Thụy Khuê
 

Khảo sát công trạng của những người Pháp giúp vua Gia Long

 

 

Chương 25

 

Jean-Baptiste Chaigneau Nguyễn Văn Thắng (1769-1832)

 

I. Chaigneau dưới thời Gia Long

 

Chaigneau là người được giới nghiên cứu Pháp trong tập san Đô Thành Hiếu Cổ (Bulletin des Amis du Vieux Huế, BAVH) dành cho những bài nghiên cứu tương đối nghiêm túc[1]. André Salles, thanh tra thuộc địa về hưu, đã bỏ công sưu tầm tài liệu hộ tịch nhiều đời của các nhân vật chính trong số lính Pháp đến giúp Nguyễn Ánh. Bài Jean-Baptiste Chaigneau et sa famille được ông viết xong lúc còn sống, nên đầy đủ nhất, nhưng lại có những lời bình chủ quan, một chiều. Về Vannier, Barisy, ông mới tìm xong hồ sơ hộ tịch, sau được Cosserat biên tập, gọi là Documents Salles, in sau khi ông qua đời, khách quan hơn.

Ngoài ra còn phải kể cuốn Souvenirs de Hué (Kỷ niệm ở Huế), Paris, Impérial, 1867, của Michel Đức Chaigneau. Tác phẩm mô tả đời sống đương thời tại Huế, với những lễ nghi tập tục trong triều; tác giả ghi lại những kỷ niệm tuổi thơ, đặc biệt lúc tám tuổi, được vào triều ra mắt vua Gia Long và hoàng hậu và khi ông theo cha trở lại Việt Nam dưới thời Minh Mạng, được vua gọi vào hỏi về đời sống bên Tây. Riêng những gì liên hệ đến Bá Đa Lộc, Chaigneau và những người lính Pháp, thường được tô hồng, hoặc nhớ sai, không thể dùng làm tài liệu lịch sử.

 

Tiểu sử Chaigneau

Jean-Baptiste Chaigneau, quê ở Lorient (Morbihan, Bretagne), sinh trong một gia đình đông con có truyền thống thuỷ binh. Người cha, Alexandre Georges Chaigneau, vào lính thuỷ từ 13 tuổi; chuyến đi lần đầu, tới Ile de France, tháng 3/1740; cưới vợ 2 lần, vợ đầu sinh một con; vợ kế, Bonne-Jacquette Perault, sinh 13 con. Ngày 16/11/1768, Alexandre Georges Chaigneau về hưu với chức vụ đại tá hải quân. Ông mất ở Lorient ngày 13/1/1786[2].

Jean-Baptiste Chaigneau sinh ngày 8/8/1769. Salles cho biết không tìm được tài liệu nào về việc học, chỉ biết đến tuổi 12, (mẹ mất đã 2 năm), được xung vào lính thuỷ tình nguyện, chắc đã biết đọc, biết viết và biết làm bốn phép tính[3]. Đi biển lần đầu ngày 14/4/1781, trên tầu Necker, tới Ile de France. Sáu tháng sau, tầu này chiến đấu với tầu Anh Petit Amibal ở Hảo Vọng Các, bị tầu Anh bắt ngày 25/10/1781, thủy thủ đoàn bị đưa về đảo Ste-Hélène, vài tháng sau Chaigneau mới được tha về Lorient. Ngày 18/4/1782, Chaigneau đi theo chiến dịch trên tầu Ariel trong gần 2 năm, tới ngày 7/3/1784, mới trở về Brest, và bị giải giới.

Ngày 28/8/1784, JB Chaigneau lại khởi hành, cùng với em là Étienne, trên tầu Subtile, trong 43 tháng, tầu này trang bị vũ khí, hoạt động ở vùng Ấn Độ Dương[4] cho tới khi bị giải giới ở Brest ngày 10/4/1788. Theo sự vụ lệnh của tầu Subtile, ngày 1/7/1787, Chaigneau ở trong danh sách binh nhì. Ngày 7/9/1787, tại Port-Louis (Ile de France), Chaigneau được thăng binh nhất, qua một kỳ sát hạch, nhưng trong hai năm, tất cả những cố gắng để vận động cho Chaigneau vào quân đội hoàng gia đều vô hiệu. Mặc dù ngày 14/11/ 1788, Chaigneau đã qua kỳ sát hạch về thủy đạo[5] và bà bá tước du Bourg đã can thiệp lên Bộ trưởng Hải quân, cũng chỉ nhận được lời hứa suông. Đến tháng 6/1790, Chaigneau lại làm đơn nữa, với sự yểm trợ của Thévenard, quản đốc quân nhu ở Lorient, nhưng Bá tước Bộ trưởng Luzerne vẫn từ chối. Thậm chí ông còn khiển trách việc đã nhận Chaigneau vào lính tình nguyện[6]. Như vậy, chứng tỏ việc xin vào quân đội chính quy rất khó, mặc dù Chaigneau đi biển từ tuổi 12 và việc xin lên chức sĩ quan càng khó hơn.

Không thể chờ đợi mãi một chỗ trong quân đội chính quy, ngày 9/9/1791, Chaigneau lên tầu Flavie, là tầu buôn tư, đi "vòng quanh thế giới". Tuy tờ khai sự vụ tầu Flavie ngày 3/6/1793 có ghi Chaigneau là sĩ quan (1er enseigne), nhưng ông vẫn không phải sĩ quan thực thụ trong quân đội chính quy, vì tầu Flavie chỉ là tầu buôn tư. Salles cho biết, trong các giấy tờ hộ tịch sau này, Chaigneau không đề bất cứ chức vụ gì trong quân đội Pháp[7]. Người ta cũng không biết gì nhiều về tầu Flavie, chủ tầu là ai, buôn bán gì, đã có những hoạt động như thế nào trong những năm 1791-1794; dường như Flavie có dự vào cuộc tìm kiếm tầu La Pérouse bị mất tích, sau đó, trở về Macao tháng 3/1794 và bị chận lại ở đây, vì gặp cuộc đụng độ Anh-Pháp trên biển và bị một tầu Anh đuổi. Tầu Flavie bị giải giới ngày 24/3/1794 ở Macao, lúc đó Chaigneau 25 tuổi.

Tại sao Chaigneau không trở về Pháp?

Câu trả lời có thể rất hiển nhiên: chế độ Kinh hoàng (La Terreur, 1792-1794) ở Pháp sau cách mạng 1789 đã làm cho những người Pháp ở ngoài nước không dám trở về. Salles cho rằng có thể vì Chaigneau biết quá ít tin tức về nước Pháp lúc đó, lại nghe các cha cố nói đến việc Nguyễn Vương đang trọng đãi người Pháp ở Nam Hà, và Laurent Barisy, bạn thuở nhỏ, cũng đang ở Sài Gòn giúp vua với tư cách đại diện cho hãng buôn Anh ở Madras. Chaigneau bèn quyết định đi Nam Hà, gặp thuận gió, vào đúng những ngày cuối cùng của gió mùa Đông-Bắc sắp chuyển sang Tây-Nam và ông đã đến Sài Gòn đầu tháng 4/1794[8].

Nhưng Chaigneau không gặp được ai cả, giám mục Bá Đa Lộc đã theo Hoàng tử Cảnh đi trấn thủ Diên Khánh từ tháng 12/1793 đến tháng 8-9/1794 mới trở lại Sài Gòn. Còn Barisy đã nhận được chỉ dụ sai phái ngày 17/12/1793[9] đem hàng hoá, theo gió mùa Đông Bắc, đi Malacca và Poulo-Pinang bán, để mua vũ khí cho vua, chỉ trở về theo gió mùa Tây Nam, tức là vào khoảng tháng 5/1794. Không biết Chaigneau làm gì trong thời gian từ tháng 4/1794, đến tháng 6/1795, chắc có giao thiệp với giới giáo sĩ, giám mục Bá Đa Lộc lúc đó đã trở về Sài Gòn, vì thấy trong thư từ của giới này, Chaigneau được khen là người tốt.

Tháng 6/1795, Chaigneau có mặt trên tầu của Olivier de Puymanel, đi Macao làm dịch vụ cho vua và chở Dayot đi trốn (vì làm đắm tầu Đồng Nai). Trong chuyến đi này, thế nào anh em Dayot chẳng kể chuyện bị "các quan vu cáo" và bị "kết án oan ức", nhưng Chaigneau vẫn trở về Nam Hà cùng với Olivier sau đó, và còn tiếp tục làm "áp-phe" giữa Sài Gòn-Macao trong vài chuyến nữa.

