉ để lại 5 chiến hạm trang bị đầy đủ vũ khí, hai chục ga-le lớn, và khoảng 40 đến 45 thuyền chiến; còn đốt hết cả. Ông ta hối lại ngay khi nhìn qua lửa, thấy những ga-le lớn đầu bọc vàng. Nhưng không thể cứu vãn được nữa, cũng như ba kho: kho tiền, kho quần áo và kho gạo. Chắc quý vị muốn có một vài chi tiết về chiếc tầu Âu Châu làm gì. Con tầu này được ông Dayot ở Redon điều khiển, và được ông Vannier ở Auray, phụ tá; ông Olivier ở Carpentras, cũng có đó với quân đội của ông. Chính nó đã tiến vào cửa biển [Thị Nại] đầu tiên, trước đại binh một giờ. Tính cách cao quý và mạnh dạn độc tiến giữa lòng địch của nó, trong khi địch quân đã ùa ra phiá trước nhả đạn tứ phiá vào tầu, làm cho nhà vua và tất cả những người Nam Hà kinh ngạc. Nhà vua, trong lúc này, không thể không ngợi khen sự can đảm của những người Âu. Toàn thể quân đội lúc đó đều nhận ra sự khác biệt giữa người Pháp và mấy chiếc tầu Bồ, ngày trước đã nhục nhã trốn chạy và đã làm cho vua bại trận. Trong khi tất cả mọi người đang khâm phục chiếc chiến hạm đơn độc chống chọi với kẻ thù, thì lòng dũng cảm của những Vị [sĩ quan] này bỗng chốc bị đình chỉ một cách nhục nhã nhất đối với người chiến sĩ: Cửa vào cảng rất hẹp, gặp lúc thuỷ triều xuống, tầu bị mắc cạn. Ở vị trí này, họ chỉ dám bắn vài phát đại bác nhỏ, phiá trước, mà đã trúng khá nhiều kẻ thù. Họ phải dừng ở đó. Và đau đớn thấy toàn thể đoàn quân kéo vào cảng mà họ không theo được. Nếu có thể tiến vào được hải cảng thì chắc chắn họ sẽ là những người duy nhất nhận công trạng và sự vinh quang của chiến thắng. Từ đó nhà vua thường nói bông đùa, về chuyện này: "Chúng tôi rất sung sướng vì biến cố này xẩy ra. Nếu chiếc tầu này không mắc cạn, thì nó chẳng để cho chúng tôi việc gì nữa, và như thế chúng tôi sẽ ngượng lắm". Nếu nhà vua chịu tiến quân đêm đó, về thành Quy Nhơn nơi vua ngụy ở, chỉ cách bến cảng bốn, năm dặm, thì ông đã chiếm được dễ dàng, vì bạo chúa đi săn vắng, chưa biết lúc nào về. Thật là cú sét đánh trên đầu kẻ kiêu ngạo, mạo muội xưng Hoàng đế, khi thấy tất cả hạm đội của mình, công trình trong bao năm, bị tiêu diệt trong một lúc bởi một tên vua đào tẩu nhỏ nhít mà ông ta khinh bỉ thậm tệ! Thực tuyệt vọng khi thấy bao nhiêu của cải tan thành tro bụi! Ông ta chỉ còn lại 9 ga-le, để ở trên cạn, cách khá xa, mà nhà vua đã để dành cho "Hoàng đế đi dạo chơi trên mặt nước"[62]. Đọc đoạn thư trên, khó có thể tin là một người khá thận trọng như Le Labousse lại viết những lời như thế, bởi vì có quá nhiều sai lầm. Mới đầu chúng tôi tưởng Maybon lại "sáng chế" tư liệu, nhưng sau tìm được Tân Huấn Thư tập VII, quả thực là có lá thư này của Le