Thụy Khuê Khảo sát công trạng của những người Pháp giúp vua Gia Long
Chương 22 Laurent Barisy (1769-1802)
Laurent-André-Estiennet-Marie Barisy, là một người phiêu lưu mạo hiểm có đời sống thăng trầm như một nhân vật tiểu thuyết kiếm hiệp. Trong đoạn đời ngắn ngủi ở Nam Hà, từ 1793 đến 1802, khi qua đời, Barisy đã giúp vua Gia Long rất nhiều trong việc giao thương với nước ngoài: bán gạo và các sản phẩm để mua vũ khí. Trước đây, người ta không biết gì về nguồn gốc Barisy hay Barizy. Alexis Faure cho biết ông đã dò kỹ các sổ ghi quân viễn chinh ở Ấn Độ và Ile de France, và thủy thủ đoàn của những chiến hạm hoạt động trong vùng Ấn Độ Dương nhưng vô hiệu, không tìm thấy tên Laurent Barisy. Cosserat cũng không thấy chỗ nào ghi tên Barisy trước 1798, khi tầu Armide do Barisy điều khiển bị tầu Anh Non-Such bắt. Nhưng từ khi André Salles tìm được một số thư từ và giấy tờ của gia đình Barisy ở Groix, rồi Cosserat biên tập, in trong bài Documents Salles, Laurent Barisy, BAVH, 1939, III, sau khi Salles qua đời, thì một số chi tiết hộ tịch về Barisy được rõ ràng hơn.
Nguồn gốc gia đìnhDòng họ Barisy gốc ở Groix, một đảo của Pháp trên Đại Tây Dương, gần cảng Lorient, thuộc vùng Morbihan. Ông nội, Jean Jacques Barisy là luật sư và bà nội, Marie-Anne Sainte Le Lidour, đều quê quán ở Groix. Người cha, Laurent-André (sinh ngày 15/6/1724, rửa tội ngày 17/6/1724, tại Groix), là sĩ quan thương thuyền của công ty Pháp-Ấn, ngày 17/1/1764 kết hôn với Renée Barbotin tại Port-Louis (gần Groix); sinh ba con: Hellaine, Laurent-Estiennet [tức Laurent Barisy] và Marie-Jacquette. Laurent-André mất tại Port-Louis ngày 19/1/1785. Theo sổ hộ tịch đạo ở Port-Louis, Laurent Barisy tức Laurent-André-Estiennet-Marie sinh ngày 27/11/1769, rửa tội ngày 28/11/1769, tại Port-Louis. (Nhiều nơi ghi ngày sinh là 28/11/1769, thực ra là ngày lễ rửa tội)[1]. Họ hàng không ưa gia đình Barisy, André Salles khi tìm dấu vết gia đình này ở Lorient, gặp một người trong họ, Léonce Modille de Villeneuve, làm Chanoine (Trợ tá Giám mục) ở Monaco, cung cấp cho Salles nhiều thông tin nhất, cũng là người soạn bài Notes sur la famille Barisy, đã viết những hàng sau đây: "Tổ tiên nhà Barisy, mà chúng ta đang tìm kiếm hiện nay, tính tình dữ dội khủng khiếp, mà con cháu cũng thừa hưởng, gây họa cho họ và những người thân của họ. Tôi nghĩ đã truyền đạt cho ông Salles gần đầy đủ tất cả những gì đáng chú ý trong mớ giấy má lộn xộn ở Groix và ở Port-Louis. Ký tên: Léonce"[2]. Ngoài ra, Modille de Villeneuve còn cho biết: - "Jean Jacques Barisy [ông] chết trước năm 1769. Năm 1779, tôi [Modille de Villeneuve] tìm thấy một bản chia [gia tài] trong đó tên Laurent-Antoine de Barisy [cha] được chỉ định là đại úy hải quân của Công ty [Pháp Ấn]" (lieutenant des vaisseaux de la Compagnie). - "Thực lạ lùng là trong 33 lá thư viết cho gia đình Modille, hai người chú, cả người cha, và các chị em, không ai nhắc gì đến Estiennet [tức Laurent Barisy]". - "Từ khi gia đình Chaigneau về lại Bretagne, tôi thấy họ chỉ nhắc đến tên Barisy hai lần". - "Người con gái của Estiennet [vợ kế của Chaigneau] bị coi là khó chịu lạ lùng"[3]. Vậy có thể nói: họ hàng có ác cảm với gia đình Barisy và chính Laurent Barisy cũng bị gia đình mình coi như "đồ bỏ". Có lẽ đó là lý do khiến người thanh niên 20 tuổi này đã bỏ nhà ra đi, phiêu lưu trên những vùng đất lạ. Về ngày Laurent Barisy rời xứ Pháp, Salles viết: "Một lá thư của ông Lozach, em rể của Estiennet [Barisy] viết từ Lorient ngày 12/10/1788, đoạn tái bút có câu: "Barisy sẽ đi Ile de France tuần tới với tư cách trợ tá trung uý (second lieutenant) thương thuyền"[4]. Theo những lời này, thì Barisy rời nước Pháp khoảng trung tuần tháng 10/1788, đi Ile de France.
