Thụy Khuê Khảo sát công trạng của những người Pháp giúp vua Gia Long
Chương 23 Barisy tường thuật trận Chủ Sơn, Thị Nại, Phú Xuân và vua Gia Long vào Huế
Về những trận chiến lớn giữa Nguyễn Ánh và Tây Sơn, ngoài những điều ghi trong chính sử nhà Nguyễn, có rất ít tư liệu của các chứng nhân khác, vì lý do: giới giáo sĩ không tham dự còn tướng lãnh, binh sĩ không quen viết hồi ký, mà nếu viết cũng bị thất lạc, do sự bảo tồn di sản văn hoá của chúng ta rất kém. Vì vậy, ngoài Thực Lục, Liệt Truyện, những lá thư của Barisy có một giá trị riêng, bởi đó là cái nhìn của một người ngoại quốc. Tuy Barisy có thể thiên vị, vì là một bầy tôi trung thành, hết sức khâm phục vua Gia Long, nhưng lối trình bầy trận địa của anh rất sống động, chi tiết, cặn kẽ, cho ta thấy bối cảnh: hai bên đánh nhau như thế nào, với những vũ khí gì? Cung cách của vua Gia Long ở mặt trận ra sao?... Ngoài ra, Barisy còn kê khai con số chiến thuyền, khí giới, số quân hai bên, điều này Thực Lục thường không ghi rõ. Tất nhiên độ chính xác vẫn cần được kiểm chứng, nhưng trong chừng mực nào đó, thư Barisy góp phần không nhỏ vào việc tìm hiểu chiến tranh. Hiềm một nỗi, văn Barisy rất khó đọc, thường viết liền một hơi, không chấm, phẩy, chia động từ bừa bãi, chữ viết hoa tùy hứng, nên dịch không dễ dàng. Cadière có công sưu tập những thư này, ông đã trích một số thư, sửa cho dễ đọc hơn, in trong tập Documents relatifs à l'époque de Gia Long từ năm 1912[1]. Mười bốn năm sau, ông làm lại, cho đánh máy đầy đủ các lá thư, đúng như nguyên bản và in trong tập Les français au service de Gia Long, Leur Correspondance[2]. Tập tư liệu thứ hai này quý hơn. Trong phạm vi chương này, chúng tôi không thể dịch hết hai lá thư chính của Barisy, rất dài; một viết ngày 11/4/1801 gửi giáo sĩ Létondal, quản thủ tu viện Macao, kể trận Chủ Sơn và trận Thị Nại; một gửi hai giáo sĩ Marquini và Létondal ngày 16/7/1801, tả trận Phú Xuân và vua Gia Long vào Huế. Ba trích đoạn được lựa chọn sau đây, thuộc về trận Chủ Sơn, trận Thị Nại, trận Phú Xuân và Gia Long vào Huế. Kèm theo mỗi tường trình của Barisy, sẽ có tóm tắt sự kiện theo chính sử; riêng trận Thị Nại, còn có thêm lời giáo sĩ Le Labousse và thư Chaigneau, như những nhân chứng khác.
Tóm tắt tình hìnhVõ Tánh chiếm được Quy Nhơn tháng 7/1799, Nguyễn Ánh đổi thành Bình Định, để Võ Tánh và Ngô Tòng Châu ở lại trấn giữ. Tháng 2/1800 bộ binh của Trần Quang Diệu tiến đánh Thạch Tân [Bến Đá, biên giới Bình Định-Quảng Ngãi], thuỷ binh của Võ Văn Dũng tiến đánh Thị Nại. Võ Tánh đóng cửa thành không tiếp chiến. Trần Quang Diệu đắp lũy dài vây bọc thành Bình Định, chu vi 4.340 trượng, mỗi trượng 2 người tuần giữ, bộ binh vây thêm vài vòng. Võ Văn Dũng để hai thuyền đại hiệu Định quốc và hơn 100 thuyền chiến chặn ngang cửa biển Thị Nại, cô lập Võ Tánh và Ngô Tòng Châu trong thành[3]. Tháng 4-5/1800, Nguyễn Vương xuất quân giải vây Bình Định, quân Nguyễn thắng một số trận, chiếm Phú Yên, nhưng không thể giải vây Bình Định. Kể từ tháng 1/1801, cuộc chiến toàn diện bùng nổ khắp các mặt trận. Trận Thị Nại 28/2/1801 có thể coi là trận Xích Bích của Gia Long, làm thay đổi diện mạo chiến tranh, dẫn đến chiến thắng cuối cùng. Trong giai đoạn này, Barisy đã đóng góp một số tư liệu lịch sử quan trọng. Nguyễn Vương, để Hoàng tử Cảnh trấn giữ Gia Định cùng với Nguyễn Văn Nhơn và Nguyễn Từ Châu, xuất quân qua cửa Cần Giờ, đem Minh Mạng, mới 9 tuổi đi theo. Tháng 7-8/1800, thuyền vương đến cửa Cù Mông [Phía bắc Phú Yên, giáp giới Bình Định]. Cùng trong tháng này, vương cho Barisy về nước, cấp một chiến thuyền (xem chương 22, Barisy). Vương đóng bản doanh ở Cù Mông trong suốt thời gian còn lại, cho tới khi đi đánh Phú Xuân ngày 5/6/1801. Trong lúc này, Barisy ở đâu? Chúng tôi nghĩ rằng: có thể con người giang hồ Barisy đã không bỏ mặt trận Bình Định Phú Yên, trong thời điểm sôi bỏng này, để "về nước" như vua cho phép, và theo Thực Lục, là nước Anh hay Ấn Độ vì vẫn coi Barisy là người "Hồng Mao". Vì thế, rất có thể Barisy đã ở lại, có mặt trong các trận Chủ Sơn, Thị Nại. Sau chiến thắng Thị Nại, Barisy mới về Sài Gòn, chuẩn bị đi Malacca, thì bị Botelho vu cáo, trong lúc Hoàng tử Cảnh hấp hối. Cadière dựa vào lá thư Chaigneau viết cho Barisy kể trận Thị Nại, để đoán rằng Barisy ở miền nam Nam Hà; chúng tôi không tin lắm, vì rất có thể Chaigneau cũng không biết Barisy ở đâu, nên đã viết thư cho bạn, kể lại chiến thắng Thị Nại.