Labousse. Điểm lạ lùng là một "chiến công rực rỡ" như vậy mà không được chính bản thân tác giả Dayot kể lại trong hồi ký, kể cả những người chuyên trị việc nâng cấp như Bissachère, Ste-Croix,... Riêng học giả Cadière không nói gì đến thư này, mà ông trích lá thư Le Labousse viết cho M. Boiret, ngày 26/6/1793 tại Sài Gòn, tức là viết trước lá thư này một tháng, đoạn cuối có một câu nói về chiến dịch đánh Quy Nhơn năm 1793 (một năm sau trận Thị Nại 1792), trong có câu: "Nhà vua vừa đi cùng với đại binh thuỷ bộ đánh Quy Nhơn, kinh đô của Nguyễn Nhạc, mà người ta goi là Đại Đế. Các ông Dayot quê Rhedon và Vannier, quê Auray cùng đi với tầu của họ. Ông Olivier quê Carpentras cũng đi với quân của ông ấy và vài người Âu trong đoàn bộ binh."[63]. Trích đoạn này đúng với thực tại của chiến dịch 1793, bởi vì sau khi Nguyễn Huệ chết, Nguyễn Ánh cử đại binh đi đánh Tây Sơn; lần này ông mới vận dụng toàn thể thủy bộ, quyết định đánh lâu dài vì vậy có Dayot, Vannier, trong đội vận lương và Puymanel trong đội Thần sách. Vậy Le Labousse có nhầm việc năm 1792 với việc năm 1793 không? Trong tháng 6/1792, Le Labousse viết rất nhiều thư về Macao, tường trình các việc: Năm 1789 hoàng tử về nước, không chịu lễ trước bàn thờ tổ tiên, Bá Đa Lộc bị vua hạch hỏi gắt gao... Sau đó, vua mượn các thầy Việt dạy hoàng tử... Bây giờ hoàng tử ở trong một triều đình vô đạo (paiens) với những người thầy vô đạo, không làm lễ rửa tội, sẽ rơi vào vòng sa đoạ... Quang Trung đang sửa soạn đánh xuống, dân chúng biên giới Miên-Việt lo sợ, hoảng loạn... Dayot thâm lạm ngân quỹ và lính Pháp làm bậy, bị đuổi đi... Bá Đa Lộc cũng đang sửa soạn tầu Saint-Esprit để đi, nhưng rồi có lẽ cũng lại như năm ngoái (1791), đức cha sẽ lại ở lại...[64]. Tháng 7-8/1792, lúc trận Thị Nại xẩy ra, không có thư gì của Le Labousse được lưu lại. Một năm sau, tháng 7/1793, mới có 2 lá thư của Le Labousse, nói ở trên. Vì lý do gì? Không thể biết được. Nhưng chắc chắn chỉ mình Bá Đa Lộc được vua thông báo sẽ đi đánh chớp nhoáng Thị Nại, còn Le Labousse không biết chuyện này. Khi trận Thị Nại xẩy ra, Le Labousse đang ở biên giới Miên-Việt. Chỉ một năm sau, ông mới được nghe kể lại, và viết lá thư tường trình về Macao tháng 7/1793, được Maybon trích dẫn. Không biết Le Labousse nghe kể lại, hay ông chép lại từ một tài liệu nào. Bởi vì lá thư của ông quá giống những gì ghi trong Sử Ký Đại Nam Việt, nhưng tên vị "anh hùng" ở đây không phải là Dayot mà là Puymanel: "Khi ấy ông Thái Đức chẳng hồ nghi điều gì, những ngỡ mình đặng bằng yên vô sự; lại đi săn xa lắm, bao nhiêu tầu ông ấy thì đã họp trong cửa chợ Giã gần Quy Nhơn hết