Thụy Khuê Khảo sát công trạng của những người Pháp giúp vua Gia Long
Chương 21
Olivier de Puymanel (1788-1799)
Olivier de Puymanel và Laurent Barisy là hai người Pháp đã giúp Nguyễn Vương trong việc mua vũ khí ở nước ngoài, phục vụ đến khi từ trần và không phản bội. Nhưng sự tôn vinh đồng loạt và tột đỉnh của các sử gia thuộc địa về nhân vật Olivier de Puymanel, như vị "kỹ sư đầu tiên" của nước Việt, xây dựng các "thành đài Vauban", "thành lập bộ binh" Nam Hà, đã tạo ra một Olivier khác hẳn, không giống với con người đích thực, thể hiện qua thư từ, tài liệu gia đình, và những việc Olivier đã làm trong lúc ở Việt Nam. Olivier tân tạo này, được Wikipédia Pháp thăng chức Tướng (Général) với lời tổng kết: "Olivier de Puymanel (1768-1799) là, một người Pháp, một nhà xây dựng và một nhà tổ chức quân đội Việt Nam dưới triều Nguyễn". "Công trạng" này sẽ được gắn bó với "thành tích" xây hai thành Gia Định và Diên Khánh. Wikipédia tiếng Anh và tiếng Việt phỏng theo bản tiếng Pháp, tiếng Việt còn viết thêm: "Puynamel được ghi nhận là đã huấn luyện 50.000 quân Nguyễn", là "người có vai trò khá quan trọng trong lịch sử Việt Nam". Để tìm lại sự thực về con người có vai trò khá quan trọng trong lịch sử Việt Nam này, chúng ta phải nhìn lại hành trình của Puymanel, từ đầu.
I. Gia thế và lý do sang Nam Hà
Trình độ học vấnỞ tuổi 12, Olivier de Puymanel đã viết thư xin cha cho phép đổi trường "vì con không chịu nổi ở đây nữa. Sáng nay, người ta đã định quất roi vì tội con không thuộc bài"[1]. Chín năm sau, Olivier viết thư ngày 15/7/1789 cho M. Letondal, quản thủ tu viện Macao, câu đầu như sau: "Je regrette touts les jours de n'avoir pas été à Macao où j'aurois pu faire tout ce qui eut dépendu de moi pour mariter d'être connu de vous" [Je regrette tous les jours de ne pas avoir été à Macao où j'aurais pu essayer de tout faire pour mériter votre confiance] "Con tiếc hoài đã không ở Macao, nơi con có thể làm hết sức mình để xứng đáng được cha tin cậy"[2]. Cả ba lá thư của Puymanel do Cadière sưu tầm và in lại trong bài Leur correspondance (Thư từ)[3] đều đầy lỗi như thế. Qua những câu, chữ trên, ta thấy Puymanel, ở tuổi 21, vẫn còn phạm những lỗi: chính tả, từ vựng, văn phạm, cấu trúc câu và diễn đạt ý tưởng. Vậy mà Taboulet dám viết: "cuối cùng anh hoàn thành việc học ở Louis Le Grand"[4]. Mà Louis Le Grand là trường trung học nổi tiếng của Pháp, chỉ nhận những học sinh ưu tú. Một người viết tiếng Pháp như Puymanel, chắc chắn không thể được nhận vào trường Louis Le Grand. Năm 1922, trong bài diễn văn đọc trước Thống Chế Joffre, học giả Cadière cũng đã có ý so sánh Puymanel với thống chế Joffre, xuất thân trường Polytechnique, là trường đào tạo kỹ sư nổi tiếng nhất nước Pháp. Hơn 20 năm sau, Taboulet, bạ thêm cho Puymanel cái vinh hạnh là "cựu học sinh Louis Le Grand", để "kiện toàn nền học vấn" của "kỹ sư" Puymanel, do chính các tác giả thuộc địa sáng chế và phổ biến. Đó là manh mối câu chuyện người ta đã làm thế nào để nặn một cậu bé lười học từ nhỏ, đến tuổi 21 vẫn thất học, thành một "kỹ sư", rồi "nhà kiến trúc thành đồn Vauban" và ông "Tướng xây dựng quân đội" cho cả một dân tộc!
Gia thếTheo di chúc của Olivier de Puymanel, thì Victor-Louis-Joseph-Cyriaque-Alexis Olivier, sinh tháng 4/1768 tại Carpentras [Vaucluse, Pháp], con của Augustin Raymond Olivier và Françoise Louise Vitalis[5]. Theo Taboulet, Olivier de Puymanel, có họ là Olivier, có tên là Victor, Alexis... (người Pháp có nhiều tên -prénom-). Puymanel là tên mảnh đất của gia đình Olivier ở gần Carpentras[6]. Olivier sinh ngày 8/8/1768[7]. Trong gia đình, để phân biệt với các anh, Olivier de Puymanel được gọi là Victor hay Puymanel. Trong thư viết tại Avignon ngày 9/12/1937, gửi tập san Đô Thành Hiếu Cổ (BAVH), bác sĩ L. Gaide cho biết: ông được vị quản thủ thư viện Carpentras cho bản sao 2 lá thư của người anh ruột Puymanel là tu sĩ Vitalis-Ignace, viết cho cha về Puymanel. Hai thư này -sẽ được đăng dưới tựa đề Deux lettres inédites du frère du colonel Olivier (Hai thư chưa in của anh đại tá Olivier) trên BAVH, 1938, I, t. 63-67- đề ngày 28/11/1787 và 30/11/1787, tức là một tháng trước khi Puymanel lên tầu ở Lorient đi Ấn Độ và Nam Hà, trong đó linh mục Vitalis kể lại chuyện người em Puymanel. Ngoài ra, bác sĩ Gaide còn cung cấp thêm một số thông tin về gia đình Puymanel, như sau: Victor-Louis-Alexis Olivier de Puymanel, sinh trong một gia đình thế giá, cha làm Chưởng ấn tại Tối cao pháp viện Carpentras; có hai anh: anh cả, Gabriel Raymond, sinh ngày 10/2/1753, học luật, đỗ tiến sĩ ở Avignon năm 1778. Năm 1790, được bầu làm dân biểu quốc hội. Sau cùng, làm thẩm phán toà thượng thẩm Nimes. Vitalis-Ignace, sinh ngày 13/2/1764, tại Carpentras, đi tu, trở thành Chanoine (chức sắc trong hàng giáo phẩm) tại thánh đường Saint Siffen, Carpentras. Chỉ hơn Puymanel có 4 tuổi, nhưng vị linh mục này cư xử và lo lắng cho em không khác gì cha vậy. Nhờ hai lá thư của ông viết vào đúng thời điểm Puymanel sắp lên tầu đi Ấn Độ, mà chúng ta biết khá rõ đầu đuôi câu chuyện viễn du của Puymanel, về tính tình, hạnh kiểm và tại sao, sinh trưởng trong một gia đình thế giá như vậy, mà lại phải đầu quân tình nguyện làm lính thuỷ.