Sang Nam Hà và ở lại giúp vua đến lúc cuối đờiTrong lá thư dài viết ngày 16/4/1801 cho hai giáo sĩ Létondal và Marquini, Barisy tóm lược đời mình như sau: "... Có ít người trong giai cấp đã chịu nhiều thăng trầm trong đời như Barisy: Ở tuổi 17, làm sĩ quan trong quân đội hoàng gia Pháp; chỉ huy thuyền "lougre"[5]Oiseau của vua; 18 tuổi, công nhân trên một chiếc thuyền chuyên chở với tư cách trợ tá trung uý[6], 21 tuổi, làm chỉ huy trưởng [commandant] ở đảo Groix, thuộc bờ biển Bretagne; 23 tuổi đi lang thang ở Thổ Nhĩ Kỳ, đào tẩu, bị đầy đọa. Mục kích những việc cậu [hay chú] Flotte, trấn thủ Toulon của vua, bị cắt cổ; chú Boisquenai, tư lệnh ở Lorient, bị lột lon, trục xuất, lưu đầy; chú Barisy, tu sĩ, bị tù trong ngục; em rể là Lorach, bị treo cổ, anh họ Le Veyer, bị treo cổ, và sau cùng là tôi [Laurent Barisy] lang thang ở Ấn Độ, rơi vào tay chính quyền Mã Lai; sau nhiều cố gắng nhọc nhằn, bám víu được đất Nam Hà, hân hạnh được nhà vua hào hiệp giúp đỡ, mong kiếm cái gì cho tuổi già; lại bị thuyền trưởng Thomas điều khiển tầu Non-Such bắt. Quay trở lại nước Nam, lại được Vua và Hoàng tử che chở, kiếm được chục nghìn đồng (piastres); rồi bị đóng gông, mất hết của cải, chỉ trong khoảng có tám ngày, bị kết tội bỏ thuộc độc, cướp của, giết người, mà không có bằng chứng gì cả. "Không sao, tôi chẳng sờn lòng..."[7] Những lời trên đây soi sáng một số vấn đề liên quan đến tiểu sử Barisy: Việc những người thân của Barisy bị giết trong thời đại Kinh hoàng tại Pháp là có thật, lịch sử ghi nhận bá tước Flotte bị Cách Mạng giết như sau: "Toulon cũng như tất cả những thành phố khác ở Pháp, không thoát khỏi cuộc Tàn sát tháng Chín [1792] (Septembriseurs). Nhiều sĩ quan siêu quần của hải quân là đối tượng của nhóm chính trị cực đoan (clubistes) điên rồ. Bá tước Flotte [cậu của Barisy] thiếu tướng hải quân từ ngày 1/7 năm nay [1792], và là tân chỉ huy trưởng thuỷ quân Toulon, sáng ngày 10/9/1792 bị lôi ra trước cửa Công binh xưởng trước mặt binh lính và thợ thuyền hải quân, họ im lặng nhìn vị thủ lãnh chịu cực hình: người ta lấy kiếm chặt chân tay ông rồi treo cổ ông trên cột đèn đường"[8]. Tuy con nhà "dòng dõi", nhưng Barisy chắc chẳng học hành gì. Tuy có văn tài, nhưng Barisy viết tiếng Pháp lung tung như người ngoại quốc nghe và phiên âm lại. Tiếng Pháp của Barisy nhiều lỗi nhất trong số thư từ mà Cadière sưu tập được. Những chức tước kê khai như: sĩ quan trong quân đội hoàng gia, chỉ huy trưởng ở Groix... vì vậy, khó mà có thật. Nhưng chắc Barisy biết tiếng Anh, vì làm việc với công ty Anh và Thực Lục ghi Barisy là người "Hồng Mao". Những gì Barisy viết về đời mình, cho phép ta tạm sắp đặt lại trật tự tiểu sử của anh như sau: Sinh năm 1769. Đến tuổi 17 (1788), làm thuỷ thủ ở Groix. Trung tuần tháng 10/ 1788, rời xứ Pháp, trên một tầu buôn. Trong ba năm, 1789, 1790, 1791, phiêu bạt nhiều nơi, và 1792, lang thang sang Thổ Nhĩ Kỳ, sau đó qua Ấn Độ, bị