thẩy. "Vậy tầu ông Dade cai [SKĐNV gọi Puymanel là ông Dade] thì đi trước, mà Nguyễn Ánh cùng các tầu thì đi sau, cách xa một trống canh đàng. Ông Dade vào một mình và bắn súng đánh các tầu quân giặc. Quân giặc thấy tầu Tây thì sợ hãi lắm; song cũng ra sức bắn trả, mà không mũi nào nhằm sốt. Ông Dade vào cửa nhằm khi nước ròng, nên tầu ông ấy phải mắc cạn chẳng đi được nữa. Vậy phải dùng những khẩu súng ở trước mũi tầu mà bắn thì càng khó lắm, song cũng đánh, và quân giặc đã phải chết nhiều; còn quân của ông ấy thì bằng yên vô sự. Qua một ít lâu, thì vua cùng các tầu khác mới vào cửa mà đánh: quân giặc phải thua trận cả thể (...) Khi đầu vua thấy mình được trận làm vậy thì mừng quá, mà truyền đốt các tầu quân giặc. Bấy giờ có một tầu lớn và một kho đầy tiền, còn hai kho khác đầy đồ đạc quần áo, thì vua truyền đốt ba kho ấy đi cho quân giặc chẳng dùng đặng nữa. Nhưng mà khi vua thấy lửa phát lên cháy bấy nhiêu tầu thì lấy làm tiếc lắm, lại truyền ra sức chữa lửa đi; nên còn giữ lấy năm chiếc tầu trận lớn, hai mươi chiếc nhỏ, và bốn mươi thuyền nhỏ. Vua cũng lầm một điều nữa, là khi ông Thái Đức đi khỏi như đã nói trước, mà quan quân kinh khiếp, vì đã thua, thì vua phải thừa dịp mà vây thành Quy Nhơn và bắt các xứ xung quanh nữa. Nhưng mà vua ngại, vì ít quân chẳng dám lên vây Qui Nhơn, một đem binh khởi hoàn mà thôi (...) Khi trước ông Thái Đức khinh dễ vua Nguyễn Ánh, mà bây giờ phải thua trận và mất hết ghe chiến làm vậy, thì xấu hổ giận dữ quá lẽ, chẳng còn trông đánh thuỷ nữa, vì đã mất hết tầu ghe rồi, chỉ còn chín chiếc ghe ở [ghe để ở], ông Nguyễn Ánh chẳng truyền đốt, vì nhạo rằng: "Để dành cho ông Hoàng đế dùng đi dạo chơi trên mặt nước"[65].
Le Labousse và Sử Ký Đại Nam Việt, ai chép của ai? Bởi tất cả những chi tiết vô lý ở hai văn bản trên đều giống y hệt như nhau, không thể có một sự ngẫu nhiên lạ lùng như vậy: 1- Tầu Dayot (hay Puymanel) đi trước tầu Nguyễn Ánh và đại binh một giờ (một trống canh). 2- Chưa vào qua cửa bể Thị Nại thì bị mắc cạn (như chuyện Mạn Hoè). 3- Vậy mà một mình bắn súng đánh "tầu giặc". 4- Một mình, một tầu, chống trả mãnh liệt (như chuyện Mạn Hoè). 5- Vua ra lệnh đốt tầu Tây Sơn... Tất cả những con số và những chi tiết đều giống nhau... Sự vô lý đến từ những điểm sau đây: 1- Mỗi tác giả đưa ra một anh hùng: Sử Ký Đại Nam Việt: Puymanel, Le Labousse: Dayot. 