Trận Chủ SơnKhi Nguyễn Ánh xuất quân giải vây Bình Định, sai Nguyễn Văn Thành chỉ huy Tiền quân, tiến đánh Phú Yên, nhưng Nguyễn Văn Thành bị khó khăn ở mặt trận Chủ Sơn (giáp giới Bình Định) không cách nào phá được. Trận Chủ Sơn, theo chính sử, xẩy ra tháng 11 năm Canh Thân [16/12/1800-14/1/1801] và ghi toàn thể công lao về Nguyễn Văn Thành và Lê Văn Duyệt. Đại Nam Nhất Thống Chí tóm tắt như sau: "Núi Phước An ở phiá nam huyện Tuy Viễn [Bình Định], có tên nữa là Chủ Sơn, hình thế cao cả, hùng vĩ, chu vi hơn trăm dặm... Năm Canh Thân, quân giặc giữ Chủ Sơn, Nguyễn Văn Thành đánh mãi không được, dò thám[4], biết được rằng ở phiá tây nam núi này có đường tắt có thể đánh úp mặt sau của giặc, bèn vẽ điạ đồ và xin quân hội chiến, vua bèn sai Tống Viết Phước và Lê Văn Duyệt đem quân tiến đến Thị Dã. Thành sai Duyệt giữ bảo [đồn] làm chính binh, tự mình đem kỳ binh [quân đánh úp] theo đường tắt đi vượt khe Bột, qua trại Đèn, vòng ra mặt sau của giặc, tung lửa đốt trại sách, quân giặc vội vàng quay lại đánh. Duyệt bèn chỉ huy binh sĩ tiến sát đến đồn giặc, hai mặt tả hữu đánh kẹp lại, quân giặc phải tan chạy."[5] Đó là thoại chính thức, nhưng Barisy kể hơi khác một chút, anh viết: "... Nghe nói quân Tây Sơn gửi một phái đoàn đến [điều đình], việc ấy dám lắm vì họ đang ở trong thế kẹt, rất kẹt; họ cầm cự với quân của vua dưới lệnh tướng Ong Tien Quaoun [Ông Tiền Quân chỉ Nguyễn Văn Thành]: tới ngày 21 tuần trăng thứ 11 [ngày 5/1/1801], [Trước đó] nhờ bọn người Man đã tìm được cho vua một lối mòn, đại bác và voi có thể đi qua mà địch quân hoàn toàn không biết. Vua bèn gửi Ong Tong Dong Tag [Ông Tổng Đồn Tả tức Lê Văn Duyệt] với một phần quân đội đến sau lưng địch. Sau 7 ngày đường, đến sáng ngày 21 [5/1/1801], lúc mặt trời ló dạng, Ong Tien Quaoun nhìn thấy hiệu của Ong Tong Dong Tag, bèn tấn công dữ dội vào những đồn dung Thi [les forts de dung Thi, chắc là Đồng Thị, gần Thị Dã] gồm bẩy đồn thẳng hàng để chặn quân ta không tiến được đến gần. Lệnh xung phong từ lúc mặt trời mọc, mà đến 10 giờ sáng ngụy quân mới thấy quân vua đã đến sau lưng và hai bên sườn. Giàn súng liên thanh (mouquesterie) sử dụng thuần thục và 20 đại bác nhỏ dã chiến, bắn, trong tầm ngắn của súng lục, chỉ chốc lát, đã quét sạch dọn đường. Những kẻ chạy trốn lãnh đủ thương giáo, lưỡi lê; sự tàn sát thực kinh hoàng; quân Theuk Teuk [Túc Trực] hay quân Cảm tử, không chừa một ai, họ chỉ rời chiến trường khi không còn người để giết"[6]. Barisy mô tả gần đúng như chính sử, nhưng rõ hơn và sống động hơn. Trừ chi tiết: Vua sai Lê Văn Duyệt đi ngả sau đánh tập hậu, còn chính sử lại ghi Nguyễn Văn Thành. Có thể Barisy viết đúng, vì Lê Văn Duyệt can đảm xông xáo, Nguyễn Văn Thành nhát, chưa chắc vua đã giao việc này. Ngoài ra, theo Barisy, nhà vua đích thân điều khiển trận chiến, việc này chính sử không ghi. Sau đó, Barisy viết tiếp: "Hội đồng chiến tranh của địch, sau thất bại này [trận Chủ Sơn], tưởng họ có thể kích động tinh thần tướng sĩ và và nhân dân bằng cách đánh những cú lớn, bèn hội tụ những đoàn quân thiện chiến nhất và những quan tướng giỏi nhất, quyết định một trận đánh toàn diện. Ngày 27 của tuần trăng thứ 11 [11/1/1801] đại binh tham chiến, có binh đoàn của tướng thống lãnh thủy binh [Võ Văn Dũng] tăng lực lên tới 223 ngàn người. Nhưng con số này không làm cho đấng quân vương của ta sợ hãi. Quân địch thực sự có lợi trên địa thế. Nhưng vua có giàn súng liên thanh, có đại bác, và trên tất cả là tấm lòng ba quân. Chúa thượng tay cầm gươm, dáng vui vẻ, dạo qua các hàng ngũ. Quân ta hết sức nóng lòng. Bên địch đang rung chuyển, đại bác của họ nổ rền, đàn voi của họ hung dữ tiến gần đến hàng ngũ ta. Vua trầm tĩnh đứng giữa quân hộ vệ, quan sát tình hình. Sự im lặng tuyệt đối ngự trị hàng ngũ quân ta. Khi địch tới gần, vào tới 1/2 tầm súng. Vua hạ lệnh cho các toán quân nhả đạn: 400 khẩu đại bác dã chiến khạc lửa sắt và chết chóc, nhả liên hồi trúng đích, thành một cuộc tàn sát kinh hoàng. Phiá họ có những đồn bên sườn và ở phiá đuôi trợ lực; đại bác của họ bắn trúng làm quân ta thiệt hại nặng. Vua ra lệnh cho quân cảm tử trèo lên đánh giáp lá cà; các quan làm gương trước, chiếm được các đồn; quân sĩ chuyển sang gươm giáo và đại bác kết liễu sự tháo chạy toán loạn: địch quân chạy trốn vào thành luỹ phòng thủ. Thấy địch thua chạy, vua bằng lòng [không cho lệnh truy kích] vì quân nhà cũng thấm mệt: sự tàn sát còn kéo dài trong đêm. Vua đóng ở ngoài tầm đại bác (cách xa 1, 2 lần) của thành trì kiên cố của địch. Ngày 21 tháng 12 [4/2/1801] họ còn ra khiêu chiến, vua không rời vị trí phòng thủ của mình. Bấy giờ họ tiến lên đánh giáp lá cà, rất trật tự và chừng mực. Nhà vua, với kính thiên lý (lunette d'approche) trong tay, thấy ở bên cánh phải của họ rất lộn xộn mà lại bị một cái khe chia cắt với trung tâm, có thể dễ dàng cắt đứt. Bèn tức khắc hạ lệnh cho 22 đội cảm tử xuất phát đánh ngay không để cho họ kịp nhận diện. Gió Đông Bắc quạt khói vào mắt, khiến họ không phân biệt được quân nhà vua; chỉ đến khi nhận được những tràng súng đầu tiên, mới hiểu mình lầm. Họ chống mạnh; nhưng vua ở đâu, là có chiến thắng ở đó. Chiến thắng toàn diện: khi vua xuất trận, giữa quân cấm vệ, lại được hoả lực kinh hồn của giàn súng phòng thủ che chở, thì quân địch phải bại. Địch quân mất 5 trong số những quan tướng giỏi, cả tướng chỉ huy cánh phải. Quân đội nhà vua không tha ai cả, vì thế, sự tàn sát thật là kinh hoàng" [7]. Trận chiến này, chỉ xẩy ra có 6 ngày sau trận Chủ Sơn, chiếu vào Thực Lục thì có thể đây là những trận tiếp theo Chủ Sơn, Nguyễn Văn Thành đánh Trường Dã (Đồng Dài), Tống Viết Phước đánh Yên Tượng... chiếm được hết các đồn từ núi Lệ Thạch đến An Hoa, An Lộc...[8] Nhưng Thực Lục không nói gì đến sự hiện diện của Nguyễn Vương, Phải chăng là một thiếu sót? Ta lại biết, Nguyễn Ánh đóng bản doanh ở Cù Mông, gần đấy, vậy rất có thể Barisy viết đúng: Nguyễn Ánh trực tiếp điều khiển các trận đánh chăng? Vẫn theo Barisy, vì chiến bại này, mà quân Tây Sơn chuẩn bị một lực lượng quân tiếp viện ở Cù Mông để đánh Nguyễn Ánh bằng đường biển, nhưng bị nhà vua khám phá và giải tán; vì thế Nguyễn Vương tấn công trước, do đó, mà có trận Thị Nại 1801, Barisy viết: "Từ khi đó, còn nhiều trận đánh khác mà quân chiến thắng của Hoàng Thượng đã tỏ sự can trường của họ. Sau cùng, ngày 1 tháng giêng [13/2/1801], các tướng thuỷ bộ [địch] họp đại hội đồng quyết định tấn công nhà vua bằng đường biển. Họ sửa soạn thuỷ binh trong cảng Cum-ong [Cù Mông] chỉ cách Quy Nhơn 20 dặm: cho lên tầu một đội tiếp viện quan trọng toàn quân thiện chiến. Nhà vua biết rõ dự định của họ, bèn liền tức khắc, cho quân xuống lại hạm đội, dùng rào chặn cửa biển và dùng giàn hoả lực đặt đúng chỗ, tước đoạt ý định của địch quân; nhưng riêng ông, ông đã dự tính chương trình tấn công. Và ông đã thực hiện với sự lớn lao của tâm hồn và lòng can đảm của những Nelson, Duncan, Hood, Rodney, vv..."[9] Liền sau đó là trận Thị Nại 1801.