Cuối năm 1796, đầu 1797, Chaigneau trở lại Sài Gòn và sau đó, mới chính thức gia nhập quân đội Nguyễn Ánh, nhận chức Cai đội, nhưng không tìm thấy văn bằng. Lúc này Chaigneau đã 28 tuổi. Ông phục vụ Gia Long tới năm 1819 mới xin về xứ thăm gia đình ba năm. Khi ông trở lại Việt Nam, năm 1821, với sứ mệnh mới của chính phủ Pháp, thì vua Gia Long đã qua đời, ông ở lại triều Minh Mạng 4 năm nữa rồi về Pháp hẳn. Ông mất tại Lorient ngày 31/1/1832 ở tuổi 63[10].

Chaigneau, từ khi lên tầu Flavie ngày 9/9/1791, coi như biệt tin gia đình. Sau chiến tranh, quyết định ở lại Huế. Ngày 4/8/1802, mua căn nhà ở làng Dương Xuân, theo bản đồ Cadière, trên bờ kinh Phủ Cam, khoảng giữa đường Nam Giao (nay là đường Điện Biên Phủ) và chợ Phủ Cam (nay là chợ Bến Ngự). Theo Đức Chaigneau, nhà Vannier và de Forçant ở Bao Vinh.

 

Năm 33 tuổi, Chaigneau cưới cô Hồ Thị Huề con ông Hồ Văn Hưng, một gia đình có đạo ở phường Thợ Đúc, cạnh Phủ Cam, do giám mục Labarlette làm lễ ngày 10/8/1802. Người chị/em gái là Hồ Thị Nhơn sẽ lấy de Forçant, có ba con[11].

Từ 1802 đến năm 1815 bà Huề mất trong khi sinh nở, trong 13 năm, bà sinh 11 con, nhưng 6 trẻ mất sớm, chôn ở Phước Quả. Con cả, sinh ngày 25/6/1803, là Michel Nguyễn Văn Đức (1803-1894) thọ nhất, tới 91 tuổi; làm công chức trong bộ tài chánh Pháp, có vợ, không con; tác giả cuốn Souvenirs de Hué, Paris, Impérial, 1867[12].

Năm 1817, Chaigneau lấy Hélène Barisy làm kế[13]. Lễ cưới ngày 15/1/1817 ở nhà thờ Phủ Cam, sinh nhiều con[14], nhưng đều mất sớm, chỉ có một ngưòi nói dõi dòng Chaigneau. Hèlène từ trần tại Lorient ngày 17/9/1853[15].

 

Thời điểm Chaigneau đầu quân Nguyễn Ánh

Ngày 10/6/1798, Chaigneau viết một lá thư cho ông quản thủ tu viện Macao, trong đó có đoạn phê bình Nguyễn Ánh như sau:

 "Tình trạng của nhà vua vẫn thế. Năm ngoái [1797] ông đã để lỡ dịp có thể chinh phục dễ dàng nước ông. Ông đã bất ngờ đến đất địch, họ đang chia rẽ và không phòng bị gì, vậy mà ông không biết lợi dụng hoàn cảnh. Cứ theo chiến dịch cuối cùng này thì con nghĩ nhà vua chẳng bao giờ làm chủ được đất nước ông"[16]

Chaigneau muốn nói đến chiến dịch đánh Quy Nhơn lần thứ hai, từ tháng 5 đến tháng 10/1797 và chê Nguyễn Ánh không dám lợi dụng sự chia rẽ trong nội tình Tây Sơn để đánh mạnh. Thực ra, Nguyễn Ánh tiến đến Quy Nhơn, thấy phòng thủ kỹ, không thể đánh được, mới đem quân ra Quảng Nam, tuy thắng vài trận nhưng vì thiếu lương và thuyền tiếp tế gặp bão, quân sĩ đói, bệnh tật, nên phải rút về. Hơn nữa, lúc đó Lê Trung giữ vùng Quy Nhơn, và Quảng Nam có Trần Quang Diệu, đều là kiện tướng Tây Sơn, đánh không dễ. Chaigneau, hoặc không dự chiến dịch này, hoặc không biết rõ tình hình. Nhưng nhiều người lại dẫn lời này của Chaigneau, để xác định ông đã dự chiến dịch Quy Nhơn 1797. Chúng tôi thấy những lời này không nói lên được điều gì chắc chắn cả. Sau đó Nguyễn Ánh nghỉ 2 năm để chấn chỉnh lực lượng.

Tháng 4/1799, chắc chắn Vannier và Chaigneau có tham dự chiến dịch đánh Quy Nhơn lần thứ 3, căn cứ vào giấy vua cho phép Chaigneau đi chữa bệnh ở dưới. Tuy nhiên vì Chaigneau và Vannier lúc đó, chỉ là Cai đội, nên không được Thực Lục ghi tên trong các cuộc hành quân. Phải đến tháng 2-3/1800, mới có ba người Pháp được quản tầu đồng, lúc đó Thực Lục mới ghi:

"Sai Khâm sai thuộc nội Cai đội Nguyễn Văn Chấn [Vannier] quản tầu đại hiệu Phượng Phi, Nguyễn Văn Thắng [Chaigneau] quản tầu đại hiệu Long Phi, Lê Văn Lăng [de Forçant] quản tầu đại hiệu Bằng Phi, theo Trung quân sai phái đánh giặc (bọn Chấn đều là người Phú Lang Sa)"[17].

Đây là lần đầu tiên, tên Vannier, Chaigneau và de Forçant được ghi trên danh sách hành quân của Thực Lục. Đúng lúc ấy, Chaigneau bị bệnh, có giấy phép sau đây cho đi Malacca điều trị:

"JB.Chaigneau, Khâm sai Cai đội Thuộc nội Thắng Tài Hầu, đã dự nhiều trận đánh, mệt mỏi, hy sinh vì nước, bị mắc chứng bệnh hiểm nghèo; Công Đồng cho phép đi Malacca, trên tầu cùng với Khâm sai Cai đội Laurent Barisy. Phải trao lá thư của quan Thương Bạc Nam Hà gửi quan toàn quyền Malacca, thỉnh cầu quan toàn quyền vì lòng nhân từ, tìm thầy thuốc cho. Ngay sau khi khỏi bệnh, phải trở về để phò vua và làm công tác thường lệ. Công đồng báo trước cho rõ ý vua". Công Đồng Chi Ấn[18].

Ngày 24, tuần trăng thứ 2, Cảnh Hưng năm 61 [19/3/1800][19]

Theo giấy phép trên đây của Công Đồng, thì Chaigneau đã dự "nhiều trận đánh". Vì vậy, ta có thể chắc chắn Chaigneau đã tham chiến từ 1799, khi Nguyễn Ánh đánh Quy Nhơn lần thứ ba. Cho nên chúng tôi ghi 1799 là năm Chaigneau chính thức đầu quân Nguyễn Ánh.

Tháng 3/1800, Chaigneau đi Malacca chữa bệnh. Thư Barisy viết ngày 28/12/1800 tại Sài Gòn, gửi đại tá Despinas ở Pondichéry, có câu: "Chúng tôi đang ngập đầu trong chiến tranh"[20]. Vậy chắc chắn là Chaigneau đã về lại Sài Gòn cuối năm 1800 cùng với Barisy, rồi từ 1801 trở đi, ông sẽ dự các chiến dịch với tư cách thuyền trưởng tầu Long phi.

Thực Lục tháng 3/1801 xác định điều đó:

"Sai Nguyễn Văn Trương điều bát thuỷ quân tiến ra Quảng Ngãi, Quảng Nam đánh giặc (...) các chúa tầu hiệu Long Phi, Phượng Phi, Bằng Phi, là bọn Nguyễn Văn Chấn, Nguyễn Văn Thắng, Lê Văn Lăng đều thuộc quyền"[21].

Ba người Pháp này, sẽ dự các trận Thị Nại, Quảng Nam và Phú Xuân

 

 

Nhiệm vụ của Long Phi, Phượng PhiBằng Phi

Như ta đã biết, trong trận Thị Nại 1801, Nguyễn Vương không dùng thuyền đại hiệu, cho nên ba thuyền Long Phi, Phượng Phi và Bằng Phi đều đóng ở vịnh Cù Mông. Sau đó, chính sử và Chaigneau đều cho biết vua thường dùng các thuyền đại hiệu để chở quân nhu, tiếp tế.