2- Tầu chưa vượt qua được cửa Thị Nại đã bị mắc cạn, vậy làm sao đánh được quân Tây Sơn (đóng trong cửa Thị Nại) và quân Tây Sơn lại biết mà ra bao vây bắn phá tứ phiá? 3- Tầu đến Thị Nại trước đại quân một giờ, rồi bị mắc cạn ở ngoài cửa, các "sĩ quan" Pháp và Dayot (hay Puymanel) đứng trên tầu nhìn đại quân đi qua, mà sao Gia Long đã có đó để mục kích và ngợi khen sự can đảm của những người Âu đánh nhau với quân Tây Sơn: "Chính nó đã tiến vào cửa biển đầu tiên, trước đại binh một giờ. Tính cách cao quý và mạnh dạn độc tiến giữa lòng địch của nó, trong khi địch quân đã ùa ra phiá trước nhả đạn tứ phiá vào tầu, làm cho nhà vua và tất cả những người Nam Hà kinh ngạc". 4- Tác giả Sử Ký Đại Nam Việt, nói Olivier de Puymanel lái tầu vào đánh là hoàn toàn sai, vì Olivier dù có dự trận này, cũng chỉ ở trong đội pháo binh. Anh ta học lái tầu hồi nào? Chưa thấy nơi nào ghi Puymanel được phép lái tầu chiến đồng. 5- Le Labousse nói Dayot chỉ huy tầu chiến này, cũng sai nốt, ai cho phép Dayot chỉ huy tầu chiến? Dayot chỉ có văn bằng quản hai tầu buôn Đồng Nai và Le prince de Cochinchine. Mãi đến năm 1800, lần đầu tiên, Gia Long cho ba người Pháp là Chaigneau, Vannier và de Forçant quản ba tầu đồng Long Phi, Phượng Phi và Bằng phi, việc này có ghi trong Thực Lục. 6- Chuyện tầu mắc cạn, như trên đã nói, lại quá giống chuyện Mạn Hoè. Ngoài ra, trận này xẩy ra ở miền Trung, tác giả Sử Ký Đại Nam Việt là người miền Nam, chắc cũng chỉ như Le Labousse, nghe kể lại. 7- Chúng tôi tin rằng Le Labousse và Sử Ký Đại Nam Việt, cùng kể theo một tài liệu của nhà dòng, Barrow cũng vậy, nhưng thận trọng hơn, nên thêm vào những chữ "nghe nói, người ta đồn rằng" và không chép những điều quá vô lý.
Taboulet và "chiến công" Thị Nại của Dayot25 năm sau, Taboulet tiếp sức Maybon trong việc xây dựng huyền thoại Dayot. Lần này, sử gia Taboulet, kê khai thẳng những "thành tích của Dayot trong trận Thị Nại 1792" như một sự thực lịch sử, không cần bàn cãi: "Theo lời Cha La Bissachère, Dayot là "thủ lãnh và linh hồn của hải quân Nam Hà". Ngày 27/6/1790, Nguyễn Ánh cấp cho ông văn bằng "Tư lệnh các hạm đội của ông" (Capitaine de ses vaisseaux), Dayot còn được gọi là Délégué Impérial [Đại diện nhà vua] và Marquis de Trí Lược [Trí lược hầu] hay "Marquis au jugement rempli de Prudence" [Vị Hầu tước phán đoán đầy cẩn trọng]. Năm 1792, Dayot phá tan, ở Quy Nhơn, một hạm đội Tây Sơn gồm 5 tầu lớn (bâtiments), 90 chiến thuyền (galères), và 100 chiến thuyền nhỏ (demi-galères), tịch thu được 137 khẩu đại bác nòng đạn khác nhau. Năm 1793, Dayot chiếm được 60 chiến thuyền Tây Sơn, ở miền bắc Quy Nhơn nữa"[66]. Wikipédia Pháp, phong thêm cho Dayot thành Đại đô đốc của thuỷ quân An Nam và tư lệnh những tầu Pháp của nước Nam" (Grand Amiral de la flotte annamite et commandant des bâtiments français de l'Annam). Những lời bịa đặt này đang "ngự trị" trên Wiképidia hiện nay.