Thư ngày 28/11/1787 của linh mục OlivierThư này chia làm hai phần, cách nhau một hàng nhiều chấm, có thể là hai thư chắp lại, vì chủ đề khác nhau. Phần đầu, vị tu sĩ giải thích cho cha về chuyến đi Ấn Độ sắp tới của em mình. Đối với Châu Âu, thời đó, Á Châu là Ấn Độ, và Nam Hà là một phần của Ấn Độ. Người Âu thường hình dung Ấn Độ, trong đó có Nam Hà, với những tiểu vương đầy quyền uy, bạc vàng châu báu. Lối ăn mặc của Hoàng tử Cảnh khi sang Pháp: áo gấm đỏ, hoa vàng, đầu đội khăn xếp, thắt nơ, trông giống một "tiểu vương Ấn Độ", được ghi lại trong bức họa chính thức của triều đình Pháp cho thấy hoàng tử là một đứa bé đẹp và sang trọng. Sau này Shihõken Seishi, thủy thủ Nhật, khi đến Gia Định, được yết kiến vua, cũng viết: "Thái tử độ trạc hai mươi tuổi, rất đẹp và sang trọng không ai sánh nổi. Trong tất cả các nước mà tôi ghé qua trên đường trở về [Nhật], chúng tôi chưa thấy ai đẹp như ông". Trong khung cảnh xa hoa của Versailles, hoàng tử Cảnh đã trở thành Le Petit Prince, và, theo những báo săn tin sốt dẻo của hoàng triều thời đó, được Faure chép lại, thì người ta thích thú theo dõi các trò chơi của hai hoàng tử cùng tuổi, con Louis XVI và con Gia Long, trong vườn thượng uyển Versailles. Léonard, người thợ chải tóc nổi tiếng cho hoàng hậu Marie-Antoinette, đã "cảm hứng" từ chiếc khăn lạ của Hoàng tử Cảnh, để sáng tạo lối chải tóc "kiểu hoàng tử Nam Hà" cho các ông và "búi tóc kiểu Tầu" cho các bà hoàng phái[8]. Cậu hoàng tử nhỏ bé Cảnh, trong bối cảnh đó, thực sự đã là một "đại sứ" cho cha ở trời Tây. Và khi gửi hoàng tử trở về nước với giám mục Bá Đa Lộc trên tầu Dryade, vua Louis XVI đã ra lệnh cho thuyền trưởng hiệp sĩ de Kersaint phải đối đãi theo đúng nghi lễ, để Hoàng tử, vị Giám Mục và đoàn tháp tùng dùng bữa với các sĩ quan trên tầu[9]. Trong không khí "vương giả linh đình" như thế, linh mục Vitalis cho việc em mình được đi cùng tầu với hoàng tử Nam Hà, là một vinh dự, một giấc mơ "ngàn lẻ một đêm", được đến một đất nước giầu có ở phương Đông, mà cậu hoàng tử bé nhỏ kia, chính là hình ảnh trong sáng phản ánh quyền năng, bạc vàng, mà em mình có thể dễ dàng đạt được. Nhất là người em này, không phải là một người con mẫu mực, năm trước đã phạm một lỗi lớn, tức là bỏ nhà đi hoang ở Le Havre, và hiện ông đang còn phải bù đắp trả nợ cho em về chuyến đi hoang này. Bức thư linh mục Vitalis viết cho người cha như sau: Cha kính mến, "Trong khi con đang lo bù đắp những phí tổn của chuyến đi Le Havre [chỉ vụ Puymanel bỏ nhà trốn đi Le Havre], thì cơ hội may mắn tình cờ đến, con vội chụp ngay, đó là [sự giúp đỡ của] ông bá tước de Capellis, mà con đã sưởi ấm tình bạn và ý muốn [của con là phải] làm gì hữu ích cho quê mình, đặc biệt cho cha mẹ và gia đình ta [Lời giáo đầu để giải thích tại sao ông đã cho em xung vào lính tình nguyện]. Hiện nay con rất bận nên không thể kể hết chi tiết những lý do đã khiến con thúc đẩy em con khi nó nhất quyết định đi sang Ấn Độ, đặc biệt vùng Nam Hà; nó đã chỉ ở lại Paris có bốn ngày, và khi cha nhận được lá thư này, thì nó đã đi Lorient với Giám Mục Adran và hoàng tử Nam Hà rồi. Chuyến đi này không phải là chuyện bất cẩn như lần trước [ý nói vụ trốn nhà đi Le Havre năm ngoái], nó đi với tư cách sĩ quan tình nguyện thuỷ binh [linh mục Vitalis tưởng lầm em mình có thể vào lớp sĩ quan tình nguyện], và nó rất sung sướng được xuống tầu của vua, cùng với hoàng tử. [Tầu Dryade của hoàng gia được lệnh vua Pháp đưa Hoàng tử Cảnh về nước với tất cả những vinh dự dành cho một hoàng tử]. Ông de Kersaint thuyền trưởng tầu này, sẽ lo cho nó, dẫn nó đi và đưa nó về, trừ khi nếu được thăng tiến thì nó sẽ ở lâu, dưới sự che chở của các quyền lực mạnh mẽ ở Ấn Độ, hay nó làm sáng giá những điều nó biết và những điều nó sẽ học được. Nó sẽ được gởi gấm kỹ càng cho ông de Kersaint và ông sẽ cần kiệm cung ứng cho nó trong mọi trường hợp, những gì nó cần dùng; có thể, chỉ trong vài năm nó sẽ được huân chương La Croix de Ste-Louis [Huân chương quân đội] và mang về rất nhiều tiền, nếu có hạnh kiểm tốt. Tầu này chở nhiều sinh viên sĩ quan trẻ của ông Capellis và ông sẽ giới thiệu nó với họ và nó cũng muốn có thư giới thiệu với tất cả các quan trấn thủ các nơi mà nó sẽ ghé lại; con nghĩ nghề nó chọn là tốt, trừ những hiểm nguy không thể tránh được mà con đã chỉ rõ cho nó, con cũng đã cố gắng kéo nó chọn một dịch vụ ít động tác hơn, và con đã để cho nó tự quyết định lấy một mình; nó sẽ ra đi với sự chu toàn bổn phận của một con chiên. Con viết thư này, chính là để nhờ cha đến xin ông d'Entrecasteaux viết thư ngay cho em ông ấy hiện làm quan trấn thủ Ile de France, để thành khẩn gửi gấm Puymanel và xin ông ấy hết lòng giúp nó những gì mà ông ấy có thể giúp được. Con đã giao hẹn với ông de Capellis rằng ông sẽ đưa cho em con một lá thư cho quan trấn thủ, báo với quan trấn thủ rằng ông d'Entrecasteaux [anh] sẽ gởi gấm người thanh niên này cho ông [em], trong lá thư sắp tới. Cha cũng nên viết thư cho bá tước de Capellis, ở triều đình Louvre, để tỏ lòng biết ơn của gia đình mình đối với sự hết sức ưu ái mà ông bá tước đã dành cho em con và đã tạo phương tiện để nó có được sự thăng tiến nhanh, và cha cũng còn phải cám ơn ông ấy về những gì ông đã làm để ngăn nó không cho nó làm chuyện khởi hành bất cẩn ở Le Havre, mà một lần khác con sẽ kể cho cha nghe chi tiết hơn về vụ này. Con hôn cha mẹ các anh chị em. Khí hậu ở Nam Hà tốt. Puymanel sẽ viết thư cho cha trước khi rời Lorient và [nếu] M. d'Entrecasteaux [anh] đưa thư của ông ấy cho cha ngay, thì có thể lá thư này sẽ đến Lorient trước khi em con đi. Cha chỉ cần bỏ thư trong phong bì, đề địa chỉ M. de Versine, sĩ quan Pháo binh tại Lorient, Bưu điện lưu trữ; trong trường hợp hợp mà em con đã đi rồi, thì ông de Versine sẽ lo liệu gửi thư này cho ông d'Entrecasteaux [em][10]. Người anh tu sĩ này đã làm hết sức để gửi gấm em, và Olivier de Puymanel thực sự là một loại "con ông cháu cha" có nhiều ân sủng, đã được hưởng mọi sự giúp đỡ che chở của gia đình và những người quen biết, đều làm lớn, trong xã hội thời ấy. Sau đó, lá thư bị bỏ dở hoạc bị cắt ngang, với nhiều chấm... Rồi đến đoạn tiếp theo dưới đây, linh mục Vitalis giải thích tại sao ông lại chọn cho em con đường tình nguyện lính thủy, (có lẽ vì ông de Capellis đã cho ông biết Puymanel không thể học lớp "sĩ quan"), trong khi có thể chọn chỉ đi viễn du, rồi ở lại nơi nào có của cải và có việc làm tốt. Sở dĩ ông giấu em, không nói đến chuyện có thể chọn sự viễn du, vì ông chưa thấy một đề nghị cụ thể nào về ngành công binh mà ông muốn người em đi vào. Ông viết: "Còn về chuyện em con, nó nói với con rằng, nếu nó muốn đi Nam Hà, thì chuyến đi đã xong, Giám mục Adran phải đi ngày thứ năm, rằng đó là một cơ hội tốt (...) con đã phải đến ăn chung bữa với nó, để nói cho nó biết những đề nghị của ông de Capellis và ông cho nó 24 giờ để suy nghĩ. - Nó cũng chẳng cần đến ngần ấy thời gian, khi biết ông de Capellis đã dàn xếp xong tất cả, nó bị kích thích ngay cho đến hôm sau. Dù vận hội này đem lại cho em con những lợi ích mà nó mong đợi, con đã giấu nó khả năng được lựa chọn giữa việc chỉ đi viễn du hay là làm lính thuỷ tình nguyện đi Ấn Độ, vì chưa có gì chắc chắn, dẫn nó tới ngành công binh [ý nói hiện giờ chưa có chỗ nào nhận Puymanel vào làm việc trong ngành công binh], mà cơ hội [đi Nam Hà] thì khẩn cấp, cần phải quyết định ngay tức khắc, hoặc nắm lấy hoặc kéo dài tình trạng không dứt khoát của thằng nhỏ này, mà sự thiếu kiên nhẫn là tính khí hàng đầu. Con biết rằng nghề lính thuỷ tình nguyện có lợi ở chỗ là thời gian đi biển sẽ được tính tăng gấp đôi, đối với những người nhắm được huân chương La Croix de St-Louis, con cũng biết rằng trong những chuyến đi trường kỳ, cả lần đi, lẫn lần về, chỉ một món hàng rất nhỏ được phép mang theo cũng kiếm được một món hời [những thuỷ thủ đi biển ngày trước, được phép mang theo một gói hàng nhỏ gọi là pacotille, để bán]. Ông de Capellis nói với con rằng thằng nhỏ này là đứa tiêu tiền như phá, đi bể thì nó không có gì để tiêu xài, tiền lương rất ít, nhưng đã không phải trả tiền ăn và tiền phòng. Sau cùng, con đã quyết định giúp nó được đi xem các xứ xa xôi trong một chuyến đi hiếm hoi đưa đến một xứ sở giầu có, và tình thân của giám mục Adran có thể giúp ích rất nhiều cho nó"[11].