bắt ở Mã Lai và cuối cùng đến Nam Hà năm 1793, được Nguyễn Vương tin dùng, giao cho cai quản tầu Armide. Faure cho rằng tài liệu Việt khi thì coi Barisy là capitaine, khi thì lieutenant-colonel, tuỳ theo Barisy điều khiển "trại mộ binh" do Bá Đa Lộc lập ra, hay "điều khiển một tầu chiến"[9]. Phải nói nói lại: những việc "điều khiển trại mộ binh do Bá Đa Lộc lập ra" hay "điều khiển một tầu chiến" là chuyện bịa cả. Còn về chức tước của Barisy, tài liệu Việt luôn luôn đề chức Khâm sai Cai đội Thiềng [Thành] Tín Hầu, đến năm 1801, được thêm hai chữ Thuộc nội; chỉ khi dịch sang tiếng Pháp mới có sự lẫn lộn, khi thì capitaine, khi thì lieutenant-colonel, tùy theo người dịch.
Phục vụ Nguyễn Vương từ 1793Có ba chứng từ đích xác cho biết Barisy đã phục vụ Nguyễn Ánh từ năm 1793. 1- Chỉ dụ ngày 17/12/1793 của vua cấp cho Barisy: "Lệnh cho Barisy-man, đang phục vụ dưới trướng, mua tất cả những hàng hoá y thấy tại đây [Sài Gòn] chuyển lên tầu ô đi Malacca và Poulo-Pinang để dùng vào việc mua súng ống và tất cả những khí giới khác mà y thấy. Cẩn thận đi càng sớm càng tốt, trong dịp đang thuận gió mùa này, và phải hết sức đề phòng để tránh mọi tai nạn. Làm xong nhiệm vụ, y phải tức khắc trở về đây"[10]. Thư này cho biết: cuối năm 1793, Barisy đã được lệnh vua lái tầu ô đi Mã Lai mua súng đạn. 2- Thư Olivier gửi Lefèbvre ngày 10/4/1798, có câu: "Barisy, thuyền trưởng tầu Armide, bị người Anh bắt, hàng hoá chở trên tầu bị bán hết..."[11]. Thư này chứng tỏ tháng 4/1798, tầu Armide do Barisy làm thuyền trưởng bị tầu Anh bắt (xem chương 20: Chính sách đối ngoại của vua Gia Long. 3- Thư Olivier gửi Ô. Aguiton, phản đối việc tầu Armide bị bắt có câu: "Con tầu này [Armide] trong 5 năm liên tiếp, vẫn do viên Khâm sai Cai đội này [Barisy] cầm đầu, đã gặp biết bao tầu chiến khác của tất cả các nước, nó vẫn được nhìn nhận là hoàn toàn trung lập; vậy vì lý do gì mà ngày nay người ta lại nhìn nó như thế?[12] Thư này viết năm 1798 (không rõ ngày), cho biết Barisy đã quản tầu Armide được 5 năm, vậy: Barisy đã làm việc cho vua và quản tầu Armide, từ năm 1793. Trong lệnh sai phái của vua ngày 17/12/1793, Barisy được gọi là Barisy-man, và vài chỗ khác trong Thực Lục, cũng gọi Barisy là người "Hồng Mao". Có thể vì anh nói được tiếng Anh và làm đại diện cho hãng buôn Anh Abbott-Maitland. Ngoài ra, lệnh phái này còn sai Barisy chất đồ lên tầu ô, vậy ngoài tầu Armide, Barisy còn điều khiển các thứ tầu khác nữa. Tóm lại, chắc chắn rằng Barisy đến Nam Hà khoảng đầu năm 1793, được vua trao cho quản tầu Armide với nhiệm vụ ra nước ngoài bán sản phẩm và mua vũ khí. Tầu Armide, trong 5 năm liên tục, vẫn do Barisy điều khiển, mang cờ hiệu của vua Gia Long, thông thương trên biển, giữ vị trí trung lập trong cuộc tranh chấp giữa Pháp và Anh tại Ấn Độ Dương và những quan toàn quyền ở Madras, Malacca, Batavia, Manille và Tranquebar, đều sốt sắng đón tiếp tầu của vua Nam Hà."[13]