Dayot có dự trận Thị Nại 1792 không?Nguyễn Ánh hành quân bao giờ cũng có chiến thuật rõ ràng, ai tiên phong ai đoạn hậu, ai vận tải lương thực, nhất nhất đều ghi rõ tên các tướng, các quan có trách nhiệm. Về việc vận lương: - Ở trận Thị Nại tháng 7/1792, vì quyết định đánh nhanh, chỉ có 10 ngày, cho nên Nguyễn Ánh đã: "dụ cho tướng sĩ các dinh Tiên Phong và Chấn Võ thuộc Trung quân chỉnh bị lương thực súng ống khí giới như phép hành quân"[67]. Tức là: trong trận đánh chớp nhoáng này, Nguyễn Ánh chỉ dùng có hai dinh quân (như quân đoàn ngày nay) là dinh Tiên Phong và dinh Chấn Võ (quân tinh nhuệ, lính cảm tử), đúng như lời Bá Đa Lộc viết trong thư ngày 18/7/1792: "ông chỉ mang theo một nửa quân đội"[68]. Nguyễn Ánh ra lệnh cho quân sĩ phải chuẩn bị khí giới và lương thực mang theo người; điều này rất hợp lý, bởi khi đi chiến dịch ngắn, lính phải tự đem lương theo. Vì vậy, trong trận Thị Nại 1792, Nguyễn Ánh không chỉ định quan coi việc quân lương. - Đến trận Qui Nhơn tháng 5-6/1793, định đánh lâu, Nguyễn Ánh sai hai quan đại thần phụ trách việc vận lương: "Hộ bộ Phan Thiên Phúc, và tham tri Nguyễn Đức Chí chia coi thuyền lương đi theo, cấp cho các quan thuỷ bộ."[69] - Tháng 5/1794, Nguyễn Ánh thân chinh giải vây Diên Khánh, cũng chỉ định: "Hộ bộ Trần Đức Khoan, tham tri Nguyễn Văn Mỹ và Nguyễn Kỳ Kế đi theo trông coi việc lương"[70]. Kết luận: trận Thị Nại tháng 7/1792, vì đánh nhanh, không cần tải lương; Dayot thuộc đội tải lương, vậy chúng tôi có thể xác nhận chắc chắn rằng: Dayot đã không dự trận Thị Nại 1792.
Bây giờ nói về cách cách bầy bố chiến lược trận Thị Nại 1792, Thực Lục ghi rõ thứ tự tiến quân như sau: "Thuyền vua ra từ cửa biển Cần Giờ... Sai quản Tiên phong dinh là Nguyễn Văn Thành tiến trước, kế đến quản ban Trực tả là Phạm Văn Nhơn tiến thứ nhì. Giám quân Trung quân Nguyễn Văn Trương hộ giá. Đô đốc Nguyễn Kế Nhuận tiếp sau"[71]. Vậy, trong các đội tiên phong và trực chiến, cũng không có tên ông tướng nào là Dayot cả. Rồi khi đến Thị Nại, Thực Lục ghi: "Khi quân đến ngoài cửa biển Thị Nại, thì trước hết sai quân tinh nhuệ đổ bộ phóng lửa đốt thuỷ trại giặc. Nguyễn Văn Trương và Nguyễn Văn Thành dùng thuyền Long [Long Phi] và thuyền Phụng [Phượng Phi] [đánh] thẳng vào, các quân tiến theo. Đô đốc giặc là Thành (không rõ họ) thấy đại quân chợt đến, bỏ chạy, thuyền ghe và khí giới bị quân ta bắt được hết (thuyền lớn 5 chiếc, thuyền đi biển 30 chiếc, thuyền sai 40 chiếc). Lại sai tìm bắt bọn giặc biển Tề Ngôi, bắt được 3 chiếc thuyền"[72]. Đến cửa Thị Nại, Nguyễn Ánh cho quân tinh nhuệ (tức là đội cảm tử thuộc dinh Chấn Võ) đổ bộ đốt thủy trại của Tây Sơn. Rồi hai tướng Nguyễn Văn