Qua Liệt Truyện, ta còn biết Long Phi, Phượng PhiBằng Phi không phải lúc nào cũng do Chaigneau, Vannier và de Forçant điều khiển:

"Năm Tân Dậu [1801] Nguyễn Khắc Thiệu cùng với lưu thủ Vĩnh Trấn là Nguyễn Văn Thiệu sang Xiêm báo tin thắng trận [Thị Nại], khi về coi hai chiếc thuyền lớn bọc đồng là Bằng Phi, Phượng Phi, chở lương gạo ở Quảng Nam đến quân thứ Quy Nhơn"[22].

Thực Lục tháng 12/1801 ghi: "Sai chúa tầu Phượng Phi là Nguyễn Văn Chấn (Vannier) và chúa tầu Bằng Phi là Lê Văn Lăng (de Forçanz) chở 15.000 phương gạo từ Quảng Nam đến quân thứ Thị Nại" [23]. Không rõ Liệt TruyệnThực Lục nói về một vụ hay hai vụ tải gạo khác nhau của Bằng Phi và Phượng Phi trong năm 1801.

Về nhiệm vụ chuyên chở của các tầu này năm 1802, tài liệu Salles do Cadières dịch và chú giải trình bày 2 văn bản sau đây:

- Thư sai phái ngày 1/3/1802: Sai Chaigneau tải gạo từ Sài Gòn ra Huế.

- Lệnh cho Chaigneau ngày 19/4/1802: sửa soạn tầu, chờ, để cùng Liêm Chánh Hầu [Tôn Thất Liêm] hộ tống Từ cung từ Gia Định về Huế[24].

Ngoài ra, Liệt Truyện ghi: "Năm Nhâm Tuất [1802], lấy lại được Bình Định, [Trần Đại] Luật cùng bọn Hoàng Viết Toản đem binh thuyền về Gia Định đón Từ giá về Kinh". Và Thực Lục, tháng 7/1802 ghi: "Hoàng Văn Toản, Trịnh Ngọc Trí và Tôn Thất Liêm rước xa giá Từ cung đến kinh thành."[25]

Như vậy, trong lúc Gia Long đánh ra Bắc, (khởi hành từ Phú Xuân ngày 20/6/1802 đến Thăng Long ngày 20/7/1802), có nhiều người được chỉ định đi đón Từ cung về Huế: Từ tháng 4/1802, Gia Long đã chuẩn bị đón mẹ về Huế, nhưng đến tháng 7 mới làm được, điều này chứng tỏ đường biển từ Gia Định ra Huế còn chưa yên, nên phải vận dụng thêm Hoàng Viết Toản và Trần Đại Luật.

Tháng giêng năm 1803, một nhiệm vụ chuyên chở khác được giao cho tầu Phượng Phi, được ghi trong Thực Lục: "Sai Chưởng Cơ, quản tầu Phượng Phi là Nguyễn Văn Chấn chở súng đồng ở Gia Định đến Kinh"[26]

Tóm lại, các tầu Long Phi, Phượng Phi và Bằng Phi, không phải lúc nào cũng do Chaigneau, Vannier và de Forçant điều khiển và ngoài các chiến dịch, còn có nhiệm vụ chuyên chở.

 

 

Chaigneau và Vannier đón sứ bộ Roberts

Trong thời kỳ từ 1801 đến 1804, nước Anh đến xin thông thương ba lần:

1- Thực Lục, tháng 5-6 /1801, ghi: "Nước Hồng Mao sai người đem thư đến dâng phương vật mà xin miễn thuế cảng cho thuyền buôn. Vua hạ lệnh cho lưu trấn Gia Định [Nguyễn Văn Nhơn] viết thư trả lời: đánh thuế theo như thể lệ thuyền buôn Quảng Đông"[27]. Chính sách ngoại thương của Gia Long đã rõ rệt ngay từ lúc này: Thể lệ nhập khẩu áp dụng cho các nước giống nhau, không có biệt lệ cho người Âu.

2- Thực Lục, tháng 7-8/1803 ghi: "Hồng Mao sai sứ đến hiến phương vật, dâng biểu xin lập phố buôn ở Trà Sơn, dinh Quảng Nam. Vua nói rằng: "Hải cương là nơi quan yếu, sao lại cho người ngoài được!" Không cho. Sai trả vật lại mà bảo về"[28]. Phái đoàn Roberts đến xin thông thương, xin lập phố buôn ở Trà Sơn [bán đảo Sơn Trà, Đà Nẵng] vua trả lời thẳng không cho, nhưng Roberts còn kiên trì, trở lại xin nữa, chuyện sẽ kéo dài trong một năm.

3- Tháng 7/1804, Thực Lục ghi: "Nước Hồng Mao sai sứ đến dâng phương vật, dâng biểu xin thông thương. Lại xin cho người nước ấy ở lại Đà Nẵng, đi lại buôn bán. Vua nói: "Tiên vương kinh dinh việc nước, không để người Hạ lẫn với người Di, đó thực là cái ý đề phòng từ lúc việc còn nhỏ. Người Hồng Mao gian giảo, trí trá, không phải nòi giống ta, lòng họ hẳn khác, không cho ở lại, ban cho ưu hậu mà khiến về, khước từ những phương vật họ hiến". Rồi sau bọn Hội Thương Trọng (tên quan Hồng Mao) [chỉ Roberts] hai ba lần dâng thư yêu cầu. Cuối cùng vua cũng không cho."[29]

Lần này cũng vẫn là phái đoàn Roberts, có thể Roberts không ở Việt Nam liên tục cả năm, mà đi rồi trở lại. Năm 1803, Roberts xin "lập phố buôn ở Trà Sơn", năm sau xin "ở lại Đà Nẵng"; cả hai yêu cầu, đều bị vua từ chối. Nhưng giọng văn Thực Lục lần sau gay gắt hơn, hẳn là phải có lý do. Việc này sẽ được giải thích rõ hơn trong chương 26, Các sứ bộ Anh Pháp đến Việt Nam. Ở đây chỉ nói về việc Chaigneau và Vannier được lệnh đón phái đoàn Anh, để độc giả thấy rõ thủ tục tiếp đón một phái đoàn ngoại quốc thời Gia Long.

Khi sứ bộ Roberts đến Đà Nẵng tháng 7-8/1803, vua đang chuẩn bị ra Bắc để nhận thụ phong của nhà Thanh và chỉ định Phạm Văn Nhơn, Nguyễn Văn Khiêm và Trần Văn Thái làm phụ chính trong triều. Ngày 19/9/1803, vua rời Huế. Ngày 26/9/1803, đến Nghệ An, vua gọi Phạm Văn Nhơn ra Hà Nội dự lễ. Ngày 29/11/1803, đến Thăng Long; tháng 2/1804, làm lệ thụ phong: Nguyễn Văn Thành nhận sắc, Phạm Văn Nhơn nhận ấn. Ngày 2/3/1804, vua rời Thăng Long; ngày 19/3/1804, về tới Huế. Gia Long đặt tên nước là Việt Nam.

Trước khi vua ra Bắc, sứ bộ Roberts đến Đà Nẵng xin tiếp kiến, trong thư Roberts nói ý định "xin lập phố buôn ở Trà Sơn", vua từ chối, không cho và không tiếp. Trong khi vua ra Bắc, tầu Anh đỗ lại Đà Nẵng, chờ. Công đồng [Hội đồng các quan đại thần], theo lệnh vua, gửi chỉ thị ngày 28/9/1803 cho Chaigneau và Vannier, sai ra tiếp phái đoàn Anh và thông báo cho đại diện Anh biết luật lệ của triều đình. Hai ông có nhiệm vụ: nhận thư của sứ bộ Anh, dịch và đệ trình lên vua ở hành tại (nơi vua đóng trên đường ra Bắc). Chỉ thị ghi rõ: Lệnh cho Chấn Tài Hầu [Vannier] và Thắng Đức Hầu [Chaigneau] (Vannier tuỳ ý, còn Chaigneau phải đi, có thể vì Chaigneau biết tiếng Anh), đi cùng với Thạnh Đức Hầu (chưa biết là ai) ra Đà Nẵng, lên tầu và nói với đại diện Anh như sau:

"Theo thủ tục ở đây, khi có thuyền tầu ngoại quốc đem thư đến, ta gửi người đến xem chữ nghiã thế nào; sau khi đã dịch sang quốc âm, sẽ trình lên Hoàng Đế; và sau đó mới cho phép sứ giả đến chúc tụng". Phải nói rõ như thế, để cho họ hiểu. Rồi phải lấy thư của Trấn quan [chỉ quan trấn thủ Anh ở Pondichéry] dịch sang quốc âm, dịch cẩn thận, rõ và đúng. Còn phải nói thêm như thế này: hiện Hoàng Đế đang trên đường ra Bắc; mà đường biển lúc này khó khăn. Vậy họ phải cắm neo đợi, ở chỗ đang đỗ [nghiã là không được vào Huế]. Cho phép được mua bán tất cả các thứ, không giới hạn gì. Sau khi dịch xong thư thì trả lại cho họ. Thắng Đức Hầu đem bản dịch đến hành tại dâng vua, và đợi thư trả lời.