Vụ tầu Armide bị tầu Non-Such bắtVào khoảng tháng 4/1798, tầu Armide bị tầu Anh Non-Such do thuyền trưởng Thomas điều khiển, bắt, rồi "bán chiếc tầu này với cả hàng hoá trên tầu, và giải tán toàn bộ thủy thủ đoàn người Mã Lai và người Việt Nam" [14]. Nhưng "những lời khiếu nại nhiều lần của thuyền trưởng Barisy lên tướng chỉ huy và lên hội đồng hoàng gia Anh ở Bengale đều vô hiệu"[15]. Phản ứng của Gia Long trước sự xâm phạm vào quyền lợi của Nam Hà, theo trình tự sau đây: Tháng 4/1798, tầu Armide bị tầu Anh bắt. Barisy khiếu nại nhiều lần với chính phủ Anh ở Bengale không có hiệu quả. Gia Long ra lệnh cho Olivier điều tra về vụ này. Olivier trở về, báo cáo kết quả. Tháng 10/1798, Gia Long quyết định hành động: Ngày 20/10/1798, ra hai chỉ dụ cho Gibsons và Barisy: - Chỉ dụ cho M. Gibsons ngày 20/10/1798: "Lệnh cho Gibsons, Cai đội chất trực hầu... điều khiển Loan phi tiên tầu... lái tới Tranquebar[16] cho Barisy Khâm sai Cai đội thiềng tín hầu. Xong nhiệm vụ, bán chiếc tầu này, cùng với những hàng hoá trên tầu để mua hai chiếc tầu khác lớn hơn, chở đầy súng đạn và chiến cụ mà những đại lý của hoàng thượng sẽ chu cấp".
- Chỉ dụ cho Barisy ngày 20/10/1798: "Lệnh cho Barisy, Khâm sai Cai đội thiềng tín hầu...; tức thì sang ngay Ấn Độ, đem theo năm lá thư của vua, trên tầu Loan phi tiên tầu của hoàng thượng. Xong nhiệm vụ, y khởi tố viên trung tá hải quân Anh của tầu Non-Such tên là Thomas về vụ chiếm tầu Armide của hoàng thượng, đòi phải bồi thường cho sự xúc phạm đến tầu của nhà vua và buộc phải trả lại những thư từ và giấy tờ quan pháp của vua, mà trung tá Thomas đã ăn cắp. Bắt phải hoàn lại giá tiền chiếc tầu Armide và những hàng hoá chứa trên tầu, cả vốn lẫn lời. Trao tất cả số tiền này tận tay những đại lý của hoàng thượng là Hanops và Stevenson, đại thương gia ở Tranquebar, để mua một chiếc tầu, khí giới và chiến cụ khác và chở ngay về đây". Ngày 20/11/1798, Gia Long viết thư cho toàn quyền Anh ở Ấn Độ, buộc tội vụ tầu Anh bắt tầu Armide, đòi phải giải quyết vấn đề ngay, nếu không, nhà vua sẽ trả đũa bằng võ lực. Trước thái độ hết sức cứng rắn như vậy, chính quyền Anh đành nhượng bộ, Armide được trao trả về Sài Gòn đúng theo quy luật quốc tế. Sau vụ Armide, Barisy vẫn tiếp tục buôn bán cho vua. Một bản trích sổ sách cho thấy, Barisy, mua cho vua, trong một chuyến tầu, gồm những thứ: "960, súng trường hạng nhất, 10 đồng một khẩu; 1.120 súng trường có khuyết điểm, giá 8 đồng, 918 súng trường, giá 6 đồng; 6 cặp súng lục, giá 8 đồng; 12 cặp súng lục, thứ tồi, giá 6 đồng; 29 cặp súng lục, thứ rất tồi, giá 5 đồng; 956 viên đạn, 1.167 thương (piques), 71 caty (?); 245 tấm dra (drap), giá 4 đồng". Bán cho vua tổng cộng 45.800. Đã nhận của vua 32.240 "[17]. Ta thấy được đại cương số lượng vũ khí, mỗi lần mua, và câu cuối: "Bán cho vua tổng cộng 45.800 đồng. Đã nhận của vua 32.240 đồng". Nhờ những mua bán này, Gia Long có nhiều vũ khí mới để trang bị quân đội.