Thành và Nguyễn Văn Trương dùng thuyền chiến đồng Long Phi và Phượng Phi đánh thẳng vào, ba quân tiến theo. Vẫn không thấy có ông tướng nào tên là Dayot thuộc đội xung phong cả! Chỉ có hai thuyền đồng Long Phi và Phượng Phi, do Nguyễn Văn Thành và Nguyễn Văn Trương điều khiển xung kích. Barrow chắc muốn nói đến hai thuyền đồng này, và ông tưởng rằng do người Pháp điều khiển. Tạ Chí Đại Trường, như thường lệ, vẫn tin Tây và nghi ngờ những điều ghi trong Thực Lục. Trước hết, ông chép vài câu Thực Lục viết về trận Thị Nại 1792, nhưng ông vội vàng cải chính ngay: "Đến Thị Nại, Nguyễn Ánh cho binh giỏi lên bộ đốt thuỷ trại Tây Sơn, Nguyễn Văn Trương Nguyễn Văn Thành, lấy thuyền Long, Phụng xông thẳng vào. Nhưng theo người Tây, kẻ mở đường lại là Dayot trên chiếc "tầu đồng". Quân Tây Sơn giữ thành tưởng là tầu buôn định khám tầu nhưng khi thấy theo sau đó là cả thủy quân của Nguyễn Ánh nên chận lại. Họ bắn 5, 6 tiếng đại bác. Dayot theo thói quen Tây phương cho kéo cờ lên, bắn trả hết loạt. Rồi chiếc tầu nghiêng lại để bắn nốt phiá bên kia. Tây Sơn tiếp tục bắn nhưng tới lần thứ hai thì cả hệ thống phòng thủ đã bị chiếm."[73]. Chiếc tầu đồng này đã được ông Tạ giới thiệu, trước đó mấy trang, như sau: "Chiếc "tầu đồng" do Dayot chỉ huy tiến vào cửa Thị Nại (1792) là một kinh ngạc lớn cho Tây Sơn" (theo thư của LM J. de Jésus Maria cho LM Trưởng tỉnh, Chợ Quán, 4/3/1790, BSEI, 1940, trang 101-102). Rồi sau đó Nguyễn Ánh mới bắt chước theo các tàu Tây mà đóng tầu vỏ đồng nhờ số kim có được dồi dào trong các cuộc trao đổi thương mại"[74]. Coi thường sử gia triều Nguyễn là quyền của ông Tạ. Nhưng thử xem ông dẫn chứng được "người Tây" nào hay ho hơn, đã cho ông biết: "kẻ mở đường lại là Dayot trên chiếc "tầu đồng", và kể lại trận chiến lạ lùng, mà quân Tây Sơn thấy tầu Dayot, tưởng là tầu buôn định khám, nhưng thấy quân Nguyễn Ánh theo sau bèn chận lại, như trên. Hoá ra ông chép theo lá thư của LM J. de Jésus Maria viết ngày 4/3/1790 gửi cho LM Trưởng tỉnh, Chợ Quán, kể về trận Thị Nại xẩy ra tháng 7/1792, tức là ông giáo sĩ Jésus Maria này viết thư kể trước chuyện sẽ xẩy ra hai năm sau! Đã vậy, ông Tạ còn thêm câu: "rồi sau đó Nguyễn Ánh mới bắt chước theo các tàu Tây mà đóng tầu vỏ đồng". Điều này chứng tỏ ông không biết gì về những hoạt động đóng tầu của Nguyễn Ánh, mà chỉ tìm cách hạ thấp Gia Long trước người Âu. Nhưng cái tệ nhất là để đánh đổ những điều do sử gia nhà Nguyễn viết, ông lại lượm lặt những tin tức, không thể tin được, để chứng minh quân đội Gia Long như đám giặc cỏ, răm rắp đi theo một tầu Tây, Tây tự lái tầu đồng, Tây đi trước, Tây kéo cờ, Tây bắn, như thể nước ta là một nước bán khai.