Ngoài ra, Chấn Tài Hầu và Thắng Đức Hầu còn phải gặng hỏi và bắt họ phải khai chi tiết những điều sau đây: nước Anh còn gửi thêm tầu nào nữa hay không và đến đây với mục đích gì; để khi Thắng Đức Hầu đến gặp Hoàng đế, tâu cho rõ. Sau khi Chấn Tài Hầu và Thắng Đức Hầu tới Quảng Nam và giải quyết xong các vấn đề với tầu Anh, thì phải trình tâu ngay cho các quan phụ chính biết. Nhớ đem theo quân hộ tống, cho ăn mặc y phục oai vệ, và đem theo văn kiện để trưng dụng phu khuân vác. Y lệnh. Sau khi dịch xong thư, không giữ mà phải trả lại họ; để khi họ đến Kinh, còn đệ trình lên Hoàng Đế. Còn bản dịch sang quốc âm, phải đưa người khẩn cấp mang đến hành tại dâng vua. Thắng Tài Hầu cũng lên đường theo sau, vì đường xa, mà hành trình của ông còn xa hơn.

Gia Long năm thứ hai, tháng 8, ngày 13 [28/9/1803] Công Đồng Chi Ấn[30]

Đọc lệnh thư này, chúng ta biết rõ lề luật của triều đình khi có phái đoàn đem thư nước ngoài đến: Lá thư này, trước hết, phải được dịch ra quốc âm cho vua xem trước, sau đó bản chính sẽ trả lại phái đoàn, và nếu họ được vua tiếp, lúc đó sứ giả mới chính thức đưa thư lên triều kiến.

Vài ngày sau lệnh thư này của Công Đồng, Chaigneau nhận được lệnh thư của tướng Phạm Văn Nhơn, đệ nhất phụ chính, ngày 2/10/1803, như sau:

Khâm sai, Chưởng Thần Võ Quân, Kiêm Giám Thần Sách Quân, Quận Công, Thị Trung Đô Thống Chế [tức Phạm Văn Nhơn]

Thông báo

Việc: Theo lệnh Hoàng Đế, chỉ thị cho Khâm sai, Thuộc nội, Chưởng Cơ, Chính Quản Long Phi tầu, Thắng Đức Hầu [Chaigneau], kính cẩn tuân theo chỉ thị của Hoàng Đế, vì ân huệ đặc biệt, gửi 15 người lấy trong quân dưới quyền cai quản [của Chaigneau] và một Cai đội với 40 người, hộ tống [Chaigneau] đi Đà Nẵng, để liên lạc với những người trên tầu Anh; dịch và viết lại lá thư do nước này gửi đến, mang lá thư dịch dâng lên Hoàng Đế...

Gia Long, năm thứ nhì... [2/10/1803], Thần Sách Túc trực Đô Thống Chế chi chương[31].

Như vậy, Chaigneau không được phép đi Đà Nẵng một mình mà phải mang quân tháp tùng (55 quân và một viên Cai đội). Có lẽ đó là quy luật. Sau này, khi Chaigneau được lệnh đi đón tầu Pháp dưới triều Minh Mạng, vua cũng sai đem quân theo, thì bị Salles cho rằng vua tỏ thái độ thù nghịch với Pháp.

Roberts ở lại Việt Nam đến ngày 14/8/1804, đệ thư nhiều lần, nhưng không đạt kết quả, nên khi đi, đã để lại lá thư lời lẽ hết sức xúc phạm. Chúng tôi sẽ dịch toàn bộ lá thư của Roberts và trở lại vần đề này trong chương 26: Các sứ bộ Anh và Pháp đến Việt Nam.

 

 

Vannier và Chaigneau trong thời bình

Văn bằng Chưởng cơ của Vannier cấp ngày 6/12/1802 cùng một mẫu với Văn bằng Chưởng Cơ của Chaigneau, ngày 19/12/1802[32], chỉ khác ở điểm: "Vannier... quản tầu Phượng Phi, điều khiển đội Tiệp Thủy" còn "Chaigneau... quản tầu Long Phi, điều khiển hai đội Kiên Thuỷ".

 Điều đáng chú ý: mặc dù được thăng chức Chưởng Cơ, nhưng Vannier chỉ được cai quản một đội Tiệp Thủy, tức là vào khoảng 50 người. Còn Chaigneau được cai quản hai đội Kiên Thuỷ tức là vào khoảng 100 người, trừ khi hai đội của Chaigneau chỉ bằng một đội của Vannier.

Số quân này không phù hợp với địa vị Chưởng cơ, trên nguyên tắc, coi 5, 6 trăm quân. Trong chiến tranh, khi Chaigneau và Vannier còn làm thuyền trưởng, các tầu đại hiệu có thể chở tới 300 lính. Vậy có thể hiểu: Vannier và Chaigneau, sau chiến tranh, chỉ còn chức Chưởng cơ "danh dự", vì vua không để cho người ngoại quốc cầm quân?

Sự giảm thiểu này, còn tiếp tục nữa, theo chỉ thị Chaigneau nhận được ngày 15/1/1803:

"Công Đồng ra lệnh cho Chưởng Cơ Chánh quản Long Phi đồng tầu, phải thi hành: Chỉ giữ lại 50 quan, quân và phi tiêu, trong số cựu quân, để chăm sóc và bảo vệ tầu. Nếu cựu quân không đủ, thì thêm quân mới cho đủ số 50, còn lại bao nhiêu quân mới, cho về nghỉ. Tới ngày lĩnh lương, chỉ trình diện 50 người để lĩnh lương. Y lệnh."

Gia Long, năm thứ nhất, tháng 12, ngày 22 [15/1/1803] Công Đồng Chi Ấn[33]

Theo chỉ thị này thì Chaigneau chỉ còn được giữ 50 quân để coi tầu, chứ không phải để làm người hầu như Michel Đức viết trong Souvenirs de Huế.

Hai năm sau, Chaigneau nhận được một chỉ thị nữa, ngày 21/2/1805, ghi:

"Công Đồng chỉ thị cho quản Long Phi đồng tầu, Khâm sai, Thuộc nội, Chưởng cơ, Thắng Đức Hầu, một lệnh cần biết: Gửi gấp 35 quân của tầu Long Phi cho tầu Phượng Phi mượn, khi tầu [Phượng] tới Sài Gòn, sẽ cho quân này trở về xứ. Y lệnh".

Gia Long năm thứ tư, tháng thứ 1, ngày 22 [21/2/1805][34]

Theo lệnh này, Long Phi phải cho Phượng Phi "mượn" 35 lính trong số 50 lính, để lái Phượng Phi về Sài Gòn, sau đó Phượng Phi sẽ ở lại đây, và cho 35 người lính này "về xứ" tức là giải ngũ.

Tóm lại, đến 1805, cả Vannier lẫn Chaigneau đều không có tầu để làm thuyền trưởng nữa. Hai người Pháp cuối cùng làm quan võ trong triều, chỉ còn hư vị.

 

 

Quyết định trở về Pháp

Ngay từ năm 1806, trong thư viết cho giáo sĩ Létondal, quản thủ tu viện Macao (khoảng 1806-1807) Chaigneau đã bất mãn và bắt đầu nói xấu Gia Long:

"Năm 1802, khi con quyết định ở lại nước Nam tới cuối đời, con chưa biết rõ bản chất của nhà vua. Con tưởng ông ta thành thực hơn, hoặc ít giả dối hơn; con tin tưởng vào tất cả những hứa hẹn và tình bạn của ông ta. Hơn nữa, thấy tình trạng của nước Pháp, con cũng không muốn về. Nhưng bây giờ, nhà vua đã thay đổi nhiều lắm. Mặc dầu ông vẫn tỏ tình thân thiện với con, nhưng con không thích lối ông nói về Đạo thánh của chúng ta và con nghĩ đến một ngày ông ta sẽ chiều theo ý các quan, đàn áp đạo Thiên Chúa. Rủi thay, hiện con chưa có cách nào để đi cùng với gia đình ra khỏi xứ này, không quen ai ở Ấn Độ, không biết đi đâu, vì thế con vẫn phải cố gắng ở lại đây.