Những nhiệm vụ khácCó thể nói Barisy là người làm đủ thứ việc cho nhà vua. Anh không chỉ chuyên buôn bán, đôi khi còn được vua giao nhiệm vụ khác nữa. Thực Lục, tháng 2-3/1800, như sau: "Vua cho là người Hồng Mao quen thủy chiến, sắc cho thuyền trưởng là Khâm sai Cai đội Ba La Di tập họp các thuyền buôn lại, khiến dự bị quân nhu và chiến cụ để đợi điều khiển"[18]. Câu này viết trong bối cảnh sau đây: Tháng giêng 1800, Trần Quang Diệu và Võ Văn Dũng vây thành Bình Định. Võ Tánh, Ngô Tòng Châu cố thủ. Nguyễn Ánh chuẩn bị giải vây Bình Định, đồng thời phòng thủ Gia Định, sợ quân Tây Sơn vào đánh úp. Trong bối cảnh khẩn cấp này, Nguyễn Ánh cần đến tất cả mọi thế lực, biết Barisy quen biết giới tầu buôn, bèn truyền cho "Ba La Di tập họp các thuyền buôn lại", "dự bị quân nhu và chiến cụ để đợi điều khiển". Điều này chứng tỏ, khi vua cần, Barisy có cả một nhóm "thương nhân bạn" có nhiều thuyền buôn, sẵn sàng tập hợp giúp vua trong việc quân lương, hay phòng thủ. Nhiệm vụ này, chắc Barisy đã làm xong, cho nên sau đó được vua thưởng. Tháng 6-7/1800, Thực Lục viết: "Thả cho thuyền trưởng người Hồng Mao Barisy về nước, cho một chiếc chiến thuyền"[19]. Tức là vua thưởng cho Barisy một chiếc tầu chiến để anh được tự do về nước. Barisy cũng nói đến việc này, trong thư gửi giáo sĩ Létondal ngày 11/4/1801 như sau: "Hoàng Thượng đã cho con một chiếc tầu chiến, nhưng con phải sửa chữa lại. Hoàng tử [Cảnh] cấp cho con thợ và tất cả những dụng cụ cần thiết. Cái chết của hoàng tử làm con đau đớn quá, chết điếng trong 24 tiếng đồng hồ không biết mình còn sống hay không. 2 giờ sáng ngày 28/3 người ta báo cho con biết là tầu của con đã bị chìm..."[20] Chiếc tầu này chính là tầu Pélican [lougre Pélican] mà Barisy nói đến trong thư ngày 16/4/1801, gửi Létondal và Marquini: "Sự mất mát của tầu Pélican lên đến 18.800 đồng; ngoài ra còn phải kể đến quần áo, đồ đạc, toàn bộ dụng cụ nhà bếp, thư từ, sổ sách, bát đĩa, lương thực... tất cả đều bị chôn vùi...". Chính chiếc tầu của vua cho (và một số ân sủng khác nữa) đã khiến nhóm người buôn Bồ ganh tỵ, tìm cách hãm hại, khiến Barisy phải chịu tai nạn thêm lần nữa; cho nên trong cùng lá thư này, Barisy có những lời sau: "[Sau vụ tầu Armide] lại được Vua và Hoàng tử che chở, kiếm được chục nghìn đồng (piastres); rồi bị đóng gông, mất hết của cải, chỉ trong khoảng có tám ngày, bị kết tội bỏ thuộc độc, cướp của, giết người, mà không có bằng chứng gì cả"[21].