Trận Thị Nại 1801Trận Thị Nại, theo Đại Nam Thực LụcKể từ tháng 5/1800, Nguyễn Ánh xuất quân đánh Tây Sơn, thắng một số trận, nhưng vẫn không giải vây được Bình Định để cứu Võ Tánh và Ngô Tòng Châu cố thủ trong thành. Đầu năm 1801, chiến thuật đánh hoả công của Đặng Đức Siêu đã sửa soạn xong, Nguyễn Ánh quyết định tấn công hải quân Tây Sơn đóng ở Thị Nại. Thực Lục viết: "Trước là Tư Đồ giặc Võ Văn Dũng dùng hai chiếc thuyền đại hiệu Đinh quốc và hơn trăm chiếc thuyền chiến chặn đóng ngang cửa biển, lại dựng hai bảo [đồn] ở bãi Nhạn Châu bên tả và ở núi Tam Toà bên hữu cửa biển, đặt nhiều súng lớn, dựa thế cao, chẹn chỗ hiểm để chống quân ta. Đến đây các quan làm xong chiến cụ hoả công, vua mật định đêm hôm 16 [28/2/1801] cất quân đánh úp. (...) Lưu Phạm Văn Nhơn giữ Cù Mông. Vua bèn thân chinh đem thuỷ quân tiến phát. Trống canh ba qua Tiêu Cơ, bắt được lính đi tuần của giặc, biết được khẩu hiệu, tức thì sai Nguyễn Văn Trương và Tống Phước Lương dùng thuyền nhỏ lên trước vào Hổ Cơ đốt đồn thủy của giặc. Lại sai Võ Di Nguy đi thuyền chấp lệnh thẳng tiến, Lê Văn Duyệt đốc quân tiếp theo. Giặc giữ bảo cự chiến từ giờ DẦN [3-5 giờ sáng] đến giờ NGỌ [11-13 giờ trưa] tiếng súng vang trời đạn bay như mưa. Võ Di Nguy bị bắn chết, Duyệt cứ mặc kệ, càng thúc đánh hăng. Vua thấy sĩ tốt nhiều người tử thương, cho tiểu sai đến dụ cho tạm lui. Duyệt thề chết vẫy quân xông lên, giờ THÂN [15-17 giờ chiều] lọt vào được cửa biển, dùng đuốc hoả chiến thừa chiều gió phóng đánh thuyền đại hiệu của giặc. Quân Tây Sơn cả vỡ, chết rất nhiều. Dũng thua chạy. Thuyền Tây Sơn bị đốt cháy gần hết. Quân ta bèn giữ cửa Thị Nại. Người ta khen trận này là võ công to nhất"[10]. Về Nguyễn Văn Trương, Liệt Truyện viết rõ hơn: "Nguyễn Văn Trương tiên phong, bắt được lính tuần của Tây Sơn, biết khẩu hiệu, Trương bèn cho thuyền nhỏ lẻn vào Tiêu Ki, trèo qua thuyền lớn của địch, đến miếu Tam Toà, chém được đô đốc Trà, đốt rất nhiều thuyền địch"[11]. Sự tường trình của Thực Lục trên đây có những chỗ không ổn, chúng tôi sẽ nói rõ hơn, ở dưới.
Trận Thị Nại, theo Le LabousseLe Labousse là một trong những người hiếm hoi viết lại trận Thị Nại, tuy không trực tiếp tham dự, nhưng lúc ấy ông ở Khánh Hoà, gần đó, và chắc ông đã được những người dự trận kể lại: "... Chiến thắng lừng lẫy nhất, sẽ mở một kỷ nguyên mới trong lịch sử biên niên của Nam Hà, là chiến thắng mới đây nhà vua vừa đạt được trên thuỷ quân của địch ở cảng Quy Nhơn, chỗ bản đồ đề tên là Chine-Chine [Thị Nại]. Chính ở đó, cách đây 7, 8 năm, nhà vua đã đốt thuỷ quân của người anh cả của địch [Nguyễn Nhạc]. Ông vừa tái tạo chiến công này lần nữa, hôm 1/3 vừa qua. Sau đây là vị trí thuận lợi của hải quân bên địch: ngoài chuyện cửa biển rất hẹp, được bảo vệ bằng nhiều thành đồn, không có cách nào vào được; họ còn để ba chiến hạm lớn nhất chặn cửa biển, mỗi chiến hạm có ba giàn đại bác nòng súng rất lớn, những chiến thuyền còn lại được xếp làm sao cho không ai có thể len vào được. Vì thế nhà vua không đem các chiến hạm lớn đến. Ông để chúng lại ở một vịnh nhỏ bên cạnh [Cù Mông], và chỉ dùng 26 chiến thuyền ga-le với 100 ghe nhẹ (bateaux légers), nói đúng ra là 100 xà-lúp (chaloupes); [tất cả] chở khoảng bốn nghìn người. Quả là không nhiều để tấn công một hải cảng, lúc đó, cả thuỷ binh lẫn quân lính đồn trú có tới hơn 20.000 người, 60 thớt voi, 40 chiến hạm lớn; 20 chiến hạm nhỏ hơn; 100 chiến thuyền ga-le và một con số lớn hơn, các ghe chiến khác, trang bị đầy đủ vũ khí. Nhưng sự can đảm trám khuyết những con số. Vua tiến trước mắt quân địch, đến đêm tới trước cửa cảng, họ đứng vững đợi. Một trăm ghe nhẹ chở quân, cho đổ bộ, khá xa. Trong lúc đó, những chiến thuyền ga-le, nhờ bóng tối và gió thuận chiều phụ giúp, tiến đến những chiến hạm đầu tiên, nhẩy sang đánh giáp là cà và đốt cháy. Quân Nguyễn xuyên sâu vào trong cảng, ném khắp nơi những nắm đuốc và đủ loại các chất cháy. Bấy giờ sự tàn sát trở nên kinh hoàng. Đạn bắn tứ phiá, từ các đồn luỹ, từ các chiến hạm; trận mưa đại bác rú vang rền trên đầu mọi người. Khắp nơi lửa cháy, lửa thiêu hủy ga-le và chiến hạm địch, cái thì nổ, cái thì chìm. Cả hai bên đều chiến đấu kịch liệt. Ngụy quân, tầu đầy lửa mà các giàn súng vẫn kiên trì chống trả, cho tới khi lửa lan vào thuốc súng, tất cả biến mất trong một tiếng nổ chát chúa chung cục. Sau cùng, quân ta, nhờ khôn khéo kết hợp với can đảm, đã thắng, đã thực hiện những sự phi thường. Cho tới bấy giờ, người ta chưa thấy ở Nam Hà trận đánh nào dai dẳng đến thế, đẫm máu đến thế. Nó đã diễn ra từ 10 giờ tối tới 10 giờ sáng hôm sau, địch không còn lại một con tầu nhỏ bé nào. Tất cả đều đã bị đốt sạch. Những sĩ quan Pháp, các ông Chaigneau, Vannier, và De Forçanz, điều khiển các tầu le Dragon [Long Phi], le Phoenix [Phượng Phi] và L'Aigle [Bằng Phi] cũng đi chiến dịch này. Mỗi người với tầu của mình, trang bị khí giới, có nhiệm vụ hộ tống vua và đi kèm tất cả những thuyền chiến ga-le. Nhưng lúc đánh nhau, họ bị giữ lại để hộ tống vua. Khi nghe tiếng đại bác nổ, máu Pháp sôi sục trong huyết quản, vua phải nghiêm cấm mới cản được lòng nhiệt thành của họ. Giữ họ lại bên vua còn khó hơn là thúc quân tiến lên giữa những trận mưa đại bác. Ông de Forçanz đã không dằn lòng trước cơn hăng say chiến đấu; lòng can đảm thúc đẩy, đang đêm lẻn vào cảng một mình đốt hết bẩy tầu chiến trang bị khí giới nhiều nhất. Các ông Vannier và Chaigneau cũng có thể làm được như thế, nếu nghe theo lòng can đảm, nhưng các ông nhớ ra rằng, mình có nhiệm vụ canh gác cho cả một vương quốc, qua sinh mạng nhà vua. Họ tiến vào [cảng] với vua lúc rạng đông; từ một đồn còn giữ được, địch câu đại bác nhưng đạn rơi xuống nước trước mũi thuyền ga-le của vua, rồi bật lên cao cách đầu vua độ 50 phân tây. Ít lâu sau, họ rút lui cùng với tàn quân, họp lại với bộ binh của họ. Không thể tưởng tượng được bao nhiêu mất mát của địch trong cuộc chiến này: tất cả những gì quý báu họ đều để trên tầu. Đại tướng, là quan đại thần ở Bắc [Tư Đồ Võ Văn Dũng] đến lúc trời sáng mới thấy nhà vua với một nắm quân và vài ga-le khốn nạn, đã làm tan ra tro một thuỷ quân hùng hậu và làm chủ được hải cảng mà họ tưởng không thể nào xâm chiếm được, ông ta lên cơn điên lăn lộn trên bụi tro như một kẻ rồ dại. Hiện nhà vua đã cho thợ lặn chỗ các tầu chìm, vớt được 500 khẩu đại bác cỡ lớn và vô kể vũ khí khác..."[12] Le Labousse, chắc chắn đã được con chiên hai phiá tham dự cuộc chiến kể lại, cho nên ông biết rõ cả về phiá Tây Sơn. Ông viết trận chiến diễn ra từ 10 giờ tối tới 10 giờ sáng hôm sau, và ông ghi ngày 1/3/1801. Ông cho biết vì cửa biển hẹp, vua không đem các chiến hạm lớn đến, và ở đoạn sau, ông lại nói thuyền ga-le của vua, vậy những thuyền đại hiệu Long Phi, Phượng Phi và Bằng Phi đỗ lại ở cửa biển bên cạnh [chắc chắn là Cù Mông, do tướng Phạm Văn Nhơn cai quản]. Ta có thể xác định rằng: Vannier, Chaigneau, De Forçant, dự trận, phò vua, bằng thuyền ga-le chứ không đi tàu chiến bọc đồng. Đó là những lời Le Labousse viết cho giám đốc Viện Thừa sai Paris, từ Bình Khang ngày 20/4/1801 về trận Thị Nại. Năm ngày sau khi viết lá thư này, giáo sĩ Le Labousse mất tại Nha Trang, hôm 25/4/1801.