Nhà vua rất sợ người Anh, ông đối với họ rất tệ. Mặc dù ông nói rằng, các ông Abbott và Maitland còn nợ ông một số tiền lớn, nhưng thực ra thì ông nợ họ. Con có nói với ông về việc này, nhưng ông nhất định không trả".[35]

Những lời của Chaigneau ở đây, khác hẳn với những bức thư ông viết cho gia đình, in ở dưới, việc vua nợ Abbott và Maitland cũng sai, chúng tôi sẽ viết rõ hơn trong chương 26.

Tóm lại, ngay từ 1806, Chaigneau đã muốn bỏ đi, nhưng vì đã có vợ con, và cũng không biết đi đâu, đành ở lại Việt Nam. Năm 1808, nhận được tin tức gia đình lần đầu, trong thư trả lời, ông không dám nói đến chuyện vợ con, có lẽ vì lấy vợ Việt. Mãi đến 1817, mới nói, khi đó bà Huề, vợ cả đã mất từ 1815, và ông vẫn lần lữa không trở về, viện lẽ có bổn phận với vua; đi thì vua sẽ buồn, và nhất là ông rất "gắn bó" với đạo công giáo.

Tháng 9/1817, hai tầu Pháp La PaixHenri, cập bến Đà Nẵng. Thuyền trưởng tầu Henri đề nghị chở ông và gia đình về Pháp không tốn tiền, nhưng ông vẫn không về, tuy trong thư ông nói ông "ghê tởm cái xứ đang ở".

Hai tầu này đi khỏi được 6 ngày, thì chiến thuyền Cybèle đến Đà Nẵng ngày 30/12/1817, xin yết kiến vua Gia Long. Vannier được gửi ra Đà Nẵng đón (Chaigneau đau chân không đi được). Thuyền trưởng Kergariou tưởng nhờ Vannier vận động, sẽ được vua tiếp. Nhưng phái đoàn Kergariou cũng thất bại, vua Gia Long không tiếp. Xin xem chương 26: Các sứ bộ Anh và Pháp đến Việt Nam.

"Chaigneau và tôi kinh tởm cái nước Nam này, chúng tôi sẽ tìm mọi cách để đi thoát", đó là lời Vannier trong thư ngày 15/6/1819 gửi Baroudel, quản thủ tu viện Macao.

Cùng thời điểm ấy, tầu Larose đến Đà Nẵng (trước ngày 17/6/1819) và tầu Henri cũng trở lại Đà Nẵng ngày 10/7/1819. Một trong hai tầu này đã đem bản sao thư ngày 17/9/1817 của Quận công de Richelieu, thủ tướng Pháp, yêu cầu Chaigneau làm phúc trình về tình hình Việt Nam, và công văn ngày 26/8/1818: trao tặng cho Chaigneau và Vannier, Ngũ đẳng Bắc đẩu Bội tinh (Chevalier de la Légion d'honneur). Rey, thuyền trưởng tầu Henri vẫn đề nghị chở cả gia đình Chaigneau về Pháp không tồn tiền.

Những yếu tố này, kèm thêm việc hưởng gia tài của cha, đã giúp Chaigneau quyết định về Pháp. Vườn của ông ở Dương Xuân bán cho công chúa Bảo Thuận, con gái thứ năm vua Gia Long, nhưng không rõ nhà bán cho ai[36]. Ngày 21/10/1819, Giám mục Véren [Labartette] làm giấy chứng thực khai sinh cho các con ông. Chaigneau xin phép về Pháp nghỉ 3 năm, được vua chấp thuận.

Ngày 13/11/1819, Chaigneau cùng gia đình lên tầu Henri, gồm 5 con với bà Hồ Thị Huề, là Michel Đức, Joseph Nhàn, Pierre Địu, François-Xavier Ngãi, Anne Trinh, và hai con với Hélène Barisy là Louis Thương và Henri Quang (mất trên chuyến đi).

Ngày 14/4/1820, tầu đến Bordeaux. Chaigneau hy vọng được thừa hưởng gia tài của cha (giầu có vì làm đại tá hải quân cho Công Ty Pháp-Ấn) nhưng gia tài này phải chia cho sáu con, và qua các biến động ở Pháp, không còn lại gì.

 

 

Chaigneau viết về vua Gia Long

Từ năm 1806 trở đi, giọng Chaigneau viết về Gia Long trong thư rất khác nhau: Đối với các giáo sĩ ở Macao, ông mô tả Gia Long như một "bạo chúa" theo đúng giọng điệu của một số thừa sai lúc bấy giờ. Còn đối với gia đình, Chaigneau đưa ra một chân dung Gia Long đầy tình nghiã khiến ông ở lại phục vụ. Lá thư viết khoảng 1806 không đề ngày, gửi giáo sĩ Létondal, quản thủ tu viện Macao, mà chúng tôi đã trích dẫn ở trên, còn có câu: Con tưởng ông ta [Gia Long] thành thực hơn, hoặc ít giả dối hơn"[37]. Trong những thư sau, Chaigneau mô tả Gia Long là vị vua tàn ác, sách nhiễu dân chúng, triều đình sắp đổ... Thư gửi cho M. Létondal, ngày 6/6/1807, có những câu:

"Chắc cha Bissachère đã kể chi tiết cho cha nghe tình trạng hiện nay ở Nam và Bắc Hà. Dân chúng đói khổ cùng cực. Vua, quan sách nhiễu dân chúng một cách đáng phẫn uất. Công lý là tiền bạc: người giầu tha hồ bóc lột người nghèo mà không bị trừng trị vì họ có tiền trong tay..."

Thư ngày 12/5/1808 gửi M. Létondal một năm sau, có những câu:

"Về tôn giáo, con nghĩ dưới thời vua này thì các giáo sĩ và giáo dân còn được tạm yên, mặc dù cả vua lẫn quan đều không ưa đạo; bọn đàn bà thì tất cả đều ghét đạo, họ còn làm hại đạo hơn các quan. Con nghĩ triều đình này không được lâu đâu. Đã có nhiều nơi nổi loạn rồi, nhất là ở Bắc... Nhà vua đè nén dân chúng bằng khổ dịch và lao công, không cho ăn, không trả lương, mà lại còn bắt phải trả đủ thứ thuế, không tha cho ai hết. Các quan hà sách và cướp bóc tha hồ... Triều đình này đang khủng hoảng, sẽ đổ..."[38]

Nhưng khi viết cho gia đình, giọng Chaigneau khác hẳn. Sau nhiều năm không liên lạc, ông nhận được thư người anh cả Alexandre-Jean nói về việc chia gia tài ở Pháp và cần giấy ủy quyền của ông. Trong thư trả lời và uỷ quyền, viết ngày 27/3/1809, Chaigneau kể về Gia Long như sau:

"Em rất muốn về hôn anh chị và sắp xếp việc gia đình, nhưng em đã đầu quân giúp vua Nam Hà, mặc dù ông cho phép em ra đi, nhưng thấy ông rất buồn và nói rằng: đã theo ông trong lúc khốn khó, lại bỏ ông khi đã hưng thịnh, điều đó làm ông đau lòng. Bởi tất cả tình bạn ông dành cho em và cách ông đối xử với em trong mọi trường hợp, em nghĩ rằng bỏ ông về Pháp bây giờ là vô ơn. Khi em đến nước này giúp ông, ông mới chỉ sở hữu một vùng đất nhỏ tàn tạ, quân ngụy chiếm hết cả nước và đã giết hết tổ tiên của ông. Hiện nay, ông đã làm chủ tất cả Nam Hà, Bắc Hà và một phần Cao Miên..."[39]

Những điều Chaigneau nói trên đây không đúng hẳn, thực ra NguyễnVương đã làm chủ miền Nam từ 1788. Khoảng 10 năm sau, Chaigneau mới đầu quân. Lời thư cho thấy, đối với gia đình, Chaigneau kể: sở dĩ ông chưa về Pháp vì lòng trung đối với vua; còn đối với hội thừa sai, ông mô tả vua là một kẻ "hôn quân, vô đạo". Vậy đâu là sự thực?

Tám năm sau, trong lá thư gửi người anh cả ngày 1/10/1817, Chaigneau cho biết:

- Ông không nhận được tin gia đình, sau thư uỷ quyền, mãi tới 12/9/1815 mới có thư trả lời.