Sự che chở của vua và Hoàng tử CảnhTrong lá thư dài viết ngày 11/4/1801 gửi M. Létondal[22], Barisy viết rất nhiều chuyện, anh kể trận Nguyễn Văn Thành đánh chiếm Phú Yên, kể trận Thị Nại với bản đồ kèm theo, và kể việc anh bị hãm hại: vì bị Botelho, người Bồ, vu cáo các tội ăn cắp quà cáp tặng vua, nhận hối lộ 400 đô la để đưa cho các quan. Anh bị đóng gông giam vào ngục, trong khi vua đi đánh trận và Hoàng tử Cảnh bị bệnh nặng. Hoàng tử đã giải oan cho anh trước khi mất. Nhưng Botelho tiếp tục vu cho anh tội bỏ thuốc độc giết thuyền trưởng Henderson. Việc ta toà, nhưng không có bằng chứng, Barisy được trắng án. Botelho bị đánh roi vì tội vu cáo. Căm thù, Botelho ngầm sai người đánh chìm tầu Pélican, vì thế Barisy "mất hết của cải, vốn liếng". Những sự kiện này, theo Barisy, xẩy ra chỉ trong khoảng có tám ngày, vào đúng lúc Hoàng tử Cảnh mất và vua đi đánh trận vắng. Vụ Botelho hãm hại Barisy, thực ra, bắt nguồn từ sự tranh chấp để chiếm khách hàng giữa những nhà buôn Anh, Bồ, và Pháp trong vùng Ấn Độ Dương. Barisy là đại diện của nhà buôn Anh Abbott-Maitland ở Madras, chuyên bán khí giới cho vua Gia Long, do đó bị thương nhân Bồ ghét. Barisy lại là người được vua và hoàng tử che chở, cho một số đặc lợi hơn các nhà buôn khác, nên họ lợi dụng lúc hoàng tử bệnh nặng và vua ở xa để tìm cách triệt hạ. Lúc đó, tại Gia Định, bên cạnh hoàng tử, có đại tướng Nguyễn Văn Nhơn làm Lưu trấn (tức trấn thủ) và quan Hình bộ Nguyễn Tử Châu xét việc kiện tụng, đều là những lãnh đạo giỏi và thanh liêm, cho nên Barisy đã được xét xử khá công minh: Botelho bị đòn vì tội vu cáo. Theo lời Barisy, vụ vu cáo này chỉ kéo dài trong khoảng tám ngày. Vậy tất cả đã xẩy ra trong khoảng từ 20 đến 28/3/1801. Anh thuật lại chuyện này cho giáo sĩ Létondal, như sau: "Sau khi đã làm cho con bị đóng gông, [Barisy bị đóng gông nặng ba người khiêng, nhưng đến đêm có lệnh tháo gông cho anh] Botelho sung sướng lắm... lên tầu bắn súng đại bác ăn mừng... Hoàng tử đang ở trong tình trạng hãi hùng, nghe thấy nhiều tiếng đại bác, mới hỏi: "Barisy đi đấy ư?" Lúc đó, đứa bé 10 tuổi đang kéo quạt cho hoàng tử thấy người hỏi ba lần mà không ai dám trả lời, mới mếu máo thưa rằng: "Làm sao mà ảnh đi được, người ta đã bắt ảnh đóng gông hồi hổm rồi, bởi chưng hoàng tử thương ảnh quá, cả hoàng thượng nữa". Bấy giờ hoàng tử mới nổi trận lôi đình, truyền gọi ngay Ong Tân Quon, thủ tướng [Nguyễn Văn Nhơn, Lưu thủ Gia Định] vào và ra lệnh nghiêm khắc lắm, người ta nói hoàng tử nhắc tên bọn con cả đêm [Barisy và 3 cộng sự]; người giận lắm, gần như mê sảng, nói rằng cha người đã giao chúng con cho người cai quản; rồi người cho gọi cha Liot đến cầu nguyện cho người, và gởi gấm chúng con cho cha, người mất lúc 4 giờ sáng" [23]. Có lẽ nhờ Đông cung trước khi chết, đã trối lại với tướng Nguyễn Văn Nhơn mà Barisy khỏi bị cùm. Hoàng tử Cảnh mất ngày 20/3/1801, vì bệnh đậu mùa tại Gia Định, ở tuổi 22. Vẫn trong lá thư này, Barisy đã viết những dòng sau đây về Hoàng tử Cảnh: "Trong khi Đức Vua chiến thắng ngụy quân [ở trận Thị Nại 28/2/1801], treo cờ Hoàng triều thay thế cờ của bạo quyền; thì Hoàng tử nằm trên giường đớn đau, dường như chỉ chờ tin này để được mãn nguyện nhắm mắt. Đang tuổi thanh xuân, tính tình hiền hoà, có lòng nhân ái, hoàng tử là thần tượng của toàn dân, là con người mà triều đình Nam Hà đặt những kỳ vọng êm ái nhất và thân thiết nhất; là người che chở công khai cho những người Âu vì hoàn cảnh khốn cùng hay vì sự tình cờ dẫn đến vương quốc Nam Hà. Người là ân nhân của chúng con, và nếu con dám nói một cách chân thật và thực tình, là bạn của chúng con, là người bênh vực đức tin và giáo lý của chúng con. Trời hỡi! Còn đâu sự phán đoán cao minh trên tất cả! Tưởng chừng như đây là dịp [khiến con]có thể nổi loạn chống lại mệnh lệnh của Thượng đế. Con gửi cho cha những bản sao các thư mà hoàng tử đã viết trước khi chết mà một số lớn đã do tầu Generous friend trao lại cho con, một phần khác con còn giữ ở nhà; cha sẽ thấy con đã bị mất mát như thế nào; con đã cay đắng như thế nào khi những kẻ thù đầy ác ý tấn công vào danh dự của con để lôi con ra khỏi trạng thái hôn mê mà con đang bị chôn vùi."[24] Ngày 25/3/1801, Barisy đang sửa soạn tầu để đi Maccala, Bornéo, thì được tin Botelho vu cáo cho mình tội bỏ thuốc độc giết thuyền trưởng Henderson, phải ra toà. Barisy được trắng án. Botelho, bị đòn vì tội khai man, bèn tìm cách đánh chìm tầu Pélican ngày 28/3/1801.