Thư ngày 30/11/1787 của linh mục OlivierHai ngày sau khi viết lá thư trên, linh mục Vitalis gửi cho người cha lá thư thứ nhì sau đây. Thư này cũng chia làm hai phần. Phần đầu, ông tỏ ý hết sức hối hận về quyết định đã ghi tên cho em vào lính tình nguyện và nói với cha: Nếu muốn thì cha có thể bãi bỏ hết: "Gửi Ông Olivier, Chưởng ấn toà Thượng thẩm Carpentras, Đêm qua, con đã đưa em Puymanel lên xe ngựa đi Rennes và nó sẽ tới nơi trong ngày thứ năm; còn phải mất hai ngày nữa nó mới tới Lorient. Mặc dầu cha đã cho con toàn quyền đối với đứa em này, mặc dù con đã dẫn dắt nó như một người cha, nhưng ngay sau khi nhận được thư này, cha có thể viết thư cho nó, gửi tới bưu điện lưu trữ ở Lorient thì rất có thể nó còn nhận được; và cha còn kịp huỷ bỏ hoàn toàn những gì con đã làm. Con có cảm tưởng rằng chuyến đi lâu dài như thế này sẽ làm cha mẹ buồn, và nếu vì hoàn cảnh khiến cha thấy cần phá bỏ những điều con đã thoả thuận trước, con sẽ tự trách mình là đã dám trộm quyền cha mẹ để định đoạt."[12] Phần kế tiếp, linh mục Vitalis mới giải thích tất cả các lý do đã khiến ông hành động như vậy, việc này liên quan tới hạnh kiểm của em ông. Những lời gần như tuyệt vọng của vị linh mục sau đây nói lên những khó khăn và đau khổ của một người anh, trước một người em vô hạnh mà giáo dục gia đình đành bó tay, phải để cho trường đời dạy dỗ: "Có những trường hợp khiến ta không thể chờ đợi lời khuyên, mà cha sẽ thấy qua câu chuyện nhỏ sau đây: Victor đi Le Havre, như cha đã biết, nó thực hứng khởi về chuyến đi này cho nên bao nhiêu lá thư với lời lẽ ngọt ngào của ông de Bonneuil, mà trong vài ngày nữa con sẽ chuyển cho cha, trong đó ông đã ca tụng tình yêu của cha mẹ, cũng chẳng làm cho nó động lòng. Đến nỗi, trong lúc ở lại tu viện này, nó còn tìm cách đánh lừa ông Bonneuil, chỉ cho ông cách xếp đặt [cho nó] về Paris, để nó trở lại tự do. Nhưng nó đã đi [Le Havre] và biết tất cả các mối hiểm nguy mà nó phơi mình, bằng cách đến nơi với ít tiền, không trương mục, không lời giới thiệu, chỉ có mưu mẹo là vài quyển sách, ít dụng cụ toán học và quần áo để bán, những nguồn lợi mà trong những xứ đắt đỏ, cách xa 2000 dặm, sẽ bị cạn kiệt. Cha xét xem, sau đó, nó đã công nhận với con những hiểm nguy đó, và con muốn tin rằng, như nó đã nói với con, là nó không dám nhìn mặt gia đình và bạn bè, sau cái việc xấu xa mà nó vừa làm, để Thượng Đế xét xử nó. Tuy nhiên de Bonneuil lại dàn xếp cho nó, và cuối cùng, nó lại trở về nhà con, con để cho nó nói thoải mái, cho nó bớt xấu hổ vì chuyện nó đã làm, cho nó hồi hương với những người bạn bị nó lừa. Việc dại dột phải được quên đi để sửa lỗi lầm, trong lúc con muốn thoả thuận với nó để trả ít hơn, một số hoá đơn. Con đã nói với nó rằng, những bộ quần áo đắt tiền, tiêu phí phạm, con sẽ không trả tiền cho người sản xuất, mà bắt nó phải bán lại; nó trả lời, chẳng còn bộ nào; con lờ sự bực bội của nó, đợi một lúc khác, hỏi nó về số tiền 300 ls [300 Louis] mà Thiébault nói chắc; nó bảo đảm đã đưa rồi. Con vặn hỏi, nó bối rối, sau cùng nó thú thực là nó chưa nhận được. Con nói với cha những việc này không phải để kết tội nó mà để cho cha biết, trong vòng có một tháng mà thằng này đã mất hết tính thật thà, nó đã bao lần nói dối tất cả mọi người, cả sự nó muốn cắt đứt với gia đình, nó mua một xe ngựa hai bánh giá 30 Louis để biếu BO, bán đồng hồ đeo tay 8 Louis cho BVS. Bức tranh này làm con khá đau lòng, nhưng vì cái nền [của nó] vẫn còn tốt, con nghĩ rằng cứ nhẹ nhàng [khuyên bảo], mặc dù nó có tánh quyết định và khó bảo, con hy vọng, nó sẽ trở về với những đức tính ban đầu. Chủ đích của con là thử nghiệm đắp cầu công binh với những mảnh vụn lượm lặt được..."[13] Lá thư kết thúc dở dang ở đây. Lời thư kín đáo quá, nhiều khi nói không rõ, úp mở, hoặc nói chưa hết ý, nhưng cũng cho ta mường tượng được vụ Puymanel trốn nhà lên Le Havre năm 1786 rồi bị chận lại, là nặng nề, có những điểm không thể tha thứ được. Dường như Puymanel đã lấy trộm gia đình vài quyển sách, ít dụng cụ toán học và quần áo để bán, và có dự định sẽ từ Le Havre vượt biển đi rất xa, cho nên Vitalis mới viết: "những nguồn lợi mà trong những xứ đắt đỏ, cách xa 2.000 dặm, sẽ bị cạn kiệt". Dù sao chăng nữa, người anh linh mục, vì mất hết tin tưởng vào đứa em hư hỏng, nên đành phải chọn cho em con đường "lính thuỷ tình nguyện", và cuối cùng ông đã hối hận, muốn cha quyết định lại số phận cho em. Tuy vậy, cha đã đồng ý với anh, không sửa đổi chương trình sang Ấn Độ và Nam Hà, Puymanel được chính thức nhận vào lính tình nguyện binh nhì ngày 15/12/1787. Nhưng tầu chưa khởi hành ngay, phải đợi một tháng sau mới đi được, vì không thuận gió mùa.
Thư ngày 21/12/1787 của Gabriel OlivierLá thư của người anh cả Gabriel Olivier viết cho cha ngày 21/12/1787, sau thư của linh mục Vitalis gần một tháng, cho biết đến ngày 21/12/1787, Victor vẫn chưa đi vì tầu còn phải đợi gió Bắc thuận chiều, mới có thể giong buồm khởi hành. Trong thư, đoạn đầu, ông viết về sự hồ hởi của Victor về chuyến đi này, và an ủi cha rằng ông de Kersaint đã đưa nó đi, thì thế nào cũng phải đưa nó về tới bến, đó là bổn phận của người thuyền trưởng, vv... Đoạn sau ông viết: "Đúng là Victor có dự định ở lại Nam Hà để tìm một sự thăng tiến lớn nhất. Nó đã hứa với con là chỉ dừng lại ở đấy, nếu nó chắc chắn bảo đảm là kiếm được của cải. Tuy nhiên, để theo đúng ý cha, con đã nhờ ông de Capelis [Capellis] viết thư cho ông de Kersaint dặn ông này -là người chỉ huy thuỷ thủ đoàn, không ai được rời tầu mà không có nghiêm lệnh của ông- chỉ cho phép nó [rời tầu] trong trường hợp người ta cống hiến cho nó sự thăng tiến lớn lao và bảo đảm. Một mặt khác, con còn nhân danh cha, viết thư cho Giám Mục Adran, để năn nỉ ông theo đúng như ý cha, mà khuyên nhủ nó. Ở đầu kia trái đất, nó vẫn còn giữ được mối liên lạc với quyền uy hoà dịu của cha là điều rất tốt cho nó, dù xa xôi cách trở hai ngàn dặm"...[14] Lá thư này nói rõ quyết định của Puymanel đi Nam Hà là để tìm của cải. Người anh cả, không rõ lắm về quy chế lính tình nguyện: bởi nếu Puymanel đã đăng lính tình nguyện rồi, thì không thể tới nơi nào, có việc tốt, muốn xuống thì xuống. Vì vậy, khi đến Côn Lôn, Puymanel xuống cùng với những người trong nhóm pháo binh, và ở lại, sẽ trở thành lính đào ngũ.
Ngày khởi hành và sự tiến thân của PuymanelNgày tầu Dryade khởi hành được xác định trong sổ hành trình của tầu và qua hai thư sau: - Thư M. Thévenard, quản đốc quân nhu Lorient gửi bộ trưởng Montmorin ngày 28/12/1787: "Hai tầu Méduse và Dryade cuối cùng đã khởi hành hôm qua, vào lúc 2giờ 30 chiều, theo ngọn gió đông bắc đầu tiên, và chắc nó sẽ tiếp tục thổi mạnh. Đức giám mục Adran, hoàng tử Nam Hà, phân đội pháo binh và những hành khách khác cùng với hành lý, đều có mặt trên hai tầu này đúng như chỉ thị của ông [bộ trưởng]."[15] - Thư Bá Đa Lộc viết từ Ile de France, ngày 14/4/1788 gửi bộ trưởng Montmorin: "Tôi vừa tới Ile de France, sau 102 ngày vượt biển... Tầu Méduse đi cùng với chúng tôi đến Hảo Vọng Các (Cap de Bonne-Espérance), rồi đi trước để đưa tin, thế mà vẫn chưa đến. Chúng tôi sợ nó đã bị buộc đỗ lại ở Hảo Vọng Các..."