- Thuyền trưởng tầu Henry sẵn sàng chở cả gia đình ông về Pháp không tốn tiền.

- Kể chuyện người vợ kế Hélène Barisy và ngỏ ý về Pháp chơi thăm gia đình với vài đứa con lớn. Định để vợ kế và các con nhỏ ở lại, nhưng Hélène là người Pháp [lai], không nơi nương tựa nên xin cho cả gia đình về Pháp[40].

Trong thư ngày 3/6/1819 gửi M. Baroudel, Chaigneau lại nói giọng khác hẳn:

"... Không thể có tầu Âu Châu nào đến nước này, ở đây, mỗi ngày vẫn là những sách nhiễu đến cùng... Con không chịu đựng được nữa và con nóng lòng đợi vài tầu Pháp đến đây để thừa dịp về lại tổ quốc. Nhà vua yếu lắm rồi, không chắc có qua khỏi... sẽ có thay đổi trong chính phủ..."[41]

Câu "Không thể có tầu Âu Châu nào đến nước này" hoàn toàn sai, vì các tầu buôn ngoại quốc vẫn đến Đà Nẵng; chỉ khi nào có phái đoàn chính thức xin triều kiến và đòi hỏi những điều kiện "thông thương" không thể chấp nhận được, vua mới không tiếp.

Thư Vannier gửi M. Baroudel ngày 15/6/1819, cùng một giọng như thế. Vannier "ghê tởm" nước Việt, từ khi vua Gia Long không tiếp Kergariou, thuyền trưởng tầu Cybèle của Pháp:

"... Dĩ nhiên là con đã hết lòng vận động để cho ông ấy [Kergariou] được yết kiến vua. Nhưng những âm mưu ở trong triều và sự ngờ vực của thái tử [Minh Mạng] đã khiến việc không thành, họ thoái thác vì luật trong xứ, mà ông Kergariou lại không mang theo thư của vua Pháp gửi vua nước Nam, cũng không có cả thư của Thượng thư Pháp gửi Thượng thư nước Nam, nên không biết tiếp thế nào, vv... Một ông vua, đã nhờ vào người Âu, nhất là người Pháp, mới lấy lại được xứ sở mà xử sự như vậy, thực là vô ơn! Con thú thật với cha rằng, từ lúc ấy, ông Chaigneau và con ghê tởm cái nước Nam, và chúng con sẽ tìm cách đi thoát, trở về tổ quốc thân yêu của ta. Hơn nữa thái tử đã bắt đầu nói đến việc đàn áp đạo thánh của ta... Sau đó, ông còn truyền đến tai con, cho biết rằng, chỉ vì nể hai chúng con, mà chưa thi hành đó thôi; nhưng sẽ làm; phải làm. Nếu chúng con có công với triều đình, thì sẽ thưởng và cho phép ra đi, điều này, ở nước Nam, có nghiã là đuổi khéo. Sau những lời này, thưa cha, nếu nhà vua qua đời, chúng con rất khó ở lại Nam Hà. Không phải là về mặt chính trị chúng con có gì để than phiền thái tử, bởi vì ông đối xử với chúng con luôn luôn rất tử tế và tỏ ý nể trọng trước mặt tất cả các quan..."[42]

Những thư này cho thấy, Chaigneau và Vannier bị phân chia giữa hai lựa chọn: ở lại Việt Nam hưởng lộc của một viên quan võ hàng tam phẩm (chưởng cơ), hay trở về Pháp, trong lúc Pháp đang loạn lạc, chiến tranh thời Napoléon. Với đàn con đông, chưa biết làm gì sinh sống, họ đã chọn ở lại Việt Nam, nhất là Vannier rất giầu có vì buôn bán. Đến năm 1817, thời Vương Chính trùng hưng (Restauration), dòng Bourbon trở lại ngai vàng với Louis XVIII, Pháp muốn tìm lại ảnh hưởng và nếu có thể, chiếm thuộc điạ ở châu Á, mới gửi tầu Cybèle đến Đà Nẵng xin tiếp kiến, Chaigneau và Vannier hy vọng có thể làm một việc hữu ích cho nước Pháp là vận động vua Gia Long tiếp thuyền trưởng Kergariou, nhưng không thành, đó là một trong những lý do khiến họ bắt đầu chán ghét vua Gia Long.

Còn Salles thì đưa ra lập luận: Chaigneau thấy triều đình Gia Long "thối nát", đã "can đảm" làm một thứ "Đại Sư" (Grand Maître) đứng ra can gián vua, nên bị đình thần ganh ghét. Lập luận này khó đứng vững, bởi vì nếu ông Salles đọc kỹ những chỉ thị sai phái Chaigneau và Vannier do chính ông sưu tầm, thì sẽ thấy vị trí của hai người này trong triều: họ chỉ là quan võ hàng tam phẩm, có danh mà không quyền, không binh, không tầu để quản, họ không phải là "đại thần" có quyền sinh sát trong triều, có thể can vua, mà bị ganh ghét. Những "đại sư" còn sống trong triều lúc đó, là những Đặng Đức Siêu, Nguyễn Văn Nhơn, Trịnh Hoài Đức, Nguyễn Đức Xuyên, Phạm Đăng Hưng, ... chưa kể Minh Mạng đã thay cha cầm quyền. Việc Kergariou nhờ Chaigneau và Vannier vận động xin vào yết kiến vua không được, càng chứng tỏ họ không có quyền hành gì cả. Gia Long vẫn giữ vững chính sách ngoại giao từ 1790: không cho bất cứ nước Âu Châu nào, kể cả nước Pháp, có đặc quyền hơn các nước khác ở Á Châu, trong việc buôn bán, và không cấp cho họ bất cứ mảnh đất nào để xây thương điếm vì ông đã quá rõ tình hình Ấn Độ và Trung Hoa bị Anh, Pháp và các nước Âu Châu xâu xé.

 

 

Trở về Pháp lần thứ nhất

Không xin được yết kiến vua, Kergariou và tầu Cybèle rời Đà Nẵng ngày 22/1/1818. Dù trong thư từ gửi cho các vị thừa sai, Chaigneau và Vannier tỏ vẻ bực bội về chuyện vua không tiếp Kergariou, tuy vậy gần 2 năm sau khi Cybèle rời Việt Nam, Chaigneau mới về Pháp. Ngày 15/6/1819 Vannier viết thư cho Baroudel, có câu: "Chaigneau và con kinh tởm cái nước Nam này, chúng con sẽ tìm mọi cách để đi thoát". Nhưng khi Chaigneau đi, Vannier cũng vẫn ở lại. Trong thư viết cho Baroudel ngày 13/7/1820, Vannier kể tại sao không về cùng:

"... Ông Chaigneau đã đi năm ngoái, được vua cho phép về Pháp nghỉ 2 [3] năm. Ông ta về với cả gia đình, con chắc ông ấy không trở lại nữa. Chỉ còn một mình con trong số những người Pháp giúp nhà vua lấy lại ngai vàng. Chưa kể, nếu con có thì giờ đòi được hết tiền nợ ở Nam Hà và Bắc Hà, thì con cũng đã đi với gia đình rồi, nhưng thôi để năm sau vậy, [vì con] đã lấy 80.000 francs tiền lời, trong vụ [mua] vũ khí, được chở trên một con tầu 800 tô-nô, tầu này sẽ khởi hành từ Bordeaux tháng giêng sắp tới và sẽ đến đây vào khoảng tháng 5, nếu không có trở ngại vì chiến tranh với Anh.

Hoàng đế nước Nam đã từ trần vì bệnh ngày 2/2 [thực ra là ngày 3/2/1820] vừa qua. Ngày 27/5 đã chôn cất với đại lễ. May mà cái chết của ông không gây cuộc loạn nào. Nếu người nối nghiệp cứ cư xử như thế này thì sẽ được quần thần tin tưởng kể cả những người không theo ông khi vua còn sống. Từ khi lên ngôi, ông chưa nói gì, chưa làm gì, về đạo của ta... Còn về phiá con, riêng con, con chẳng có gì phải than phiền ông cả, ông vẫn luôn luôn niềm nở và nói chuyện thân mật với con..."[43]

Vậy Vannier chưa về chỉ vì sự buôn bán vũ khí đang dở dang, không thể bỏ đi ngay được. Ở lại Việt Nam, không những ông được hưởng lộc quan võ hàng tam phẩm mà chẳng phải làm gì, trừ thỉnh thoảng đón khách ngoại quốc; thời gian còn lại, buôn bán vũ khí để làm giầu.