Trận Thị Nại, theo ChaigneauTrong thư gửi cho Barisy ngày 2/3/1801, Chaigneau tường thuật trận Thị Nại như sau: Ngày 19 tuần trăng thứ nhất hay là ngày 2/3/1801 Barisy thân mến, Ta vừa đốt sạch thuỷ quân của địch không sót một tầu nhỏ nào. Trận chiến đẫm máu nhất chưa từng có ở Nam Hà. Quân địch chống trả tới chết. Quân ta đánh giỏi hơn. Bên ta có rất nhiều người chết và bị thương, nhưng chẳng đáng gì so với thắng lợi mà nhà vua đạt được. Các anh Vannier, Forsanz và tôi cùng tham dự, và cùng trở về bình an vô sự. Trước kia, khi chưa thấy hải quân của địch, tôi có ý coi khinh, nhưng tôi bảo đảm với anh là tôi lầm: họ có những chiến hạm chở tới 50, 60 đại bác cỡ lớn. Nhà vua sẽ đi đánh Hoàng Cung [Huế], người chắc chắn ở đó chẳng có sự kháng cự nào. Những người lính Tây Sơn chắc rất mất tinh thần; nhiều người muốn ra hàng, nhưng ta từ chối. Vua cho phép họ sống yên lành ở nhà mà không phải đánh nhau nữa. Năm nay chúng tôi không về Sài Gòn. Nhà vua gửi tất cả những chiến hạm lớn đi chở gạo cho người. Thời giờ gấp gáp, tôi không nói được dài hơn... " Xin anh báo tin này cho ông Liot" J. B. Chaigneau"[13] Trong thư, Chaigneau viết rất sơ sài về nhiệm vụ của ông: Các anh Vannier, Forsanz và tôi cùng tham dự, và cùng trở về bình an vô sự. Điều này xác định lại lời Le Labousse: Trong trận tàn sát kinh hoàng này, Chaigneau và các bạn không trực tiếp xông trận, chỉ giữ vị trí tháp tùng vua.
Trận Thị Nại, theo BarisyLá thư viết ngày 11/4/1801 gửi giáo sĩ Létondal, quản thủ tu viện Macao, sau đoạn kể trận Chủ Sơn, Barisy viết về trận Thị Nại 1801[14]. Trước hết, Barisy kê khai danh sách quân đội hai bên tham chiến.
Barisy viết: "Quân đội địch dưới lệnh của đô đốc Thiuu Phõo[15], gồm có:
Dinh quân thứ 3 (3e division) của Vua [chắc là Trung quân] gồm có:
Ngày rằm, 15 tháng giêng (le jour du Rabbin 15 de la 1e Lune) [27/2/1801], theo lệ, tất cả các hạm đội thao diễn tập trận. Một cơn gió Nam thổi mặt nước nối lại như một tấm gương đã khiến vua nẩy ý cho một dinh quân nhổ neo và ngài cũng lên thuyền, dưới lệnh có các tướng: đô đốc Ong Tong Thoui [Ông Tổng Thuỷ tức Võ Di Nguy] mà người Bồ gọi là Bouche-Torte [Miệng Méo]; Ong Yam Koun [Ông Giám quân], không phải cái ông đi sứ với Đức Giám Mục [chỉ Phạm Văn Nhơn, đi với Hoàng tử Cảnh và Bá Đa Lộc sang Pondichéry], ông này trước theo ngụy quân, rồi khi vua ở Xiêm về, ra hàng [tức Nguyễn Văn Trương]; ông tướng Ong Tong Don Tag [Ông Tổng Đồn Tả tức Lê Văn Duyệt] là một trong những ông tướng Theuk Tuc [Túc trực] tức bộ binh thiện chiến, lính cảm tử. Có các ông Forcans, Vannier và Chaigneau. Tới 2 giờ rưỡi chiều, đoàn chiến hạm 91 cánh buồm này khởi hành để đi tấn công một quân đội khoảng 50.000 người và 45.000 quân đổ bộ và quân canh gác các đồn phòng vệ cửa biển. Đến chiều tối, khi đoàn chiến hạm tới đúng tầm súng của đảo Ong Datte [Hòn Đất], hoàng Thượng ra hiệu cho Ong Tong Don Tag [Lê Văn Duyệt] chuẩn bị 1.200 quân Theuk Tuc [Túc Trực] đổ bộ lên bãi cát. 7 giờ [tối], việc đổ bộ bắt đầu dưới lệnh của quan Ong Fo Vé Theuk Tuc [Phó Vệ Uý Túc Trực]. Họ đi trong sự yên lặng hoàn toàn, dọc theo bãi cát, đến gần giàn súng đại bác của đồn địch mà không bị lộ. Tới 10 giờ rưỡi, [thuyền] Vua đã tiến đến 4/3 tầm đại bác ở các đồn canh cửa biển. Địch vẫn không hay biết, vua gửi đội tiên phong gồm 62 ghe chở đại bác (chaloupes canonnières), với lệnh xung kích ba chiến hạm đầu tiên, leo lên đốt tầu và cắt dây neo, gây hỗn loạn trong hạm đội địch. Gió to và thủy triều lên mạnh, thuận lợi cho dự trình này: Ong Yam Quoun [Nguyễn Văn Trương] thi hành mệnh lệnh. Đúng 10 giờ 30, ông bắn phát súng đại bác đầu tiên. Lập tức Vua hạ lệnh tổng tấn công. 26 thuyền chiến ga-le bắn liên hồi khắp nơi trên bãi cát để quyét sạch. 1.200 lính của ta tay cầm súng đầu có lưỡi lê, tấn công sau lưng những người nấp trên bãi cát, đánh úp tất cả những gì còn lại, chĩa thẳng đại bác về phiá lòng trong bến cảng. Bấy giờ, Vua ra lệnh cho tất cả ga-le cùng xông vào và tấn công cùng một lúc theo đúng trật tự trận đồ. Lúc đó, sự quần thảo mới trở nên đẫm máu và phải nhìn vua mới biết: Số mệnh của ông phụ thuộc vào trận chiến này. Đồn Tam Toy [Tam Toà] gây mối kinh hãi cho những ga-le của vua, rơi vào tầm đạn của họ là tan tành ngay. Ong Tong Thoui [Võ Di Nguy] trúng đạn đại bác mất đầu. Cái chết này làm cho quân sĩ loạng quạng. Một chiếc ga-le [địch] thất trận, Ong Tong Dong Tag [Lê Văn Duyệt] sai người đến chém đầu thuyền trưởng, đốt ga-le và ra lệnh tiến lên những chiến hạm neo ở phía Núi Đông, đốt chứ không chiếm. Lệnh này được thi hành với sự mau lẹ, can đảm và cẩn trọng. Trong thời gian này, tướng Yam Quoun [Nguyễn Văn Trương], sau khi đã đốt ba tầu đầu tiên ở cửa vào, đã len được vào giữa hai hàng [thuyền] của địch quân, đến tấn công đoạn đuôi những ga-le của họ, đang chuẩn bị đến cứu các hạm đội. Địch quân ngạc nhiên vì bị tấn công ở chỗ họ không ngờ! Đầu thì tê liệt bởi giàn súng đại bác ở trên bãi cát, đã bị ta chiếm được. Họ đâm lưỡng lự. Ong Yam Quoun [Nguyễn Văn Trương] bèn đốt vài ghe pháo của chính mình: những người ở đầu của địch quân, tưởng các tướng lĩnh phiá sau, bán mình, làm phản, theo vua. Lòng cam đảm của họ bắt đầu lung lay. Ong Yam Quoun đã làm một chuyện phi thường: đánh một còn, một mất; ông đã vào quá sâu để có thể lùi. Lính của ông cũng thế, như một đoàn hổ, không còn biết gì nữa. Lửa