Barisy tả những trận đánh cuối cùngSau những đại nạn đã xẩy ra cho anh trong tháng 3/1801, ngày 22/4/1801, Barisy phải lên đường theo quân[25]. Ngày 27/5/1801, anh ở trong đội Tả quân của Lê Văn Duyệt, theo lệnh Phó tướng Nguyễn Công Thái đến Quy Nhơn. Ngày 16/7/1801, Barisy viết lá thư trên tầu Phụng (Phượng Phi), ở cửa Thuận An, gửi các giáo sĩ Marquini và Létondal, mô tả các trận đánh mà anh đã tham dự, đặc biệt trận Phú Xuân, và những ngày đầu vua Gia Long vào Huế[26]. Trận Phú Xuân bắt đầu ngày 9/6/1801 và kết thúc ngày 15/6/1801. Ở cuối thư, Barisy báo tin: đã xin phép vua cho đi Madras để chỉnh đốn những "áp-phe" của mình đang bị "hư hại". Thực Lục việc tháng 8-9/1801, ghi: "Sai Khâm sai thuộc nội Cai đội Ba La Di đi Hạ Châu tìm mua súng đạn"[27]. Vậy đi Madras không chỉ là việc riêng, còn kèm theo công vụ mua súng đạn cho vua. Sau đó, không có tin gì khác về Barisy; đến ngày 15/6/1802, có lá thư Barisy gửi cho các giáo sĩ Foulon và Marchini từ Sài Gòn[28]. Đó là lá thư chót của anh còn lưu lại. Ngày 17/9/1803, thư Giám mục La Bartette gửi cho M. Chaumont ở Paris, trong có câu nói về cái chết của Barisy: "Tầu Anh còn ở đây [tầu của hãng buôn Anh ở Madras]; đang tính toán sổ sách với nhà vua. M. Barisy, là đại diện thương mại của tầu Anh tại đây, mất đã một năm rồi, có vài lộn xộn trong sổ sách. Tôi tin rằng cũng sẽ ổn thoả, không có gì trở ngại."[29] Vậy Barisy mất vào khoảng tháng 9/1802. Ở tuổi 33. Barisy có người vợ Việt, và một con gái tên là Hélène. Chaigneau là người bạn thủa nhỏ, đến Nam Hà với Barisy. Trong thư Chaigneau viết cho người anh cả ngày 1/10/1817, có một câu nói về cái chết của Barisy, và kể lại trong hoàn cảnh nào ông đã cưới Hèlène, con gái bạn làm vợ kế: "Chắc anh còn nhớ Laurent Barisy, bạn em từ thủa nhỏ, chuyến đi nào em cũng gặp nó. Khi sang Nam Hà, thấy nó làm đại diện cho một hãng buôn Anh ở Madras buôn bán với nhà vua. Khi vua chinh phục xong cả nước, em bắt buộc phải theo vua về triều, còn Barisy ở lại Sài Gòn. Khi đi về triều bằng đường bộ, nó mất ở giữa đường"[30]. Sau đó, Chaigneau cho biết: Vì Barisy là đại diện cho hãng buôn Anh, nên vua Gia Long đã cho lệnh niêm phong tài sản và giấy tờ của Barisy để trao lại cho công ty Anh ở Ấn Độ [có lẽ vì Barisy chưa làm giấy tờ chính thức với vợ, nên khi mất, vợ con không được hưởng gia tài], vì thế, vợ con Barisy không nương tựa vào đâu được, nên Chaigneau đã đem đứa nhỏ về nuôi. Sau này, khi vợ Chaigneau mất, năm 1815, hai năm sau, 1817, ông tục huyền, lấy Hélène, con Barisy làm vợ kế. Barisy là người trung thành nhất với vua Gia Long và Hoàng tử Cảnh, thành thật đáp lại sự che chở mà vua và hoàng tử dành cho anh. Barisy để lại hình ảnh một con người tự do, qua những dòng chữ viết rất "loạn", bất cần từ vựng, chính tả, cú pháp, nhưng thực sự có văn tài; đưa ra những hình ảnh đôi khi thơ mộng, đôi khi đầy tình nghiã. Khi tả các trận đánh, ngòi bút của anh thực sôi nổi, đầy nhiệt huyết. Lời thư mô tả các trận Thị Nại, Phú Xuân, bộc lộ sự sống động của trận tiền, so với chính sử không sai, mà còn bổ sung cho chính sử nhiều chi tiết về thái độ và hành động của con người. Đối với chúng ta là những tài liệu quý. Chúng tôi sẽ trích dịch trong chương tới.