* Như trên đã nói, Bissachère, Ste-Croix, đều không nói gì về "chiến công" Thị Nại 1792 của Dayot. Chúng tôi lại tìm thêm tài liệu về phía các giáo sĩ, ngoài La Labousse, không ai viết gì về việc này kể cả Bá Đa Lộc. Trong thư của Barisy kể lại các trận đánh lớn, cũng không thấy nói đến chiến công này. Và chính Dayot trong bản ký sự cũng chỉ nói đến nhiệm vụ tải lương, không viết gì về chiến công này nốt. Học giả Cadière khi tìm tài liệu trong văn khố Pháp, cũng chỉ thấy: "Công việc mà hai anh em Dayot giúp vua Nam Hà hình như chỉ thuần tuý thương mại. Văn khố của Hội thừa sai Paris, vol. 312, chứa một số khá lớn thư từ của họ (thường ký J.M et Félix Dayot) nhưng chỉ là những thư ngắn nói chuyện tiền bạc "[75]. Dayot xuất thân đại uý, lái tầu buôn, trong các vùng biển giữa Ile de France và Ấn Độ. Nguyễn Ánh đã mượn Dayot theo đúng chuyên ngành. Nhưng vì mắc tội thâm lạm ngân quỹ, nên Dayot bị chuyển sang đội quân lương, dưới sự chỉ đạo của các quan Phan Thiên Phúc, và Nguyễn Đức Chí trong trận Quy Nhơn 1793; dưới quyền Trần Đức Khoan, Nguyễn Văn Mỹ và Nguyễn Kỳ Kế trong trận giải vây Diên Khánh, 1794. Trong 5 năm ở Nam Hà, Dayot chưa từng có nhiệm vụ tác chiến, thì không thể lập bất cứ một "chiến công" nào. Những ngòi bút thực dân đã lấy chức của Nguyễn Văn Trương đắp cho Jean-Marie Dayot. Lấy thành tích của các tướng nhà Nguyễn trong trận Thị Nại 1792 làm thành tích của Dayot, để tạo nên một thứ anh hùng tưởng tượng.
[1] Vân Phong tức Hòn Khói, tỉnh Khánh Hoà, năm Minh Mạng thứ sáu đổi tên là Vân Phong. [2] Thư Le Labousse viết cho các Giám đốc Viện Thừa sai ngày 1/5/1800, Nouvelles Lettres Edifiantes, (Tân Huấn Thư), tập VIII, t. 181-190. [3] Tạ Chí Đại Trường, Lịch Sử Nội Chiến ở Việt Nam, t. 237. [4] Trịnh Hoài Đức, Gia Định Thành Thông Chí, Phong tục chí, t. 148. [5] TL, I, t. 206. [6] Gia Định Thành Thông Chí, Vật Sản Chí, t. 160. [7] TL, I, t. 206. [8] Gia Định Thành Thông Chí, Vật sản chí, t. 162-163. [9] Montyon, Exposé statistique du Tonkin..., I, t. 128. [10] TL, I, t. 206, 223. [11] LT, II, t. 270, 235, 236, 237 và 249. [12] TL, I, t. 251, 267. [13] TL, I, t. 270, 274, 283. [14] Cadière, Doc. Rel, t. 28. [15] TL, I, t. 287, 290. [16] Liệt Truyện II, t. 282. [17] TL, I, t. 407. [18] Taboulet, La Geste française en Indochine, I, t. 249. [19] Faure, Bá Đa Lộc, note 1, t. 201. [20] Theo Maybon, Introduction, Relation Bissachère, t. 27. [21] Cosserat, Notes Biographiques sur les français au service de Gia Long, (BAVH, 1917, III, t. 179. [22] Faure, Bá Đa Lộc, t. 201. [23] Cadière, Documents Relatifs à l'époque de Gia Long, BEFEO, số 12, 1912, t. 28. [24] Cadière, Doc. Rel., BEFEO, t. 67. [25] Dịch lại từ bản đã dịch sang tiếng Pháp, Louvet, La Cochinchine Religieuse, I, Paris 1885, t. 532-533. [26] Mỗi tạ ta là 62kg500. [27] Livre à cân Anh, nặng 0, 453kg. [28] Louvet, La Cochinchine Religieuse I, t. 533-534. [29] Louvet, La Cochinchine Religieuse, I, t. 