cháy và tiếng súng đại bác làm cho đêm nay là một trong những đêm kinh hoàng nhất, chỉ có thể cảm thấy mà không thể diễn tả nổi. Tới 4 giờ sáng, lửa cháy trên tất cả các chiến hạm. Đến rạng đông, một phần lớn đã nổ trên không với tất cả thuỷ thủ... Những ga-le và ghe pháo, còn cầm cự được tới 2 giờ rưỡi chiều ngày 16 tháng Giêng, năm Cảnh Hưng thứ 62 [28/2/1801]. Vua bị thiệt hại nặng: 4.000 người chết. Nhưng sự mất mát của địch quân còn lớn lao không thể so sánh được: họ mất ít nhất 50.000 người; tất cả lực lượng thủy binh kinh hồn của họ; tất cả thuyền bè chuyên chở gồm 1.800 cánh buồm; 6.000 khẩu đại bác đủ loại tầm cỡ; vũ khí đạn dược, lương thực vô kể. Vàng, bạc, châu báu của các tướng sĩ tràn đầy, đều làm mồi cho sóng nước"[16]. Lời thuật của Barisy thực rõ ràng. Barisy bắt đầu bằng sự xác định giờ xuất phát: Ngày rằm tháng Giêng, tức ngày 27/2/1801, vua duyệt binh, nhân thấy gió Nam thổi gợn sóng mới nẩy ý đem một dinh quân [Trung quân] đi chinh phạt. Chỗ này Barisy hơi tiểu thuyết hoá, vì trước anh đã nói là vua sửa soạn chương trình đánh rồi, còn việc sẽ đánh hoả công theo chiến thuật của Đặng Đức Siêu, thì mọi người đều biết cả. Theo lời tường thuật của Barisy, ta có thể hiểu là hạm đội Gia Long khởi hành ngay sau khi duyệt binh, tức là 2 giờ rưỡi chiều ngày 27/2/1801, bắt đầu đi từ Cù Mông, và theo bản thống kê của Barisy, không có thuyền đại hiệu tham dự. Vậy chắc chắn vua đi thuyền chiến ga-le. Chiều tối, hạm đội đến ngang tầm đảo Hòn Đất (trên bản đồ Barisy đề là Ile ong Datte), vua ra lệnh cho Lê Văn Duyệt đổ bộ 1200 quân cảm tử lên bãi cát. 7 giờ tối quân bắt đầu đổ bộ. 10 giờ rưỡi tối, thuyền vua tới cửa biển Thị Nại. Vua hạ lệnh cho 62 ghe đại bác tiên phong, xung kích ba chiến hạm đầu tiên của Tây Sơn, chắc là các tầu đại hiệu chắn ngang cửa biển. Đúng 10 giờ rưỡi, giám quân Nguyễn Văn Trương bắn phát súng đại bác đầu tiên, vua hạ lệnh tổng tấn công. 26 ga-le bắn liên hồi, quét sạch quân đồn trú của Trần Quang Diệu nấp trên bãi cát, dọn đường cho quân cảm tử của Gia Long vừa đổ bộ, xông lên... Điểm đặc biệt là Barisy trình bày rõ ràng chiến thuật của Nguyễn Văn Trương, Thực Lục và Liệt Truyện nói đến Tiêu Cơ, Hổ Cơ, Tiêu Ki, người đọc không biết là đâu, nên không hiểu được; Barisy viết rất rõ: Nguyễn Văn Trương (đã tra hỏi quân canh gác Tây Sơn bị bắt, biết trước mật khẩu của Tây Sơn) len được vào giữa hai hàng ghe của đối thủ, tiến đến đốt phá đằng cuối, làm quân Tây Sơn rối loạn. Tóm lại, sự tường thuật của Barisy rõ ràng, mạch lạc và hợp lý hơn những văn bản khác.
Những điểm lộn xộn trong Thực LụcThực Lục cho biết trận đánh bắt đầu tử nửa đêm: "Trống canh ba qua Tiêu Cơ, bắt được lính đi tuần của giặc, biết được khẩu hiệu, tức thì sai Nguyễn Văn Trương và Tống Phước Lương dùng thuyền nhỏ lên trước vào Hổ Cơ". Trước hết, chúng ta không biết rõ Tiêu Cơ và Hổ Cơ ở đâu, nên khó hình dung trận chiến. Nhưng nhờ Barisy, ta có thề hiểu được Thực Lục: Trận đánh bắt đầu từ nửa đêm, 27 hoặc 28/2/1801, tuỳ theo Barisy hay Thực Lục. Nguyễn Văn Trương và Tống Phước Lương biết được mật lệnh của Tây Sơn, lẻn vào bên trong cùng của vịnh, là Hổ Cơ, đốt đồn thuỷ của địch. Võ Di Nguy và Lê Văn Duyệt đánh mặt trước. Võ Di Nguy tử trận. Nhưng Thực Lục lại viết: "Duyệt thề chết vẫy quân xông lên, giờ THÂN [15-17 giờ chiều] lọt vào được cửa biển, dùng đuốc hoả chiến thừa chiều gió phóng đánh thuyền đại hiệu của giặc. Quân Tây Sơn cả vỡ, chết rất nhiều. Dũng thua chạy. Thuyền Tây Sơn bị đốt cháy gần hết". Chỗ vô lý là đây: Nguyễn Văn Trương và Tống Phước Lương đốt thuyền "giặc" từ trống canh ba (nửa đêm) 28/2, mà đến giờ THÂN chiều hôm sau, tức là 4-5 giờ chiều ngày 1/3, Lê Văn Duyệt mới vào được cửa biển Thị Nại và đốt các tầu chiến đại hiệu, lúc ấy Võ Văn Dũng mới thua. Vậy trong suốt thời gian từ 12 giờ đêm hôm trước đến 17 giờ chiều hôm sau, trận chiến xẩy ra như thế nào? Theo Thực Lục thì phần cốt yếu xẩy ra ban ngày, vào 4-5 giờ chiều hôm sau, lúc Lê Văn Duyệt dùng hoả công đốt thuyền địch, Võ Văn Dũng mới thua, vậy trận này kết thúc lúc mấy giờ? Điều này, trái hẳn với lời Le Labousse và Barisy, đều kể trận đánh xẩy ra ban đêm, mà đỉnh điểm là 3-4 giờ sáng. Le Labousse cho biết trận đánh diễn ra từ 10 giờ tối tới 10 giờ sáng hôm sau. Và ông còn cho nhiều thông tin khác, cùng chiều: vua tiến vào cảng lúc rạng đông. Võ Văn Dũng khi trời sáng mới thấy thực trạng quân Nguyễn chẳng có bao nhiêu mà thắng. Barisy, cũng viết: tới 4 giờ sáng, lửa cháy trên tất cả các chiến hạm và "đến rạng đông, một phần lớn đã nổ trên không với tất cả thuỷ thủ." Chỉ còn lại một số ghe pháo nhỏ, cầm cự được tới 2 giờ rưỡi chiều hôm sau. Vậy, Thực Lục viết sai, hay là dịch giả Thực Lục dịch sai, hoặc đã sửa giờ TÝ thành giờ NGỌ để biến đêm thành ngày? Thực Lục đặt trận này vào đêm 16 rạng ngày 17 tháng Giêng (tức là đêm 28/2 rạng ngày 1/3). Barisy không nói rõ, nhưng làm cho ta hiểu là Nguyễn Ánh xuất quân ngay ngày rằm tháng Giêng (27/2/1801) sau khi duyệt binh. Le Labousse ghi ngày chiến thắng là 1/3, vậy có thể Thực Lục và Le Labousse đúng. Tuy đại thắng thuỷ binh cũa Võ Văn Dũng ở trận Thị Nại 1801, nhưng Nguyễn Vương vẫn không phá được vòng vây của Trần Quang Diệu bao quanh thành Bình Định để giải cứu Võ Tánh và Ngô Tòng Châu cố thủ trong thành. Theo kế của các tướng, Nguyễn Vương đem quân đánh Phú Xuân trước.