[16] Như vậy, ta biết chắc Puymanel khởi hành từ Lorient (Bretagne) ngày 27/12/1787, trên tầu Dryade, điạ vị binh nhì tình nguyện. Trên tầu, ngoài phái đoàn Bá Đa Lộc và Hoàng tử Cảnh, còn có một phân đội pháo binh. Chính những người lính trong đội pháo binh này, sẽ chỉ cho Puymanel biết về ngành pháo, việc này sẽ giúp đỡ rất nhiều cho anh, khi đến giúp vua Gia Long. Một số trong bọn họ sẽ đào ngũ cùng Puymanel ở Côn Lôn tháng 9/1788. Theo sự ghi chép của Faure, thì, tầu Dryade, rời Lorient ngày 27/12/1787, chở Hoàng tử Cảnh và giám mục Bá Đa Lộc cùng đoàn tùng về Pondichéry: Đi từ Lorient ngày 27/12/1787, đến Ile de France và ở lại từ (8-26/4/1788). Đến Pondichéry, ở lại từ (18/5-15/8/1788). Để giám mục Bá Đa Lộc và Hoàng tử Cảnh ở lại. Ba tháng sau, đi Côn Lôn, ở lại từ 15 đến 19/9/1788; Olivier và 8 người lính đào ngũ tại đây[17]. Faure cho biết chi tiết những lính đào ngũ này: Olivier, tình nguyện binh nhì (chức nhận ngày 15/12/1787), đào ngũ ngày 19/9/1788, cùng Pierre-Marie, lính pháo hạng hai (2e canonier); Lemerle (François), thuỷ thủ (matelot), Maume (Dominique), thuỷ thủ; Lauzy (Charles), thuỷ thủ khuân vác; Le Tousse (Charles), thủy thủ coi buồm; Quermorvant (Francçois), thuỷ thủ khuân vác; Corré (Corentin) thuỷ thủ khuân vác; Terray (Jean-Baptiste) thuỷ thủ nhỏ[18]. Về Olivier, Faure viết: "Tầu Dryade tới Côn Lôn ngày 15/9/1788, để lại đây cha Paul Nghị [Hồ Văn Nghị], người thân cận của Bá Đa Lộc và 10 lính thuỷ Nam Hà được đưa [từ Pondychéry] về xứ. Tầu cũng để lại một ngàn súng được mua từ Pháp cho vua Nam Hà. Tầu mất ở đây một lính tình nguyện binh nhì, ông Olivier de Puymanel đào ngũ cùng mấy thủy thủ pháo binh. Người lính tình nguyện trốn thoát ngày (19/9/1788) ở Côn Lôn, chẳng bao lâu sẽ nổi tiếng ở Nam Hà, sẽ trở thành Vệ uý Olivier de Puymanel."[19] Sau khi ghi lại những điều chép từ sổ hành trình của tầu trên đây, Faure đưa ra những thông tin hoàn toàn dựng đứng, sau đây: - "Người [Bá Đa Lộc] không ngần ngại trao cho anh [Olivier] những nhiệm vụ quan trọng của vị Tham mưu trưởng quân đội Nam Hà". - "Sau [khi đã thành lập xong] hải quân, đức giám mục Adran lo tổ chức quân đội Nam Hà, tới lúc đó chỉ là những băng đảng. Người thanh niên Olivier, về mặt này, là đại diện đặc trách và trực tiếp những quyết định của Đức Cha, một loại Tổng Tham Mưu Trưởng quân đội dưới quyền điều khiển của Đức Cha" - "Olivier de Puymanel lại hân hạnh được đức cha chọn điều khiển trường võ bị tổng hợp này, ở đó phát xuất những sĩ quan và hạ sĩ quan người bản xứ, đã học về quy luật trận địa, họ sẽ thể hiện giá trị và kinh nghiệm ấy trên chiến trường"[20]. Những lời lẽ biạ đặt này, sẽ được người ta chép lại dưới hình thức này hay hình thức khác, và sẽ đi vào "lịch sử". Trở lại với thực tế của Olivier de Puymanel: Trên đường đến Nam Hà, Olivier de Puymanel may mắn được gặp linh mục Hồ Văn Nghị. Hồ Văn Nghị, như chúng tôi đã nhiều lần nhắc đến, là người thân cận của Bá Đa Lộc, đã cứu Nguyễn Ánh thoát chết khỏi tay Nguyễn Huệ ngày trước, cho nên ông là người thân tín của cả Bá Đa Lộc lẫn Nguyễn Vương. Trong suốt thời gian Bá Đa Lộc đem Hoàng tử Cảnh sang Pháp, ông được vua sai đi về nhiều lần giữa Macao và Ấn Độ, để săn tin hoàng tử và làm những nhiệm vụ khác như mua vũ khí cho vua. Khi tầu Dryade chở hoàng tử và Bá Đa Lộc về đến Pondichéry, linh mục Hồ Văn Nghị cũng đã ở đấy. Với chủ đích sang Nam Hà để tìm của, Puymanel đã làm quen với Hồ Văn Nghị trong thời gian ba tháng tầu Dryade đỗ tại Pondichéry. Ngoài ra, trước khi rời Pháp, Olivier còn được người anh Gabriel thay cha, viết thư gửi gấm cho giám mục Bá Đa Lộc. Vậy cũng có thể chính vị giám mục đã "gửi gấm lại" Puymanel cho Hồ Văn Nghị. Con đường tiến thân mà người anh linh mục Vitalis mong cầu cho em mình, đã không xa sự thực. Tầu Dryade đi từ Pondichéry đến Côn Lôn, từ 15/8 đến 15/9/1788, chở cả linh mục Hồ Văn Nghị cùng với 10 lính thủy Nam Hà và "một ngàn súng được mua từ Pháp cho vua Nam Hà". Sự may mắn thứ nhì của Puymanel là được đi cùng tầu với Hồ Văn Nghị về Côn Lôn. Ngày 19/9/1788, Olivier cùng 8 lính khác, đào ngũ và ở lại Côn Lôn. Tại Côn Lôn, đã có sẵn đường dây do Nguyễn Ánh thiết lập từ trước, giao cho Hồ Văn Nghị trông nom, để hướng dẫn và giúp đỡ những thuyền bè ngoại quốc tìm lối vào Gia Định. Vì thế Hồ Văn Nghị đã đưa Puymanel về Sài Gòn yết kiến Nguyễn Vương như một thanh niên con nhà gia thế, được đức giám mục Bá Đa Lộc bảo lãnh.
II. Sự nghiệp và công trạng
Chức vụ và trách nhiệmChức vụ và nhiệm vụ của Olivier de Puymanel được Liệt Truyện nhắc đến qua những hàng: "Mạn Hoè, Đa Vật, Va Nê E, Ô Ly Vi (tức tên là Tín) và Lê Văn Lăng, đều là người Phú Lang Sa" "Đa Vật, Va Nê E, Lê Văn Lăng và Ô Ly Vi, 4 người ấy theo Đa Lộc từ Tây Dương tới Gia Định, xin ở lại làm thân bộc, đều bổ làm Cai đội". "Ô Ly Vi làm đến vệ uý vệ ban trực hậu quân thần sách"[21]. Như vậy, chức vụ đầu tiên của Olivier là Cai đội; nhận chức ngày nào, hiện chưa biết rõ; theo một vài thư sai phái, thì Olivier giữ chức Khâm sai Cai đội. Còn những nhiệm vụ đầu tiên là gì? Qua những chứng từ thu lượm được, chúng tôi tạm kê khai những nhiệm vụ sau đây:
1- Nhiệm vụ thứ nhất: Viết thư sang Macao hỏi tin Quang Trung đại phá quân Thanh. Sau đây là là thư Olivier viết cho M. Létondal, quản thủ tu viện Macao: Từ Sài Gòn ngày 15/7/1789 Thưa cha, Con tiếc hoài đã không ở Macao, nơi con có thể làm hết sức mình để xứng đáng được cha tin cậy. Mấy ông kia đã đem tới lá thư cha viết cho con, làm con rất hân hạnh; những câu chuyện các ông ấy kể, lại càng làm con thêm hối tiếc. Mấy ông này đã may mắn đến đây [Sài Gòn] ngày 3/3 [1789], họ lại đi tuốt luốt đến tận Hà Tiên mà không biết. Nhà vua rất ngạc nhiên thấy chiếc thuyền bé thế mà họ dám leo lên để đi, ngài cũng tiếp đón tử tế nhưng chưa đủ nồng hậu để giữ tình thân. Nhà vua hiện đã lấy lại được ba tỉnh của ông, lại vừa bắt được một tướng ngụy, từ Huế gửi vào, mới đầu ông tha tội, sau rồi có điều nghi ngờ, ông đã sai chém đầu, [chắc là Phạm Văn Tham, ra hàng, được tha, sau bị giết vì bị kết tội liên lạc với Nguyễn Huệ]. Nhà vua đang nóng lòng đợi tầu Pháp đem con ông về. Từ lâu bên địch đã biết rằng nước ta phải giúp ông hoàng này và con đồ rằng sự sợ hãi những tầu Pháp từ Macao đến mà [đứng ở] trên bờ biển nhìn thấy, đã ngăn cản bọn ngụy ở Huế gửi quân xuống đây đầu năm nay, [sau đó đến câu này, không hiểu Puymanel muốn nói gì: comme il avoit coutume de le faire une flotte, pour enlever ledit, le roy n'eut pu y résister]; còn một lý do khác đã ngăn taison [Tây Sơn] là chiến tranh với người Tầu, vì muốn biết rõ chi tiết về cuộc chiến mới đây, nên hôm qua Hoàng Thượng bảo con viết thư này, nhân dịp đại úy Antonio Vincenti [sang Macao]; Hoàng Thượng muốn biết những gì đã xẩy ra trong cuộc chiến tranh này, những mưu toan của người Tầu, sức mạnh của họ như thế nào, Hoàng Thượng chắc rằng với những điều cha biết về người Tầu, cha có thể cho ngài những tin tức chắc chắn hơn là những điều mà ngài đã biết qua các ngả khác, như thế, cha giúp Hoàng Thượng nhiều lắm mà cũng giúp cả con nữa. Con xin bầy tỏ lòng biết ơn..."[22] Lá thư trên đây cho biết một số thông tin: - Ngày 15/7/1789, Olivier đã ở Sài Gòn, và đã được vua sai viết thư cho giáo sĩ Létondal ở Macao, để hỏi về việc Quang Trung đánh nhau với quân Thanh. - Trong thư, Olivier nói đến những chuyện xẩy ra từ tháng 3/1789 ở Sài Gòn, và chính anh cũng nhận được thư giáo sĩ Létondal gửi cho anh vào lúc đó. Như vậy, chắc chỉ ít lâu sau ngày đào ngũ (19/9/1788), Olivier đã được Hồ Văn Nghị đưa về Sài Gòn. - Chúng ta tạm coi lá thư này, là chứng từ về nhiệm vụ đầu tiên Gia Long giao cho Puymanel: viết thư hỏi Macao về việc Quang Trung đại phá quân Thanh.
2- Nhiệm vụ thứ nhì: đặt súng đại bác Faure cho biết khi tầu Méduse chở Bá Đa Lộc và Hoàng tử Cảnh về Sài Gòn, qua Côn đảo, đã đỗ lại từ ngày 19 đến 23/7/1789, và có giao súng đại bác để phòng vệ bến tầu mà Nguyễn Vương mua. Puymanel và những pháo binh đào ngũ nhận việc bố trí các khẩu súng đại bác này: "Tầu Méduse, đỗ lại ở Côn Lôn từ 19 đến 23/7, để lại những khẩu đại bác để phòng vệ bến tầu, rồi ông Olivier de Puymanel và mấy người lính pháo đã đào ngũ năm trước, từ tầu Dryade, đặt vào vị trí ngay."[23] Nếu lời Faure viết trên đây là đúng, thì có thể Puymanel thường đi đi về về giữa Côn Lôn và Sài Gòn, trong thời gian tháng 9/1788 đến tháng 7/1789, cho nên khi tầu Méduse "chở mấy khẩu súng đại bác" về, thì chính Puymanel và những pháo binh đào ngũ, đã nhận lệnh đặt đại bác vào đúng vị trí phòng thủ bến tầu.