543-544. [30] Mémoire sur la côte et les ports de Cochinchine par M. Dayot, mandarin à la cour de Cochinchine, pendant les années 1791-1792-1793-1794 et 1795. Archives du Ministère de la Marine... daté de Macao le 1/11/1807 (Lược trình về bờ bể và bến tầu ở Nam Hà của Ô. Dayot, quan Nam Hà những năm 1791-1792-1793-1794 và 1795, văn khố bộ Hải quân... viết ở Macao ngày 1/11/1807 (Taboulet, La Geste Française..., I, t. 250-251). [31] Maybon, Introduction, Ký sự Bissachère, t. 30-32. [32] Chú thích của Maybon: Abel Rémusat, Mélanges asiatiques (Tạp văn về châu Á), 1825, t. 74, 79. [33] Maybon, Introduction, Ký sự Bissachère, t. 33. [34] Pierre de Joinville, La Misson de la Cybèle en Orient (1817-1818), Journal de voyage du capitaine A. de Kergariou (Nhiệm vụ tầu Cybèle ở phương Đông (1817-1818) Nhật ký của thuyền trưởng A.de Kergariou), Paris, 1914, note 2, t. 152-153. [35] Tạ Chí Đại Trường, Lịch sử nội chiến ở Việt Nam, t. 235. [36] Launay, Histoire de la Mission de la Cochinchine (Lịch sử truyền giáo ở Nam Kỳ), III, note 1, t. 209. [37] Launay, III, t. 295. [38] Cadière, Les français au service de Gia Long, Leur correspondance, BAVH, 1926, IV, t. 365. [39] Launay, III, t. 296. [40] LT, II, t. 282. [41] Liệt Truyện, Trần Đại Luật, II, t. 295-296. [42] Launay, t. 301-302. [43] TL, I, t. 318. [44] TL, I, t. 327-328. [45] Launay, t. 302-303. [46] Launay, III, t. 303-304. [47] Tạ Chí Đại Trường, Lịch sử nội chiến ở Việt Nam, t. 298-299. [48] Liệt Truyện, II, Nguyễn Văn Thành, t. 374. TL, I, t. 317. [49] Tóm tắt lời Sainte-Croix, Introduction, Relation de La Bissachère, t. 85-87. Faure, Bá Đa Lộc, t. 216. [50] Launay, III, t. 302. [51] Cadière, Documents relatifs à l'époque de Gia Long, , BEFEO, số 12, 1912, t. 35. [52] Cadière, Doc. Ref. BEFEO, t. 58. [53] TL, I, t. 590. [54] Cadière, Doc. Rel. BEFEO, t. 59. [55] Archives M-E, 801, p.1253, Cadières, Doc. Rel., BEFEO, t. 58, note 1. [56] Cadière, Doc. Rel. BEFEO, t. 61. [57] Barrow, Voyage à la Cochinchine... II, t. 218. [58] TL, I, t. 286. [59] TL, I, t.286-287. [60] Maybon, Histoire moderne du pays d'Annam, t. 279, 310. [61] Le Labousse, Nouvelles Lettres Edifiantes VII, t. 216-225. [62] Le Labousse, Nouvelles Lettres édifiantes, VII, t.217-219; Maybon, Histoire moderne..., t. 311-313. [63] Cadière, Doc. Rel, BFFEO, t. 29. [64] Thư Le Labousse viết trong tháng 6/1792, Launay, III, t. 281-283, 284, 296, 297, 298, 299. [65] Sử Ký Đại Nam Việt, t. 58-59. [66] Taboulet, La Geste française en Indochine, I, 1955, t. 249. [67] TL, I, t. 286. [68] Thư Bá Đa Lộc gửi M. Boiret, Montyon, Exposé Statistique du Tonkin..., II, t. 143. [69] TL, I, t. 293. [70] TL, I, t. 308. [71] TL, I, t. 286-287. [72] TL, I, t. 287. [73] Tạ Chí Đại Trường, Lịch Sử Nội Chiến ở Việt Nam, t. 259. [74] Tạ Chí Đại Trường, Lịch Sử Nội Chiến ở Việt Nam, t. 236-237. [75] Cadière, Doc. Rel. BEFEO, Note số 1, t. 72. Thụy Khuê © Copyright Thuy Khue 2015
|