Trận Phú XuânTrận Phú Xuân, theo Đại Nam Thực LụcNgày 5/6/1801, Nguyễn Vương xuất quân ra cửa Thị Nại. Ngày 7/6/1801 thuyền vua tới Cù Lao Chàm. Gọi Nguyễn Văn Trương tới Đà Nẵng chờ lệnh. Sai Tống Viết Phước, Trần Văn Trạc giữ Quảng Nam. Ngày 8/6/1801, Nguyễn Vương tới Đà Nẵng họp với các tướng, quyết định đánh Phú Xuân theo chiến lược Đặng Đức Siêu: Thuỷ quân tiến làm hai đạo; một vào cửa Eo (cửa Thận An); một vào cửa Tư Dung (tức Tư Hiền). Ngày 9/6/1801, chia nhiệm vụ: Nguyễn Văn Trương và Phạm Văn Nhơn tiến vào cửa Eo [Thuận An]. Hoàng Văn Tự và Bạch Văn Đoài đem binh voi theo đường bộ Cu Đê. Thuyền vua tiến đóng vũng Chu Mãi. Ngày 11/6/1801, Nguyễn Vương tiến vào cửa Tư Hiền, Lê Văn Duyệt và Lê Chất tiên phong. Phò mã Tây Sơn Nguyễn Văn Trị và đại đô đốc Trần Văn Tạ giữ núi Quy Sơn, cho đóng cọc gỗ dưới lạch sông để ngăn quân Nguyễn. Quân Tây Sơn ở trên cao bắn đại bác xuống, quân Nguyễn đánh suốt ngày không tiến được. Đến đêm, bèn sai quân ngầm đội mấy chục thuyền chiến, vượt bãi cát vào phá Hà Trung sau lưng địch, chia quân theo đường lạch, nhổ cọc mà tiến. Ngày 12/6/1801, Nguyễn Vương đốc quân đến bến đò Trừng Hà, Lê Văn Duyệt bắt được phò mã Nguyễn Văn Trị và đô đốc Phan Văn Sách. Nguyễn Văn Trương và Phạm Văn Nhơn tiến vào cửa Thuận An, vua Cảnh Thịnh đem đại quân ra chống đỡ, nhưng chưa đánh, đã bỏ chạy. Ngày 13/6/1801, Nguyễn Ánh vào Phú Xuân. Cảnh Thịnh chạy ra Bắc[17].
Trận Phú Xuân, tháng 6/1801, theo BarisyÝ muốn thuật lại những giờ phút lịch sử, chính là động cơ thúc đẩy Barisy viết nhanh và viết nhiều trong khoảng thời gia khá ngắn ngủi, sôi nổi kể lại những gì anh đã thấy. Trong lời mở đầu lá thư dài, viết cho các linh mục Marquini và Létondal ngày 16/7/1801, trên tầu Thoai phon Thoai [tầu Thoại Phụng] ngày 16/7/1801, tại Cua Heou [Cửa Hậu hay Cửa Thuận An], Barisy giải thích: "Thưa các cha, Tính cờ một thuyền buồm ở Quảng Đông lại đến bến cảng này [Huế], đúng lúc những đoàn quân chiến thắng của Hoàng thượng đến chiếm. Con cháy bỏng lòng ham muốn thuật cho các cha biết những gì đáng kể đã xẩy ra ở đây, từ lúc bắt đầu mở chiến dịch, đã khiến con tìm hết cách giúp ích vị thuyền trưởng thuyền này. Và con nghĩ ông ta đủ biết ơn con, để mang thư này tới tay các cha. Lá thư cuối cùng con viết ngày 10/5 vừa qua[18], con đã kể cho các cha nghe việc chiếm Đà Nẵng ngày 8/3[1801]: quân đồn trú gồm 30 thớt voi, 84 đại bác đồng đỏ, các kho gạo của địch quân bị cháy cùng nhiều kho quần áo và cả tiền bạc, nhưng đó mới chỉ là sự mở màn trận tấn công lớn của nhà vua". Và sau đây là những hàng Barisy viết cho hai vị giáo sĩ về trận Phú Xuân: "Ngày 28/5 quân đội của Tàa Quoun [Tả Quân] mà tôi [từ đây xin dịch là tôi thay vì con] trực thuộc, theo lệnh của Ong foo Thuoon [Ông Phó Tướng][19] đến Quy Nhơn. Hoàng thượng duyệt quân, có 10.900 người thuộc bộ binh: 27 chiến thuyền ga-le, rất nhiều ghe chở đại bác. Quân ta ở lại Quy Nhơn tới 3/6 mới khởi hành đi Đà Nẵng. Vua lãnh đạo cả quân Thủy Bộ, tôi ở dưới lệnh vua, với tư cách thuyền trưởng tầu mang hiệu kỳ thống lĩnh của vua:
Trong binh đội này, có 15.000 người thuộc quân đổ bộ, dưới lệnh của các tướng: Dinh Táa [Dinh Tả, có lẽ là Chánh tả chi Tả quân Bạch Văn Đoài]; Dinh Tiên [Dinh Tiền, có thể là Lê Chất]; Ong Ton Don Tàa [Ông Tổng Đồn Tả tức Lê Văn Duyệt]. Ngày 7/6 chúng tôi đến Đà Nẵng, gặp lại thuỷ binh do ông Yam Quoun [Giám Quân Phạm Văn Nhơn][20], ông này đã đi đại sứ ở Âu Châu[21], gồm có:
Tóm lại, theo bảng trên của Barisy, đại binh từ Quy Nhơn kéo ra Đà Nẵng gồm hai phần: Phần đi từ Thị Nại, có vua ngự trên tầu Thoại Phụng, Barisy cũng ở trên tầu. Đến Đà Nẵng gặp lại đoàn thủy binh đến từ Cù Mông, do Phạm Văn Nhơn điều khiển, có các tầu đại hiệu Long Phi, Phượng Phi và Bằng Phi. Đại binh này, sẽ họp với thủy binh của Nguyễn Văn Trương và đô đốc Hoàng Văn Tự, vừa thắng trận Đà Nẵng tháng 3-5/1801, rồi chia làm ba đạo đi đánh Phú Xuân: Hoàng Văn Tự và Bạch Văn Đoài đem binh và voi đi đường bộ Cu Đê. Thuỷ binh chia làm hai đạo, vào cửa Thuận An và cửa Tư Hiền, Barisy mô tả trận thuỷ chiến, như sau: 4 giờ sáng ngày 9/6, toàn bộ binh đội lên tầu [ở Đà Nẵng]. 8 giờ sáng ngày 11, chúng tôi đến cửa sông Hương, vào tầm súng đại bác của các đồn phòng thủ cửa sông. Quân đội được lệnh chia hai: Tất cả những tầu chiến và 30 ghe chở đại bác họp thành một đội ngũ dưới lệnh ông Yam Quoun [Phạm Văn Nhơn] phong toả cửa Tây, có tên là Cua Heou[22] [Cửa Hậu tức Cửa Thuận An]. Cửa Đông có tên là Cua Ong [Cửa Ông tức Cửa Tư Hiền] do vua và các tướng nói ở trên [tức Lê Văn Duyệt và Lê Chất] tấn công; dưới lệnh có 45 chiến thuyền ga-le; 300 ghe chở đại bác, và 15.000 quân đổ bộ.