Chaigneau về Pháp, có thể vì hai lý do: Thứ nhất, nhận gia tài của cha. Và thứ hai, vì ông đã thấy con đường công danh tại Pháp. Xin nhắc lại mấy sự kiện:

Louis XVIII (1814-1824), khi muốn trở lại Viễn đông, mới nghĩ đến hai người Pháp đang làm quan dưới triều Gia Long, cho rằng họ có thể làm trung gian cho Pháp trở lại Việt Nam. Vì thế, quận công de Richelieu, thủ tướng Pháp, viết thư ngày 17/9/1817 cho Chaigneau, yêu cầu ông làm bản phúc trình về tình hình Việt Nam, và ngày 26/8/1818, ra văn kiện trao tặng Chaigneau và Vannier, Ngũ đẳng Bắc đẩu Bội tinh. Lá thư và huân chương đã đến Việt Nam rất chậm, Chaigneau và Vannier chỉ nhận được khi hai tầu Larose đến Đà Nẵng (trước ngày 17/6/1819) và tầu Henri trở lại Đà Nẵng ngày 10/7/1819. Tin tưởng vào sự trong đãi của chính phủ Pháp qua lá thư của thủ tướng và huân chương mà Chaigneau quyết định về nước. Ngày 13/11/1819, gia đình ông lên tầu Henri, ngày 14/4/1820, tầu đến Bordeaux.

Về tới Bordeaux, việc khẩn cấp là phải viết ngay bản phúc trình về tình hình Việt Nam. Đáng lý việc này phải làm trong 6 tháng ở trên tầu, nhưng Chaigneau không thạo chữ nghiã, ông định sẽ lên Paris phúc trình miệng. Bộ Ngoại Giao đang cần gấp những thông tin của Chaigneau, vì thế, ông Tỉnh trưởng Gironde phải phái hai người thư ký "thông minh" đến nghe Chaigneau đọc rồi viết lại tại chỗ, với sự cộng tác của ông tham vấn toà tỉnh trưởng để hoàn tất bản phúc trình gửi Bộ Ngoại Giao[44].

Bản phúc trình được Salles sưu tầm, chú giải [in dưới tựa đề: Le mémoire sur la Cochinchine de Jean-Baptiste Chaigneau (Hồi ức của Chaigneau về nước Nam)[45], viết về nhiều vấn đề: Địa lý, Chính trị ba miền; Dân số và Khí hậu; Chính thể; Hệ thống quan lại; Hành chánh: xã, tổng, huyện; Tổ chức quân đội; Tình hình tiền tệ; Thuế khoá; Pháp lý; Dân cư; Phong tục; Tôn giáo; Chăn nuôi; Gia súc, Thương mại; Sản phẩm xuất cảng và nhập cảng; Chiều kích các tầu vào cửa Đà Nẵng và Sài Gòn và giá thuế tương ứng ở mỗi cửa biển; Những sản phẩm cấm xuất cảng; Tình trạng kỹ nghệ.

Salles cho biết ông tìm thấy bản phúc trình này trong Văn Khố Ngoại giao[46], đây là một bản sao, không có chữ ký, không đề ngày tháng và tên tác giả[47].

Qua nội dung, ta thấy đây không thể hoàn toàn là "tác phẩm" của Chaigneau, mà chỉ là văn bản ghi một số điều Chaigneau biết và kể lại, thí dụ như về binh bị, về sản phẩm xuất nhập cảng, vv... phần lớn hồ sơ còn lại dường như là sao chép những thống kê đã thấy ở các tài liệu khác (ví dụ sách của Montyon, Barrow, vv...). Duy trong phần Nhận xét tổng quát (Réflexions générales), Chaigneau đưa ra hai lời khuyên cũng đáng chú ý:

- Việc buôn bán với Việt Nam cũng có những trở ngại: tuy giá thành mua ở đây rất rẻ, nhưng điều kiện chuyên chở quá xa. Người dân ở đây không quen dùng sản phẩm của người Âu quá đắt và không tiện dụng đối với họ. Ví dụ họ rất thích gương, nhưng một cái gương tốt quá đắt, chỉ có người giầu mới mua nổi, vv...

- Chính phủ Pháp nên chiếu cố đến Việt nam, vì nhiều mối lợi: khi đánh nhau với Anh có chỗ dựa hậu cần và là cửa ngõ vào nước Tầu. Nếu Pháp không chú ý đến việc này thì những nước cừu địch [Anh, Hoà Lan, Tây Ban Nha] sẽ làm.[48]

 

 

II. Chaigneau dưới thời Minh Mạng

 

 

Nhận chức mới và trở lại Việt Nam

Theo thư Bergerin, Tổng giám đốc Hải quân gửi Bộ trưởng Hải quân, thì đến Bordeaux, Chaigneau định đưa gia đình về Lorient, nhưng M. Rosières, cựu Tổng thư ký Hải quân, là anh/em rể, ra đón, đưa về nhà ông bà ở Alby [gần Toulouse]. Một mình Chaigneau đi Paris vào khoảng 10 hay 12/5/1820, để đệ bản Phúc Trình tình hình nước Nam lên Bộ trưởng Hải quân. Chaigneau đã làm việc với hai người thư ký thông minh (deux secrétaires intélligents) của Bá tước de Tournon, tỉnh trưởng Gironde để viết văn bản này. Bergerin kể thêm: Chaigneau và Vannier được quyền tham dự hội đồng nội các [Công Đồng] nhưng sợ các quan ganh tỵ nên các ông không dự, trừ khi được vua gọi trong những dịp đặc biệt. Theo lời Chaigneau, vua Gia Long rất hoan hỷ, vì Conway, mà không có vụ quân Pháp đến giúp, nhà vua không nợ nần gì Pháp và ông không có ý nhượng bất cứ thứ gì cho Pháp, bởi sẽ gây sự chú ý của quân Anh đang tập trung ở Ấn Độ[49]. Những điều này đúng cả, trừ việc Chaigneau và Vannier có quyền dự họp của Công Đồng là sai. Hai ông là quan võ, hàng tam phẩm, mà Công Đồng chỉ dành cho các quan đại thần hàng nhị phẩm trở lên mới được dự.

Chaignau đến Paris cuối tháng 5 và ở đây tới 5/8/1820. Trong gần ba tháng ở lại Paris, ông được yết kiến vua Louis XVIII và nhận huân chương Saint-Louis. Sau vinh dự ấy, Chaigneau không có cách gì sinh sống ở Pháp, gia tài của cha, phải chia năm sẻ bẩy cho các anh chị em, phần của ông chỉ là chiếc lâu đài đổ nát ở nhà quê, vì thế, ông đã nhận ngay nhiệm vụ quay trở lại nước Nam.

Ông viết thư cho Bộ trưởng ngoại giao, ngày 25/7/1820, xin cho Eugène Chaigneau đi theo: "Tôi nghĩ có bổn phận phải thưa với ngài rằng tôi đã ở quá lâu xứ xa xôi này, vì chiến tranh, bị cắt đứt liên hệ với nước Pháp và người Pháp, nên tôi đã quên cả nói và viết tiếng Pháp, nên xin ngài cho cháu tôi là Eugène-Louis Chaigneau đi theo... "[50]

Eugène Chaigneau, 22 tuổi, được cử làm thư ký riêng cho Chaigneau, lương 1.500 francs một năm. Michel Đức con trai ông, biết tiếng Việt và chữ Hán, nhưng không đủ khả năng tiếng Pháp để làm việc này. Nghị định được vua Louis XVIII ký ngày 12/10/1820.

Chaigneau trở lại Việt Nam, với một bản chỉ thị định rõ các chức vụ cao cấp của ông: Đại lý nước Pháp (Agent de France) tại triều đình Huế, Lãnh sự Pháp (Consul de France) đối với kiều dân Pháp ở Việt Nam, và Khâm sai của Vua (Commissaire du Roi) đại diện vua ký các thỏa ước với chính phủ Việt Nam; lương 12.000 francs một năm.

Chaigneau đi cùng vợ con (thêm bé gái Marie mới sanh) -trừ Pierre Địu và François Xavier Ngãi, được học bổng ở lại Pháp- Tất cả lên tầu Larose, rời Bordeaux ngày 1/12/1820, cùng các giáo sĩ Olivier, Gélan, Taberd và Gagelin.