3- Nhiệm vụ thứ ba: chế tạo các hạng hoả xa Liệt Truyện, mục từ Trần Văn Học, có ghi một vài việc quan trọng liên quan đến Olivier: "Năm Đinh Mùi [1787], Học đã đến Tiểu Tây [Ấn Độ], lại đáp tầu nước Tây mang tờ biểu về tâu, về đến Ma Lặc [Malacca] gặp thuyền binh nước Đại Tây [Pháp] cùng nhau đều về, đến đảo Côn Lôn đem việc ấy [việc nước Bồ Đào Nha muốn giúp] tâu lên, vua bèn sai Trương Phước Luật đến tiếp, bỗng Học đi thuyền nước Tây gặp gió dạt sang Lã Tống [Phi Luật Tân], hơn một năm mới về đến Gia Định, từ đó Học ở lại theo hầu, đem thông ngôn nước Tây, cùng với Ô-Ly-Vi (người Tây) phiên dịch chữ tiếng Tây, và chế tạo các hạng hoả xa, chấn địa lôi, binh khí. Năm Canh Tuất [1790] đắp thành đất Gia Định, Học nêu đo phân đất và các ngả đường, rồi cùng người Tây là bọn Nguyễn Chấn [Vannier] trông coi chiếc thuyền lớn bọc đồng, theo quan quân đánh giặc."[24] Đoạn Liệt Truyện này đã soi tỏ một số vấn đề: - Ta có thể chắc chắn rằng, nhiệm vụ thứ ba mà Olivier thực hiện, là cùng với Trần Văn Học phiên dịch chữ tiếng Tây, và chế tạo các hạng hoả xa, chấn địa lôi, binh khí. - Nhưng khi Trần Văn Học được giao việc đo đạc để đắp thành đất Gia Định, thì Olivier không tham dự, bởi không thấy Liệt Truyện nói gì cả. - Nhờ việc chế tạo các hạng hoả xa, chấn địa lôi, binh khí, mà Olivier được tuyển vào đội quân Thần Sách, nói đúng hơn là ngành pháo binh của quân Thần Sách.
Việc gán cho Olivier xây thành Gia ĐịnhĐể gán cho Olivier việc xây thành Gia Định, các sử gia thuộc địa dùng nhiều thủ pháp mà chúng tôi đã trình bầy trong những chương trước, ở đây chỉ xin tóm tắt lại: 1- Cadière dựng đứng câu chuyện: "Theo chính sử biên niên đời Gia Long, ông [Olivier] bắt đầu xây thành Gia Định tháng 3-4 năm 1790" (Xem chương 15, Cadière). Thực Lục không hề viết câu này. 2- De Guignes cho rằng: Các ông Olivier và Le Brun "đã cho vua một cái bản đồ thành đài", rồi "nhà vua vội vã xây ngay" nên mới sinh loạn[25]. Người ta sẽ sử dụng ý này của de Giugnes để "chứng minh" Olivier xây và Le Brun vẽ thành Gia Định. Chúng tôi đã chứng minh những lời trên đây của de Guignes đều bịa đặt cả. Le Brun không thể "vẽ" bản đồ thành bát quái, cũng không thể "cho" Gia Long bản đồ để xây thành bát quái, lại càng không thể cùng Olivier "xây" thành bát quái, vì: Thành bát quái Gia Định đắp bằng đất, bắt đầu từ ngày 19/3/1790, mà ngày 13/1/1790 Le Brun mới tới Macao. Vậy Le Brun không thể tới Nam Hà kịp thời để "vẽ bản đồ" hay để "cho" vua bản đồ, và vua đem ra "xây ngay". Về phần Olivier, trước khi đến Việt Nam, anh chỉ là cậu công tử ăn chơi không chịu học hành gì cả, chữ Pháp viết chưa thông, nói chi đến chuyện "kỹ sư", hiểu gì về thành quách, mà đến Việt Nam "xây thành Vauban".
Sự chán nản của người lính xa nhàLá thư viết cho hai người bạn Lewet và Roland ngày 16/4/1793, mà anh gọi là "sĩ quan của vua Nam Hà", Olivier khuyên hai người này nên xưng tội, đã nói lên tâm trạng hoang mang, mất niềm tin của những người lính trẻ, phiêu du vào vùng đất lạ, không được tin tức gia đình trong khi đất nước của họ đang lâm vào tình trạng khủng hoảng đẫm máu sau cách mạng 1789: "Ông Olivier de Puymanel gửi các ông Lewet và Roland, sĩ quan của vua Nam Hà ở Sài Gòn, Vì tôi sẽ đi làm việc ở bên ngoài cả ngày, nên không thể kiếm các anh để báo rằng M. Labousse sẽ đến đây trong ngày, và sẽ trở về thứ bẩy hoặc chủ nhật. Vậy tùy các anh có muốn nhân cơ hội này để xưng tội như các anh từng ngỏ ý với tôi. Các anh chưa biết rằng tôi hết sức thoả mãn về ý tốt này của các anh như thế nào, và tôi tin rằng chỉ trong ít ngày, các anh sẽ cảm thấy sự êm dịu trong lòng mà lương tâm cho ta, tôi đã cảm thấy từ mấy ngày nay rồi, và tin tôi đi, tôi thề vời các anh đó, trạng thái này tốt hơn hết tất cả những gì mà ta thường gọi là khoái lạc. Tôi cũng xấu hổ vì nhiều khi đã làm gương xấu cho các anh, và tôi muốn sửa lỗi đó, vì tôi tin chắc rằng sự chơi bời dẫn đến sự vô đạo (irréligion) và sự vô đạo quá mức -nếu các anh đã được đọc mấy tờ báo từ Âu Châu gửi sang năm nay, các anh sẽ không khỏi khóc nức lên vì buồn, vì xấu hổ, thấy những tội ác dã man mà đồng bào ta phạm phải; nếu so sánh [những kẻ ấy] với những người trước đây ta thấy ở công trường hành hình [Place de la Concorde ngày nay], thì họ đều là những người lương thiện, và nếu ta có thể làm họ sống lại và [tổ chức] một nghị viện với họ, thì sẽ không ai bầu cho việc xé xác hay thiêu sống. Những kẻ Ăn thịt người ngày hôm nay, không bị trừng phạt ở Pháp, đừng có tưởng rằng tình yêu tự do dẫn đến những tàn khốc như thế, đó chỉ hoàn toàn là sự thù oán một đạo giáo thần thánh không có chút tội lỗi nào. Chúng ta hãy cố gắng làm tròn bổn phận mà đạo này dạy ta, chúng ta đã uổng công hết lòng phụng sự vua Nam Hà, làm sao ổng có thể đền bù sự hy sinh tính mạng của chúng ta cho ổng, vậy chúng ta hãy hy sinh cho thượng đế và sẽ được trả công gấp trăm lần. Kẻ hèn phục vụ và tuân lệnh các anh. Victor Olivier[26] Lời thư nói lên nỗi chán nản của người thanh niên đối với bản thân: sau ăn chơi trác táng là lời xưng tội. Lời thư nói lên sự tuyệt vọng về thời cuộc trên quê hương anh, đang ở trong thời đại Kinh Hoàng (La Terreur) sau Cách Mạng 1789. Lời thư nói lên sự cay đắng, liều thân giúp Nguyễn Ánh mà không được "trả công đúng mức", và hy vọng nếu "giúp" Thượng Đế, thì sẽ được trả công gấp trăm lần! Lời thư thực ngây ngô mà cũng thực tội nghiệp của người con trai 25 tuổi, xa gia đình, không có đường về, không biết tin tức mẹ cha; còn của cải và kho tàng mà anh mơ tưởng ngày đi, thì chưa hề thấy. Trước mắt: anh chỉ là một người lính đánh thuê.