[1] Documents Salles, Laurent Barisy, BAVH, 1939, III, t. 178, 180, 197, và 221. [2] Documents Salles, Laurent Barisy, BAVH, 1939, III. t. 205. [3] Documents Salles, Laurent Barisy, BAVH, 1939, III, t. 198, 199. [4] Documents Salles, Notes sur la famille Barisy de Villeneuve (Ghi chú về gia đình Barisy của Villeneuve), BAVH, 1939, III, t. 199. [5] Barisy hay dùng chữ lougre, có khi chỉ thuyền chuyên chở, có lẽ ta gọi là thuyền bàn, nhưng có nhiều chỗ Barisy dùng trong nghiã thuyền chiến. [6] Nguyên văn: employé sur vaisseau de transport comme 2e lieutenant. [7] Thư Barisy in trong Documents relatifs à l'époque de Gia Long, BEFEO, 1912, t. 44; và Les français au service de Gia Long, Leur Correspondance, BAVH, 1926, IV, t. 398. [8] Guéren, Histoire maritime de France, V, t. 355, Doc. Salles, t. 234. [9] Faure, Bá Đa Lộc, t. 223. [10] Louvet, La Cochinchine Religieuse, I, t. 545. [11] Archives Lefèbvre de Béhaine, Doc. Salles, t. 232. [12] Louvet, La Cochinchine Religieuse, I, t. 554-555. [13] Thư Olivier gửi Aguiton, Louvet t. 555. [14] Thư Olivier gửi Aguiton, Louvet, t. 555. [15] Thư Nguyễn Vương gửi toàn quyền Anh ở Ấn Độ, Louvet t. 552-553. [16] Tranquebar là vùng đất Ấn Độ thuộc Đan Mạch, gần Pondichéry. [17] Louvet, La Cochinchine Religieuse, I, t. 557-558. [18] TL, I, t. 407. [19] TL, I, t. 413. [20] Thư Barisy gửi M. Létondal (11/4/1801) Les Françcais..., Leur Correspondance, BAVH, 1926, IV, t. 385. [21] Thư Barisy gửi M. Létondal và Marquini, 16/4/1801, Les Français..., Leur Corr. BAVH, 1926, IV, t. 398. [22] Thư Barisy gửi M. Létondal ngày 11/4/1801, Les Français... Leur Corr. BAVH, 1926, IV, t. 373- 394. [23] Thư Barisy gửi M. Létondal ngày 11/4/1801, Les Français... Leur Corr. , BAVH, 1926, IV, t. 384. [24] Thư Barisy gửi M. Létondal ngày 11/4/1801, Les Français... Leur Corr. BAVH, 1926, IV, t. 379-380. [25] Thư Barisy gửi M. Létondal, ngày 11/4/1801, Les Français... Leur Corr. BAVH, 1926, IV, t. 394. [26] Thư Barisy gửi Marquini và Létondal, 16/7/1801, Les Français... Leur Corr. BAVH, 1926, IV, t. 400-414. [27] TL, I, t. 456. [28] Thưa Barisy gửi M. Foulon và Marchini, 15/6/1802, Les Français... Leur Corr, BAVH, 1926, IV, t. 414-416. [29] Thư Giám mục La Bartette gửi M. Chaumont, ngày 17/9/1803, Cadière, Doc. Rel. t. 57. [30] Thư Chaigneau viết cho anh, André Salles, Jean-Baptiste Chaigneau et sa famille, BAVH, 1923, I, t.160. Thụy Khuê © Copyright Thuy Khue 2015
|