5 giờ sáng ngày 12, những chiến thuyền ga-le được lệnh dàn quân làm ba hàng, giữa các hàng là ghe nhỏ chở đại bác, tiến vào Cửa Ông; khi tiến đến giữa tầm đại bác, bị ba đồn phòng vệ khạc lửa vào, họ chịu trận, không chống trả, cho tới khi đạt tới cửa sông; chỗ này đã rất cạn lại còn bị địch lấp thêm nhiều vật liệu khác nhau, nhất là nhiều cọc nhọn và sà ngang; cho nên ga-le và ghe đại bác bị chặn lại, không thể tiến thoái được. Địch quân mừng quýnh, càng bắn dữ; bấy giở vua thấy nguy cơ trước mắt, mới ra lệnh cho quân nhẩy xuống nước lội vào bờ dưới làn súng đại bác đồn địch bắn ra. Những chiến thuyền ga-le dù bị mắc cạn cũng bắn trả dữ dội để những ghe nhỏ chở đại bác may mắn trườn qua chỗ bị ngáng. Tướng chỉ huy, là chồng của em vua ngụy, đóng trong đồn phòng thủ với 10.000 quân tinh nhuệ, tên là Ong Foo Matthey [Ông Phò Mã Trị (Nguyễn Văn Trị)]. Tính tụ phụ làm tăng tốc sự thua trận của ông. Từ trên thành, nhìn thấy sự thảm bại của đội ngũ chúng tôi; ông tưởng ông chỉ cần ra chụp lấy chúng tôi như ta bắt đàn cừu trong vườn; chẳng may người công dân đại tướng khốn khổ lại bị thọp cổ; ra khỏi thành 500 toises [khoảng gần một cây số], ông đụng đầu với quân Cấm Vệ (Gardes du corp) tức là quân Theuk Teuk [quân Túc Trực của Lê Văn Duyệt], họ dùng lưỡi lê ở đầu súng đột kích ông một cách quyết liệt. Những toán lính khác, trước ở trên ga-le, tiến đến bên sườn và sau lưng ông. Ông bị bao vây tứ phiá, không có cách nào tiếp cận được với trong thành. Quân của ông cũng nhìn thấy cảnh ấy. Lính của chúng tôi dữ dội xông vào với sự hung hăng kịch liệt. Không có cách nào thoát được, ông kêu tha chết, nhưng người lính say sưa chém giết chẳng nghe thấy gì, kể cả lệnh trên. Phải khó nhọc lắm mới kéo được con mồi ra khỏi tay anh ta. Ông tướng Phò Mã Trị bị bắt sống đem đến trình diện vua, vua truyền sai đóng xích sắt. Tất cả ngày hôm đó chúng tôi sửa soạn để tấn công những thành đồn khác, phiá trong sông. Bên địch có 7 tầu thuộc đội ngũ 65 tầu từ Bắc đem vào, đã cập bến đêm mùng 10. Những tầu khác thấy đậu ở cách quân chúng tôi hai dặm nhưng chạy nhanh nên thoát được. Ngoài ra, họ còn có 10 tầu và 14 chiến thuyền ga-le; rất nhiều ghe đại bác, dưới lệnh của Tua Maa Noe [Tư Mã Nguyễn Văn Tứ?], có đầy người. Chúng tôi ở trên đài cao dựng trên cột buồm với kính viễn vọng nên có thể phân biệt được diện mạo những tác nhân chính. Bấy giờ là 10 giờ sáng. Khi quân tiền vệ của chúng tôi gồm những ghe đại bác dưới sự điều khiển của Vệ uý vệ Phấn Dực[23] [chắc là Tống Phước Lương, lúc đó là Vệ uý vệ Phấn Dực Trung Quân[24]] bắt đầu tiến vào tầm đại bác của họ. Hạm đội của họ thả neo theo hình lưỡi liềm được giàn đại bác gài chéo nhau che chở. Chiến thuyền ga-le của chúng tôi từ từ tiến vào, vừa đi vừa dò dẫm vì không biết rõ lòng sông; lúc thủy triều xuống, cạn hẳn. Chúng tôi thấy các ghe đại bác bên địch bắt đầu chuyển động, và phân biệt được 27 ghe đang tiến về phiá chúng tôi. Tướng địch, mà người ta nhận ra nhờ ghe của ông có quốc kỳ lụa đỏ treo trên cột trước, không ngừng phất phới để khích lệ ba quân. Nhưng sự kinh hoàng đã tiến trước vua: ông Vệ uý vệ Phấn Dực không bắn súng báo hiệu, chợt đột kích xông vào tất cả các ghe đại bác của địch cùng một lúc. Bấy giờ chúng tôi sống một trận chiến ngắn nhưng thật đẫm máu: các đồn, tầu và các chiến thuyền ga-le nhất loạt cùng bắn, không phân biệt bạn thù. Nhưng chỉ trong 5 phút, chúng tôi đã thấy cờ vàng phất phới thay thế cờ đỏ. Trong khoảnh khắc này, đoàn chiến thuyền ga-le và ghe đại bác của ta đã đến và chúng tôi xung phong tiến lên tầu, thuyền địch, rồi đổ bộ xông vào thành luỹ đánh giáp lá cà. Tới chính ngọ, một sự im lặng ngự trị toàn thể. Lửa trên các chiến hạm của địch làm thành một cảnh tượng bi tráng. Bãi cát đối diện với chỗ chúng tôi thả neo, người chạy trốn lấp đầy không gian mà tầm nhìn có thể đạt được. Nhà vua đã ngược dòng sông với toàn bộ quân đội. Ba giờ chiều, người đạt tới bến kế cận cung điện của tổ tiên. 10 [đại biểu] dân tộc quỳ gối trên bờ sông, có vẻ chờ đợi sự phán quyết mà vì vua chiến thắng sẽ tuyên bố. Một sự im lặng trọng đại bao trùm. Hồi tưởng lại những xúc phạm và nhục mạ trong quá khứ, gây mối kinh hoàng, khiến họ không thể yên lòng. Vì thế cho nên, họ đã thực tình kinh ngạc, khi thay vì thấy một kẻ chiến thắng, nổi giận bước xuống thành phố của họ; họ lại nhìn thấy một Henry IV, một người cha khoan dung, và nhân từ. Sự thanh tịnh và lòng tốt khắc trên trán nhà vua là điềm báo cho họ biết những gì sẽ chờ đợi họ trong tương lai. Tất cả quân đội tham chiến, trong sự im lặng sâu lắng nhất, đợi lệnh vua. Đến 6 giờ chiều, Hoàng thượng ra lệnh cho tất cả quân đội phải lên tầu và chính người cũng lên tầu của người để ngủ; sau khi đã chỉ định các đội canh gác tất cả các khu trong thành phố, cấm cướp bóc, ai vi phạm sẽ bị tử hình."