Olivier lập công trong trận Quy Nhơn 1793Từ tháng 5-6/1792, có nhiều chuyện không hay xẩy ra ở Nam Hà: Một mặt, Dayot thâm lạm ngân quỹ trong chuyến đi Manille làm Nguyễn Vương nổi giận đuổi hết lính Pháp. Một mặt, Bá Đa Lộc hay tin Nguyễn Huệ sắp đánh xuống miền Nam, qua ngả Lào, cũng sợ, xin đi, lấy cớ về Pháp thăm nhà. Vương cho phép, rồi sau đổi ý. Tháng 6-7/1792, Huệ liên kết với 40 thuyền Tề Ngôi tấn công Bình Khang, Bình Thuận. Cùng lúc, Ánh được mật báo Nhạc đóng nhiều thuyền chiến đậu ở cửa Thị Nại, sửa soạn chinh phục Gia Định, Ánh bèn quyết định đánh trước. Tháng 6 Nhâm Tý [7-8/1792] Olivier được thăng Vệ Uý ban trực tuyển phong hậu vệ Thần sách[27], cùng lúc xẩy ra trận Thị Nại 1792; nhưng Olivier ở trong bộ binh, chắc không tham dự, vì Nguyễn Ánh chỉ dùng quân cảm tử và thuỷ binh, như chúng tôi đã trình bầy trong chương 16 Jean-Marie Dayot. Ngược lại, Olivier có tham dự cuộc tấn công Quy Nhơn lần thứ nhất, tháng 4 Quý Sửu [tháng 5-6/1793]. Thư Le Labousse viết cho Boiret ngày 26/6/1793 có câu: "Nhà vua vừa đi với bộ binh và thủy binh để đánh Qui Nhơn (...) Các ông Dayot, de Rhedon, Vannier d'Auray, cùng đi với tầu của họ. Ông Olivier quê Carpentras, và đội ngũ của ông cùng vài người Âu khác, đi trong đoàn bộ binh..."[28] Le Labousse viết không sai, so với thực trạng chiến tranh lúc bấy giờ: Sau khi Nguyễn Huệ mất (16/9/1792), Nguyễn Ánh được tin Quang Toản và Nguyễn Nhạc nghi kỵ nhau, bèn quyết định đánh Quy Nhơn. Đây là chiến dịch đánh lớn và đánh lâu, từ tháng 5-6/1793 đến tháng 10/1793. Olivier lúc đó đang làm Vệ uý trong đội Thần Sách, thuộc bộ binh. Mà bộ binh ở trong tay các tướng: Tôn Thất Hội, Võ Tánh, Nguyễn Huỳnh Đức và Nguyễn Văn Thành, cả bốn đều tham dự chiến dịch này. Lại thêm hai chi tiết của Thực Lục: 1- Khi vây thành Quy Nhơn: "Vua muốn dùng phép "thả diều phóng lửa" của nước Tây để đánh đốt thành giặc. Nhưng lại lo cho nhân dân trong thành, phần nhiều bị giặc ức hiếp bắt theo, sợ khi "thành cháy vạ lây" có chỗ không nỡ. Sắc cho các quân không nên đánh gấp, để cho dân tự ra"[29]. Tuy không nói rõ tên, nhưng chi tiết này xác định ít nhiều sự có mặt của Puymanel trong trận. 2- "Vua lại đem quân về cửa biển Thị Nại, rồi đến cầu Thạch Yến hạ lệnh cho quân các đạo dùng súng hoả xa đại bác (đại bác của người Tây có bánh xe để di động như xe) đánh thành Quy Nhơn. Quân giặc trong thành ấy còn hơn 10.000 người. Nguyễn Văn Nhạc cố chết giữ, đánh mãi không hạ được thành"[30]. Chi tiết này chắc chắn hơn, vì Olivier là một trong những người chế tạo ra "hoả xa đại bác", việc này đã được Liệt Truyện xác nhận: Olivier cùng với Trần Văn Học chế tạo các hạng hoả xa, chấn địa lôi, binh khí, nhưng Vũ Viết Bảo cũng là một trong những chuyên viên về "hoả xa đại bác"[31]. Riêng phép "thả diều phóng lửa" của nước Tây đã nói ở trên mà Nguyễn Vương ngại không dùng, thì chưa biết là phép gì, cần phải điều tra kỹ hơn. Tóm lại, công lao của Olivier trong ngành pháo binh là thực sự, đã được Thực Lục và Liệt Truyện ghi lại.
Việc gán cho Olivier xây thành Diên KhánhViệc này chúng tôi cũng đã trình bầy kỹ trong chương 12: Huyền thoại Puymanel và Le Brun xây thành Gia Định và Diên Khánh, ở đây chỉ vắn tắt nhắc lại mấy nét chính: Học giả Cadière xác quyết việc Olivier "xây" thành Gia Định bằng câu: "theo chính sử biên niên đời Gia Long, ông [Olivier] bắt đầu xây thành Gia Định tháng 3-4 năm 1790", câu này hoàn toàn sai vì Thực Lục không có đoạn nào như thế cả. Rồi ông lại xác quyết Olivier "xây" thành Diên Khánh bằng một câu khác của Lavoué: "Nhà vua... mượn ông Olivier, sĩ quan Pháp, xây cho ông một thành phố theo kiểu Tây phương ở một trong những vùng mà ông vừa chiếm được. Thành phố vừa xây xong thì bốn mươi ngàn ngụy quân đã quyết định trèo lên nhưng vô hiệu" để đưa đến kết luận: "Thành bị bao vây vào tháng 5-6/1794, vậy thành này được xây vào cuối năm 1793, đầu năm 1794"[32]. Lập luận này cũng hoàn toàn sai, bởi vì: 1- Theo Thực Lục và Liệt Truyện, thành Diên Khánh do Tôn Thất Hội và Vũ Viết Bảo đắp, tháng 10/1793, khi Nguyễn Ánh rút quân từ Quy Nhơn về Diên Khánh, đắp một tháng xong. Tháng 11/1793, Nguyễn Ánh trở về Gia Định[33]. 2- Thực ra câu của Lavoué đầy đủ là như thế này: "... Vua về lại Gia Định mà ông đã chiếm. Ông xây thành đắp lũy kiên cố hơn, đóng tầu, vv... và mượn Olivier, sĩ quan Pháp, xây cho ông một thành phố theo kiểu Tây phương ở một trong những vùng mà ông vừa chiếm được. Thành phố vừa xây xong thì bốn mươi ngàn ngụy quân đã quyết định trèo lên nhưng vô hiệu"[34]. Cadière đã bỏ câu đầu: Vua về lại Gia Định đi, vì nếu để câu này, thì cái chứng mà ông đưa ra sẽ hỏng. Bởi vì: Nguyễn Ánh trở về Gia Định tháng 11/1793, nếu có "mượn Olivier xây một thành phố theo kiểu Tây phương ở một trong những vùng mà ông vừa chiếm được", thì phải là một thành khác, không phải Diên Khánh, vì Diên Khánh đã đắp xong từ tháng 10/1793 rồi. Hơn nữa, Lavoué chỉ nói bâng quơ, chứ không nói tên thành là Diên Khánh. 3- Diên Khánh là thành đất: Đại Nam Nhất Thống Chí viết: "Năm Quý Sửu (1793) quân nhà vua tiến đánh Qui Nhơn, lúc trở về, xa giá dừng ở Diên Khánh, xem xét thế đất, sau nhân bảo [đồn] cũ Hoa Bông đắp thành bằng đất, thành mở 6 cửa, đều có nhà lầu, 4 góc thành có núi đất, ngoài thành đào hào, ngoài hào có trại; các cửa đều có cầu treo để qua hào, trước sau có núi sông bao bọc, thật là nơi thiên hiểm"[35]. Lê Quang Định cũng mô tả Diên Khánh là một thành chiến đấu, có ít dân và càng không phải là một "thành phố theo lối Tây phương". 4- Một số người khác, lại quy câu "thành phố theo lối Tây phương" vào thành Gia Định, càng sai nữa, vì Gia Định đã đắp xong từ tháng 4/1790. Tóm lại, chúng ta có thể xác định chắc chắn rằng, Olivier có mặt ở vùng Quy Nhơn-Diên Khánh trong hai năm 1793-1794, đã góp phần đắc lực trong các trận chiến với tư cách là Vệ uý trong đội quân Thần Sách. Nhưng Olivier không hề "xây" thành Diên Khánh vì không phải là chuyên môn của anh, Olivier chuyên về ngành pháo, việc đắp thành đất Diên Khánh là việc của người Việt, chuyên về thành trì Đông phương.
Olivier tham dự trận Diên Khánh 1794Tháng 11/1793, Nguyễn Ánh rút về Gia Định, để Nguyễn Văn Thành ở lại trấn Diên Khánh, nhưng tháng 12/1793, lại gọi Nguyễn Văn Thành về và sai Đông cung Cảnh (13 tuổi) trấn giữ Diên Khánh cùng các tướng Phạm Văn Nhơn, Tống Phước Đạm, Mạc Văn Tô, Nguyễn Đức Thành và các thầy Bá Đa Lộc, Trịnh Hoài Đức, Ngô Tòng Châu... Có lẽ vì biết tin Đông cung (mới 13-14 tuổi) trấn giữ Diên Khánh, nên tháng 4/1794, Trần Quang Diệu và Nguyễn Văn Hưng lại đem đại binh thủy bộ vào đánh. Trong nhiều ngày, súng đại bác hai bên bắn ra như mưa, quân Tây Sơn bị thương rất nhiều nhưng thành kiên cố không thể tiến vào được. Olivier có dự trận Diên Khánh 1794 này, Thực Lục việc tháng 7/1794, ghi: "Sai Vệ uý Phan Văn Triệu, Ôlivi, Trần Văn Tín, Lê Văn Duyệt, Cao Văn Lý, cùng Cai đội quản Xiêm binh Nguyễn Văn Tổn và Cai cơ Trương Văn Phụng, đều đem quân bộ thuộc theo Đông Cung điều bát đánh giặc."[36]. Nhưng Thực Lục không mô tả chi tiết trận Diên Khánh. Nhờ thư của giáo sĩ Lavoué viết cho quản thủ Létondal, ta biết thêm những chi tiết sau đây: "Ngày 29/5/1794, Ngày 28/4, thủy quân [Tây Sơn] hiện ra ở cửa bể Nha Trang. Lúc đó tôi [Lavoué] đang bận nghe các trẻ em ở Lam-toun [?] vùng đạo gần biển, xưng tội; ngày hôm sau, 29, chúng sung sướng được nhận lễ chịu thánh thể đầu tiên. Có ông Boisserand do tôi mời đến giúp lễ và có một bữa ăn nhỏ tiếp theo sự tái nguyện lễ rửa tội. Xong xuôi, ông Boisserand và tôi lui về gần thành hơn, vì sợ có kẻ báo cho địch quân biết chúng tôi ở gần, đến đêm sợ họ sẽ lẻn vào bắt. Buổi sáng chúng tôi đã leo lên một ngọn núi nhỏ, ở đó nhìn thấy rõ thuỷ quân Tây Sơn mà chúng tôi đoán có đến khoảng 300 thuyền buồm. Thực khó mà điễn tả được nỗi đau đớn của giáo dân khi họ biết chúng tôi sẽ rút lui, họ gào thét, van xin chúng tôi ở thêm với họ một ngày nữa; nhưng xét kỹ lại, chúng tôi thấy nếu chiều theo sự nài nỉ của họ là bất cẩn. Ngày hôm sau, 30, chúng tôi vào thành và đến ở nhà ông Olivier, ông đã tiếp đãi chúng tôi rất ân cần. Ngày 2/5 chúng tôi được tin bộ binh [Tây Sơn] nghe nói đến 30.000 người và 50 thớt voi; nhưng quân Nam Hà [Nguyễn Ánh] gia tăng luôn... Ngày 15, họ vẫn tiếp tục pháo kích... Tôi và ông Boisserand cũng không lo gì lắm bởi vì chúng tôi ở trong hố sâu dưới sự che chở của giàn đại bác; ở đó chín, mười ngày không dám ra, trừ trường hợp thật cần. Sáng 16, tôi ra khỏi lỗ một lúc; ông Boisserand cũng vậy; nhưng địch quân lại tiếp tục pháo kích, chúng tôi lại bắt buộc phải trở xuống hầm; suýt nữa thì tôi trúng đạn đại bác 12 [?] đã nẩy lên nẩy xuống cách tôi có hai pied[37], đục thủng tường bếp nhà ông Olivier, may mà không trúng ai. Ngày 21, chúng tôi lại leo ra, đi về phía các đại đồn của địch, họ công kích ngay; cả hai bên đều chiến đấu can đảm; phiá chúng tôi có hơn 60 người bị thương, 7, 8 người ở lại trận tiền đầy xác quân Tây Sơn. Sự thất bại này làm cho quân Tây Sơn chưng hửng khiến họ giải vây và rút đi, ngày 23. [Theo Thực Lục, Tây Sơn rút quân vì thấy Nguyễn Ánh kéo đại binh tới giải vây Diên Khánh]. Hôm sau, 24, tất cả các toán quân của ta kéo ra khỏi thành, đi về hướng Bình Khang. Đức ông và Hoàng tử bé cũng đi theo. Ngày 25, tôi được tin là họ đã đến Bình Khang vô sự. Có ba họ đạo của chúng tôi bị thiệt hại, người thì bị mất nhà, những người khác bị mất đồ dùng, còn rất nhiều người không bị thiệt hại gì cả. Nói chung, những tướng Tây Sơn đã xử sự rất đàng hoàng, họ cấm cướp bóc"[38]. Lá thư này không những nói rõ về trận Diên Khánh mà còn cho biết Olivier đóng tại đây và có nhà ở trong thành; việc này phù hợp với những điều ghi trong Thực Lục: "Sai Vệ uý Phan Văn Triệu, Ôlivi, Trần Văn Tín, Lê Văn Duyệt, Cao Văn Lý... đem quân bộ thuộc theo Đông Cung điều bát đánh giặc."[39] Mặc dù Trần Quang Diệu đã rút quân về Quy Nhơn, nhưng Nguyễn Ánh thấy lực lượng chưa đủ mạnh để tấn công Quy Nhơn, nên cũng rút về Diên Khánh, sửa sang đắp lại thành Diên Khánh, để Võ Tánh thay Đông cung làm trấn thủ và rút quân về Gia Định, đó là tháng 9-10/1794.
Olivier không tham dự trận Diên Khánh 1795Tháng 10-11/1794, Trần Quang Diệu và Lê Trung lại đem quân thủy bộ đánh Phú Yên. Tháng 1-2/1795, Trần Quang Diệu, cắt đứt đường nước vào thành Diên Khánh, sai quân lăn sát trèo lên thành, bị súng bắn chết rất nhiều, sai đắp lũy cao vây bốn mặt thành. Võ Tánh cố thủ. Tháng 2-3/1795, tình trạng khẩn cấp hơn: Trần Quang Diệu vây chặt Diên Khánh, Lê Trung tiến đánh Phan Rí. Chiến dịch Nguyễn Ánh giải vây Diên Khánh lần này kéo dài từ tháng 4-5/1795 đến tháng 9-10/1795 mới chấm dứt, nhờ triều Cảnh Thịnh có loạn, Trần Quang Diệu phải rút quân về Phú Xuân. Nhưng Olivier không dự trận này vì tháng 3-4/1795, Nguyễn Ánh "sai Ôlivi sang Hồng Mao (Ấn độ) mua binh khí."[40]. Trước khi vua xuất quân, trong triều, xẩy ra hai việc quan trọng: Dayot làm đắm tầu Đồng Nai và lá sớ của Trần Đại Luật, xin vua chém đầu Bá Đa Lộc (xem Chương 19, Jean-Marie Dayot). Bá Đa Lộc, sau lá sớ của Trần Đại Lộc, cũng sửa soạn bỏ đi, nhưng chưa thực hiện được. Trong khi Nguyễn Ánh đang phải kịch liệt đương đầu với Trần Quang Diệu và Lê Trung ở mặt trận Phú Yên-Diên Khánh, thì Dayot trốn ra Vũng Tầu. Còn Olivier, sau khi đi mua vũ khí ở Ấn Độ về, được Nguyễn Vương sai đi Macao, nhân dịp này đã chở Dayot tẩu thoát. Ste-Croix, ngoài việc kể lại thoại Dayot bị "kết án oan", còn viết một đoạn liên quan đến Olivier, như sau: "Olivier càng nghĩ một ngày nào đó chuyện này cũng có thể xẩy ra cho mình mặc dù anh được ưu đãi, cũng xin từ chức. Dù anh làm việc hết lòng, qua nhiều chiến dịch thắng trận, mà vua không cho của cải gì cả. Khi Olivier đã nói rõ dự định với vua, vua thấy trước sự mất mát này, ông bảo anh rằng: cho đến nay, có một số trở ngại khiến ông chưa thể tặng cho anh một phần của cải, nhưng ông sẽ lo việc này, Olivier cố nài nỉ, vì anh biết tính cực kỳ hà tiện của ông, cho rằng vua chỉ giả vờ để giữ anh lại. Nhà vua bèn nói: "Nếu ta là vua của nhà ngươi, ta có thể bắt buộc nhà ngươi, như một thần dân, ở lại, không cho đi, nhưng ngươi không phải thế và ta cũng không thể chống lại kế hoạch của ngươi, cũng như ta không thể vô ơn, quên những gì nhà ngươi đã làm cho ta, vậy ta cho ngươi một chiếc tầu nhỏ để ngươi có thể chở cau mua ở các cửa hàng. Ta cũng cho ngươi quyền ra vào tất cả các hải cảng của ta để buôn bán mà không phải trả bất cứ thuế gì". Olivier đem tầu này chở cau tới Macao, bán được cả thảy 3.000 quan tiền. Anh trở lại Cao Miên với tầu này, mang những thứ hàng hoá dùng riêng cho xứ này, rồi bị bệnh kiết lỵ khi vào cảng, và chết ít lâu sau."[41] Đoạn này của Ste-Croix có thể tin được, và theo bối cảnh mô tả, không thể xẩy ra khi Dayot bị kết án, vì lúc đó vua đang nổi giận, cũng không thể xẩy ra vào tháng 6/1795, khi Dayot trốn ra Vũng Tầu, vì lúc đó vua đang hành quân. Vậy chỉ có thể sau khi Olivier chở Dayot trốn đi Macao, lúc trở về, mới trần tình mọi việc và được vua cấp cho chiếc tầu nhỏ để buôn bán thêm, ngoài công vụ, như đối với Barisy. Cosserat cho biết từ 1795 đến 1799, ông không tìm thấy tin gì khác về Olivier. Nhưng Thực Lục còn ghi công Olivier trong trận đánh Đà Nẵng năm 1797.
Olivier lập công trong trận Đà Nẵng 1797Kể từ tháng 9-10/1795 đến tháng 5/1797, Nguyễn Vương giữ từ Bình Khang [tức Khánh Hoà] vào Nam. Cảnh Thịnh giữ từ Bình Định ra Bắc. Trong hai năm không có chiến tranh. Trận Đà Nẵng bắt đầu từ tháng 6-7/1797: Nguyễn Văn Trương đánh nhau với viện quân của Lê Văn An từ Thuận Hoá ra, ở gò Phú Gia. Võ Tánh đánh nhau với Nguyễn Văn Giáp ở Mỹ Khê. Đông cung Cảnh thắng trận La Qua [huyện Diên Phúc]; vua mật cho Phạm Văn Nhơn giữ cửa biển Đại Chiêm [Hội An]. Olivier xuất hiện ở trận này: Vua sai Phó vệ uý vệ túc trực Nguyễn Văn Khiêm và Thuộc nội vệ uý ÔLiVi đến tấn biển Đà Nẵng [chỗ hai dòng sông Cẩm Lệ và Vĩnh Điện chẩy ra biển], đóng thuyền sam bản đánh hoả công, rồi chọn quân cảm tử cưỡi thuyền vào đốt thuyền địch ở vịnh Đà Nẵng. Thực Lục ghi việc tháng 6-7/1797, như sau: "Sai Phó vệ uý vệ túc trực Nguyễn Văn Khiêm và Thuộc nội vệ uý Ô Ly Vi đóng thuyền sam bản đánh hoả công, kén quân chiến tâm cưỡi thuyền ấy, đêm phóng lửa đốt được mấy chiến thuyền của giặc, giặc do đó lại cố chết mà giữ để xin quân ở Quy Nhơn"[42]. Liệt Truyện, mục từ Nguyễn Văn Khiêm cũng ghi: "Năm Đinh Tỵ [1797], Khiêm theo đi đánh Quảng Nam, vào cửa biển Đà Nẵng, Khiêm đem quân lên bộ, ban đêm nín lặng đến sát luỹ giặc để đánh; lại cùng người Tây là Ô Ly Vi làm kế hoả công đốt thuyền giặc"[43]. Kế hoả công cùng làm với Nguyễn Văn Khiêm ở trận Đà Nẵng năm 1797, là công lao cuối cùng của Olivier ở mặt trận, vì sau đó anh chuyển sang nhiệm vụ đi nước ngoài.