Vua Gia Long vào kinh đô HuếBarisy viết tiếp: "8 giờ sáng ngày 15/6/1801, (tháng thứ 5, Cảnh Hưng thứ 62; năm thứ 27, ngụy triều Wandoé [Văn Huệ], còn được mệnh danh là Tais Shon hay Teschon [Tây Sơn], có nghiã là gia đình ở trên núi [Tây]), cháu của vị chúa sau cùng[25], con trai người em [anh] của chúa[26], đặt chân đến kinh đô Nam Hà. Nhà vua không vào cung điện mà ngồi ở một phòng tiếp kiến bên ngoài, nơi dân chúng có thói quen tụ họp để hy vọng được thấy vua những ngày thiết triều. Chính ở trong phòng này, 8 giờ sáng, tôi nhìn thấy vua. Vô số quần chúng đủ mọi hạng người, mọi tuổi, quây quần bên ông. Quân canh gác sơ sài, không mang khí giới, đứng cách quân vương khá xa. Thấy tôi, vua gọi lại, hỏi thăm tin tức Chaigneau... (Chaigneau bị đau từ mấy ngày nay), tôi kể chuyện này để thấy tấm lòng của nhà vua. Sau đó, Hoàng thượng hỏi xem tôi đã thấy các tướng địch chưa. Tôi trả lời chưa. Người ra lệnh dẫn dẫn tôi đến gặp họ, sau đó người bảo tôi lại thăm các em của vua Ngụy. Tôi đi ngay. Họ ở trong một phòng nhỏ khá tăm tối, không có gì là lịch lãm, điều này càng làm tăng sự tương phản như đập vào mắt giữa quá khứ và hiện tại của họ. Con số những công nương là 5. Một cô trạc tuổi 16 tôi thấy rất xinh đẹp. Một cô nhỏ độ 12 tuổi, con gái công chúa Bắc Hà [Ngọc Hân công chuá], cũng thường thôi; ba cô khác từ khoảng 16 đến 18, da ngăm ngăm nhưng diện mạo dễ coi; ba cậu con trai, một cậu 15 tuổi, da cũng ngăm ngăm, nét mặt tầm thường; hai cậu khác cũng trạc 12 tuổi, con công chúa Bắc Hà, diện mạo khôi ngô, điệu bộ dễ thương. Sau cuộc đi thăm ngắn ngủi này, tôi được dẫn đến một nhà tù khác, ở đó tôi thấy Mad Theẽu Do'an [Bà Tư Đồ], vợ tướng thủy binh của địch mà nhà vua đã đốt [thuyền, tầu] ở Quy Nhơn [tức Bà Võ Văn Dũng]. Bà này đẹp, vẻ hiền hậu và lịch sự. Còn mẹ của ông tướng này tuổi khoảng từ 45 đến 50. Bà nói chuyện rất lâu với tôi và kêu than số phận rủi ro của bà. Trong một nhà tù khác, gần đấy, giam, mẹ của tướng Thieuu Phoo [Thiếu Phó Trần Quang Diệu] thống lãnh quân đội hãm thành Quy Nhơn. Bà trạc độ 55 tuổi. Một khuôn mặt cao quý trong sự bất hạnh, bà tỏ ra cương nghị, chính trực mà không kiêu hãnh. Sau đó đến vợ của ông tướng foo Maatthey [Phò Mã Nguyễn Văn Trị], bà là em gái của vua Ngụy, và cũng là một chiến sĩ. Bà Theuk hauv Dinh [Tư Khấu Định][27], vợ của tướng Pháo binh. Bà Ton Lin Keen [?], vợ của Phó Thống Lĩnh thuỷ quân, vv và vv... nhiều lắm, trong đầu phải có cuốn lịch sách mới nhớ lại được. Nhà vua đã thả tất cả nhà cửa của các quan, tướng địch cho cướp bóc. Tôi rất tức giận chuyện này; vì bọn lính đã đập phá tất cả những gì dưới tầm tay của chúng, có những dinh cơ, tuy làm theo lối Tầu, nhưng đối với Paris có thể là một lâu đài tráng lệ, với vườn cảnh, trồng đầy cây lạ, những bình sứ Nhật Bản. Sự trả thù của nhà vua dẫn đến kết quả như thế".[28] Barisy là một trong những người, đúng hơn, là người duy nhất đã viết kỹ, viết rõ, với văn tài bẩm sinh, về những ngày lịch sử này. Anh không chỉ làm sống lại các trận chiến như bầy ra trước mắt, mà còn cho thấy khiá cạnh nhân văn, về con người, về sự ứng xử của họ trước mọi tình thế. Gia Long đạt tới chiến thắng cuối cùng trong lúc bi kịch cá nhân của ông xẩy ra những mất mát kinh hoàng không kém trận điạ, trong năm 1801: Hoàng tử Cảnh hiền lành, mất trên giường bệnh; hoàng tử Hy dũng mãnh, biệt hiệu Ông Búa, mất trong khi hành quân, cách nhau hai tháng. Các mãnh tướng: Võ Di Nguy tử trận, Võ Tánh tử tiết. Học giả Ngô Tòng Châu uống thuốc độc. Gia Long đem Minh Mạng mới chín tuổi, đi theo, trong cuộc hành quân định mệnh từ Gia Định ra Huế, để học nghề làm vua, đúng theo truyền thống các chúa Nguyễn. Chiến thắng của Gia Long nhuốm mầu cay đắng. Sự trả thù của ông trên toàn thể gia đình Tây Sơn sau này, mà Barisy, mới chỉ nhìn thấy màn đầu, đã nói lên cái nhỏ của một vì vua lớn.
[1] BEFEO, 1912, t. 1-82. [2] BAVH, 1926, IV, 359-447. [3] TL, I, t. 428. [4] Theo Thực Lục, nhờ người Man (Thượng) dẫn đường. [5] ĐNNTC, tập 3, t. 16-17. [6] Thư Barisy viết ngày 11/4/1801 gửi M. Létondal, BAVH, 1926, IV, t. 374. [7] Thư Barisy viết ngày 11/4/1801 gửi M. Létondal, BAVH, 1926, IV, t. 375. [8] TL, I, t. 422. [9] Thư Barisy viết ngày 11/4/1801 gửi M. Létondal, BAVH, 1926, IV, t. 375-376. [10] TL, I, t. 428-429. [11] LT, II, t. 147. [12] Thư Le Labousse viết cho giám đốc Viện Thừa Sai Paris ngày 20/4/1801, Doc. Rel., BEFEO, t. 45-47. [13] Thư Chaigneau viết cho Barisy ngày 2/3/1801, Cadière, Doc. Rel. t. 39-40. [14] Thư Barisy viết ngày 11/4/1801 gửi M. Létondal, Les français..., Leur Corr. BAVH, 1926, IV,t. 375-379. [15] Tức Thiếu Phó Trần Quang Diệu là Tổng Tư Lệnh, còn thuỷ quân Tây Sơn do Tư đồ Võ Văn Dũng điều khiển. [16] Thư Barisy viết ngày 11/4/1801 gửi M. Létondal, Les français..., Leur Corr. BAVH, 1926, IV, t. 375- 379. [17] TL, I, t. 440-442. [18] Cadière cho biết: không tìm thấy thư này. [19] Ông Phó Tướng, Cadière chú thích theo CI. E. Maitre là Nguyễn Công Thái. [20] Khi đánh trận Thị Nại, Phạm Văn Nhơn được lệnh giữ Cù Mông. [21] Ý nói việc Phạm Văn Nhơn tháp tùng Hoàng tử Cảnh và Bá Đa Lộc sang Pondichéry. [22] Cửa Hậu, Cửa Eo hay cửa Thuận An, theo Thực Lục thì Phạm Văn Nhơn và Nguyễn Văn Trương tấn công Cửa Eo. [23] Phấn Dực (Fan Vieuk), chú thích của Cadière, chép theo Cl. E. Maitre. [24] TL, I, t. 432. [25] Tức Định Vương Nguyễn Phước Thuần. [26] Nguyễn Ánh là con Hưng tổ Nguyễn Phước Luân (hay Cốn), anh của chúa Định Vương. [27] Chú thích Cadière, theo Cl. E. Maitre. [28] Thư Barisy gửi Marquini và Létondal, viết trên tầu Thoại Phụng, 16/7/1801, BAVH, 1926, IV, t. 400-406. Thụy Khuê © Copyright Thuy Khue 2015
|