Nhiệm vụ cuối cùng của Olivier de PuymanelChiến dịch Quảng Nam Đà Nẵng tuy thắng được vài trận nhưng không làm chủ được tình thế, quân Nguyễn thiếu lương thực nên tháng 9-10/1797, Nguyễn Ánh phải rút về Gia Định. Sau thất bại này Nguyễn Ánh nghỉ thêm hai năm để củng cố lực lượng: đóng tầu, mua khí giới, mở rộng quân Thần Sách... trong năm 1798 và đầu năm 1799, Olivier giúp vua việc ngoại giao và mua khí giới. Tháng 2-3/1798, vua sai Du Hải Quan đi Hạ Châu (Singapore) tìm mua đồ binh khí. Tháng 11/1798, Gia Long viết thư cho vua Anh và vua Đan Mạch để vận động việc mua vũ khí. Cũng trong năm này, xẩy ra việc tầu Armide của vua do Barisy điều khiển từ năm 1792, để đi mua bán ở nước ngoài, bị tầu Anh bắt (xem chương 20: Chính sách đối ngoại của vua Gia Long), vua sai Olivier đi điều tra về vụ này. Olivier gửi thư cho ông Aguiton, thuộc nhà cầm quyền Anh để khiếu nại. Tháng 11/1798, vua lại sai Olivier đi cùng với Barisy sang Ấn Độ kiện vụ tầu Armide, đồng thời vua viết thư cho toàn quyền Anh ở Ấn Độ, đe dọa phải giải quyết vấn đế, nếu không sẽ dùng biện pháp mạnh. Chính phủ Anh nhượng bộ, trả lại tầu Armide. Tháng 1-2/1799, vua "sai Vệ uý Ô Li Vi đi thuyền hiệu Thanh Tước đến Hạ Châu [Singapore] tìm mua binh khí"[44]. Chuyến đi này là nhiệm vụ cuối cùng, Olivier mất ngày 23/3/1799 vì bệnh kiết lỵ ở tuổi 31, tại Malacca. Olivier để lại một chúc thư cho Bá Đa Lộc, kèm một di chúc. Hai người có nhiệm vụ thi hành di chúc cũng viết một thư cho Bá Đa Lộc. Cả ba văn bản đều được in lại trong sách của Louvet, La Cochinchine Religieuse (t. 560-563). Trong lá thư viết ở Malacca ngày 18/5/1799, Jean Daniel và Antoine Neubrone, hai người thi hành di chúc, tường trình cho GM Bá Đa Lộc những ngày cuối của Olivier như sau: "... Người bạn Olivier của chúng tôi đến đây trong trạng thái quá yếu, sau khi chống lại tử thần 33 ngày, ông đã ra đi ngày 23/3 lúc 3 giờ sáng. Ông mất mà không ai biết, bởi ông vẫn ở trong tình trạng yên tĩnh như thế... Ngày 19/3, ông Olivier quá cố còn ký giao kèo 600 đồng cho việc sửa tầu với một người thợ ráp tầu, trả một nửa trước. Con tầu bị nứt một phiá và bị thiệt hại ở trong thân chỗ có kiến trắng bu đầy, chúng tôi đã tường trình với ông Olivier và đồng thời hỏi ông là phải làm gì, nếu Thượng đế gọi ông đi, và ông trả lời như sau: "Tôi xin hai ông hết sức cẩn thận coi sóc công việc sửa, theo đúng giao kèo ký với thợ ráp tầu; đừng ngừng, ngay cả sau khi tôi chết, vì chẳng ai mua con tầu này trong tình trạng hiện nay và sửa xong, đừng bán, trước khi hỏi cha Bá Đa Lộc, có thể người có ý định khác chăng: nhờ thủy thủ đoàn của tôi canh giữ tầu trong khi chờ đợi"[45]. Sau đó, hai người thi hành di chúc cho biết họ đã phải bán tầu, vì không có cách nào khác... tầu này chắc không phải là tầu Thanh Tước (có thể khi biết mình bị bệnh Olivier đã tìm cách gửi người khác lái Thanh Tước về cho vua) mà là tầu vua cho Olivier để đi buôn. Trong di chúc, Olivier dặn dành những số tiền cho hội thừa sai, cho người nghèo, cho ba gia đình Miên vẫn phục vụ anh và gửi tất cả thuỷ thủ đoàn Miên, Việt về xứ, cấp cho mỗi người 6 quan tiền... Người thanh niên 31 tuổi ấy, dường như gia đình lúc bấy giờ, ngoài giám mục Bá Đa Lộc, chỉ còn vài người thân Miên, Việt bên cạnh. Giám Mục Bá Đa Lộc mất sau Olivier bẩy tháng, ngày 9/10/1799 ở Mi-cang [Mỹ Cảng], Bình Định. Giáo sĩ Lavoué từ trần ngày 26/4/1796 tại Lái Thiêu. Linh mục Hồ Văn Nghị ra đi ngày 19/2/1801 tại Sài Gòn. Giáo sĩ Le Labousse mất ngày 25/4/1801, tại Nha Trang[46]. Đó là những chứng nhân gần cận nhất, thuộc vào giai đoạn lịch sử này, đã qua đời trước khi Gia Long thống nhất đất nước.
[1] Thư viết trong nội trú một trường ở Roanne, ngày 22/11/1780, Taboulet, I, t. 248-249. [2] Cadière, Les français au service de Gia Long, Leur correspondance, BAVH, 1926, IV, t. 363. [3] BAVH, 1926, IV, t. 363, 365, 369. [4] Taboulet, la Geste Française... I, t. 247. [5] Viết theo di chúc của Olivier, in trong La Cochinchine Religieuse, I, t. 560-561. [6] Trên bản đồ quân sự ghi Plumanel. [7] Taboulet, La Geste..., I, t. 245. [8] Faure, Bá Đa Lộc, t. 120-121. [9] Mémoire du Roi pour servir d'instrustion particulière au sieur chevalier de Kersaint... commandant de la frégate la Dryade (Lệnh chỉ của vua truyền riêng cho hiệp sĩ de Kersant... thuyền trưởng trung hạm Dryagde), Launay, III, t. 177. [10] Thư Vitalis Olivier, trích Deux lettres inédites du Frère du Colonel Olivier của Gaide, BAVH, 1938, I, t. 63-64. [11] Thư Vitalis Olivier, trích Deux lettres inédites du Frère du Colonel Olivier, Gaide, BAVH, 1938, I, t. 65. [12] Thư Vitalis Olivier, bđd, BAVH, 1938, I, t. 66. [13] Thư Vitalis Olivier, bđd, BAVH, 1938, I, t. 66-67. [14] Taboulet, La Geste..., I, t. 246. [15] Launay, III, t. 178. [16] Launay, III, t. 178. [17] Sau đây là hành trình tiếp theo của tầu Dryade: Rời Côn Lôn ngày 19/9/1788, tầu Dryade tiếp tục hành trình đi Phi Luật Tân, đỗ ở Cavite và Manille (7/10-29/11/1788). Về Macao (13-29/12/1788). Được lệnh Conway từ trước, [thư Conway gửi bộ trưởng Luzerne, Launay, III, t. 192] tầu sẽ từ Macao về Nam Hà để do thám tình hình: Tới Đà Nẵng (8-13/1/1789); Cham-Callao [Cù Lao Chàm] (14-16/1/1789); Cham-Chen [?] (17-18/1/1789); Cambir [?] đất liền (18-19/1/1789); Côn Lôn và Phú Quốc (24-27/1/1789); Poulo-Yang (28/2-1/2/1789); Côn Lôn (10-20/2/1789). Tới Malacca (19-22/2/1789); Pondichéry (13/3-12/4/1789); Trinquemale (12/4-15/5/1789); Pondichéry (37/5-11/7/1789); Ile de France (3/8-6/12/1789); về tới Brest (23/8/1790) (Faure, Bá Đa Lộc, t. 242). [18] Faure, Bá Đa Lộc, t. 242- 243. [19] Faure, Bá Đa Lộc, t.199. [20] Faure, Bá Đa Lộc, t. 200-221-222. [21] LT, II, t. 506-507. [22] Thư Olivier, Cadière, Les français au service de Gia Long, Leur Correspondance, BAVH, 1926, IV, t. 363. [23] Faure, Bá Đa Lộc, t. 205. [24] LT, II, t. 281-282. [25] Báo cáo de Guignes gửi Bộ trưởng Ngoại giao ngày 29/12/1791, Faure, Bá Đa Lộc, t. 214. [26] Thư Olivier, Cadière, Les français au service de Gia Long, Leur correspondance, BAVH, 1926, IV, t. 365. [27] TL. I, t. 286. [28] Thư Le Labousse, Cadière Documents relatifs à l'époque de Gia Long, BEFEO, t. 29. [29] TL, I, t. 296. [30] TL, I, t. 297. [31] LT, II, t. 282 và 321. [32] Cadière, Nguyễn Suyền, BAVH, 1926, III, note 26, t. 264. [33] TL, I, t. 299; LT, II, t.78 và 321. [34] Thư Lavoué viết ngày 13/5/1795 gửi Boiret và Descourvières, BEFEO, Doc. Rel, Cadière, t. 33. [35] Đại Nam Nhất Thống Chí, III, t. 93. [36] TL, I, t. 309. [37] 1 pied=0,3048m. [38] Thư Lavoué viết cho Létondal, Launay, III, t. 233-234. [39] TL, I, t. 309. [40] TL, I, t. 318. [41] Ste-Croix, Introduction, la Relation de Bissachère, t. 88. [42] TL, I, t. 354. [43] LT, II, t. 232. [44] TL. I. t. 374. [45] Lettre des exécuteurs testamentaires de M. Olivier à MGR d'Adran (Thư của những người thi hành di chúc của Olivier gửi Đức Giám Mục Bá Đa Lộc), La Cochinchine Religieuse, I, t. 562-563. [46] Launay, III, t. 373, 372, 480, 481. Thụy Khuê © Copyright Thuy Khue 2015
|