Ông đến Huế ngày 17/5/1821, vua Gia Long mất đã hơn một năm (ngày 3/2/1820, vì bệnh thuỷ thũng)[51]. Ông có vẻ xúc động về cái chết của vua, trong thư viết cho anh ngày 19/10/1821, có câu: "Tôi thương tiếc ông, thương tiếc ông rất lâu, vì đó là một người chính trực".

Ngày 16/7/1821, Chaigneau mua ngôi nhà ở Chợ Được, sau bán lại cho Minh Đức Hầu, chồng công chúa Bảo Thuận (người đã mua vườn nhà cũ ở Dương Xuân của ông năm 1819) ngày 25/10/1824[52] trước khi gia đình ông ra Đà Nẵng để về Pháp vĩnh viễn, năm 1824.

Ngay hôm sau khi đến Huế, ngày 18/5/1821, Chaigneau đã đệ lên vua Minh Mạng thư của vua Louis XVIII, ủy nhiệm ông trong chức vụ: Đại Lý (Agent) của Pháp cùng một số quà cáp[53].

 

 

Thư Louis XVIII gửi Minh Mạng

Sau đây là thư Louis XVIII gửi Minh Mạng, viết ngày 12/10/1820, giới thiệu Chaigneau là Đại Lý (Agent) của nhà vua:

"Quốc vương tối cao, tối thượng, vạn năng, đại độ, rất thân ái...

Quả nhân cảm thấy hết sức thoả mãn khi biết tin ngài đã đón tiếp tử tế những người Pháp đến đây buôn bán. Lối xử sự của ngài đối với họ chứng tỏ ngài vẫn giữ những kỷ niệm cũ về tình bạn giữa vua Pháp và vua Nam Hà. Về phiá quả nhân cũng vậy... Trong chiều hướng đó, quả nhân uỷ nhiệm, bên ngài, với tư cách Đại Lý (Agent), thân J.B.Chaigneau, sĩ quan thủy quân của quả nhân và là quan Nam Hà. Lý do duy nhất đã hướng dẫn quả nhân trong sự lựa chọn này vì y đã được ngài biết đến và y đã biết cách dung hoà sự quý mến và tin cẩn của ngài. Quả nhân không nghĩ là ngài sẽ nghe hết những thỉnh nguyện và những giãi bầy mà y đưa ra trong trường hợp y đại diện cho thần dân của quả nhân để xin ngài một đặc ân liên quan đến việc thương mại hoặc bất cứ việc gì khác, và quả nhân tin rằng chắc chắn họ sẽ luôn luôn được hưởng sự công bằng và nhân hậu của ngài.

Quả nhân vội vàng nắm lấy cơ hội này để tỏ tình bạn chân thành với ngài...

Viết tại điện Tuileries, ngày 21/10/1820

Bạn thân mến của ngài,

Louis"[54]

Theo Cadière, thư này được Vannier và Chaigneau dịch sang chữ Nôm, còn giữ trong hồi ký của Nguyễn Đức Xuyên[55], Salles bình phẩm rằng: Vua Minh Mạng "không biết cư xử", ngay hôm đầu đã "xỉ nhục" Chaigneau, bằng cách mượn một người Việt "không có trình độ" đến dịch thư của vua Pháp, chứng tỏ vua bị ảnh hưởng của bọn triều thần "nham hiểm"[56]. Taboulet viết một câu hỗn xược: "Vì không có thông ngôn người Nam Hà, lá thư của Louis XVIII, được Chaigneau và Vannier dịch. Minh Mạng lấy cái thú quỷ quyệt (se fit un malin plaisir) viết thư trả lời vua Pháp bằng tiếng Việt [chữ Nôm]"[57]. Chỉ có Diard viết gần với sự thực hơn cả, sẽ thấy ở dưới. Vua Minh Mạng họp các quan trong Công Đồng và quyết định phái quan Thương bạc Nguyễn Đức Xuyên viết thư trả lời.

Điều đáng chú ý ở đây, Louis XVIII chỉ uỷ thác Chaigneau bên Minh Mạng như một Đại Lý (Agent) của nước Pháp mà thôi. Nhưng Chaigneau còn có hai chức nữa là Lãnh Sự (Consul) đối với Pháp kiều và Khâm sai (Commissaire du Roi) của Pháp hoàng, những điều này được quy định trong Bản chỉ thị cho M. Chaigneau, Đại Lý và Lãnh Sự Pháp ở nước Nam (Les instructions pour M. Chaigneau, Agent et Consul de France à Huế), tháng 10/1820, sau đây.

 

Chỉ thị cho Chaigneau, Đại lý và Lãnh sự Pháp ở nước Nam[58]

"Ông Chaigneau được thừa nhận là Đại Lý của nước Pháp bên cạnh Quốc vương nước Nam, bằng thư uỷ quyền của vua [Louis XVIII] gửi quốc vương nước này [Gia Long].

 Ngoài ra, ông ta còn được một uỷ ban do vua chỉ định, phong chức và quyền Lãnh sự đối với kiều dân Pháp ở nước Nam.

 Sau cùng, một ủy ban khác, phong cho ông tước vị và đặc quyền Khâm sai của vua để ký kết một thoả ước thương mại giữa nước Pháp và nước Nam.

Bản chỉ thị này, dùng để hướng dẫn cách ứng xử của ông Chaigneau trong những chức vụ khác nhau:

1- Chức Đại lý (Agent) của nước Pháp là chức duy nhất mà M. Chaigneau phải dùng đối với chính phủ nước Nam.

Nhân danh chức này, ông đệ trình lên Hoàng Đế [Việt Nam] và giới chức quyền tất cả những yêu cầu, những đại biểu khuynh hướng, bảo đảm cho thần dân của vua [Pháp kiều], trước hết, về an ninh bản thân và tài sản của họ, sau đó là sự đãi ngộ thuận lợi nhất cho quyền lợi của họ, phù hợp với những điều chính xác quy định trong bản hiệp ước dự trù hay theo lẽ công bình đương nhiên, cũng như theo tình bạn nối liền hai chính phủ.

Lời tường trình ngắn ngủi này về bổn phận của M. Chaigneau trong chức Đại Lý còn giúp ông tự xác định mình và dịch nó ra tiếng nước Nam.

2- Còn về chức Lãnh sự (Consul), thường được thiết lập giữa người được bổ nhiệm với chính quyền nước cư ngụ, với những quan hệ gần giống như quan hệ mà ông Chaigneau làm Đại lý (Agent); chức lãnh sự được giao cho vị sĩ quan này để xác định mối quan hệ của ông với thần dân của Hoàng Thượng [Pháp kiều] và chức vụ này chỉ để dùng riêng với họ [Pháp kiều] mà thôi.

Chức này gồm:

Ông sẽ có quyền đối với họ về mặt pháp luật dân sự...[Những điều ghi tiếp đó thuộc về địa hạt quyền hành và bổn phận của vị lãnh sự đối với kiều dân của ông ta, chúng tôi không dịch lại]

 

3- Bản hiệp ước mà M. Chaigneau sẽ điều đình, với tư cách Khâm sai của vua [Pháp], trước hết, là phải bảo đảm an ninh bản thân và tài sản cho thần dân của vua [Pháp kiều], để họ được tự do buôn bán, sau đó bảo đảm cho M. Chaigneau có điều kiện thực hiện chức vụ chúc Đại Lý và Lãnh Sự .

[Tiếp đó là sự kê khai những điều kiện cụ thể, thí dụ: Tất cả những việc tố tụng giữa Pháp kiều sẽ do Đại Lý của Pháp xử, vv... ].

 Đáng chú ý là những khoản đòi hỏi sau đây cho Pháp kiều:

"Thần dân của vua [Pháp kiều] có thể đi về, ở lại trong tất cả mọi vùng của Hoàng đế nước Nam, mà không bị ngăn cản, không phải trả bất cứ thứ thuế gì cho bản thân, nhờ một giấy thông hành do quan trấn thủ địa phương hay do quan Thương Bạc ở Huế cấp.

Không được bắt giữ hạm đội của họ [người Pháp] hoặc hoãn ngày đi, dù tầu chở đầy hay không, tại hải cảng của vương quốc, trong bất cứ trường hợp nào, dưới bất kỳ lý do nào.

Thần dân của vua [Pháp kiều] có thể nhập vào nước Nam, tất cả các thứ hàng ở Âu Châu và các nước khác trên thế giới và xuất tất cả các thứ hàng hoá ở trong nước, làm tại chỗ hoặc đến từ các nước bên cạnh, trừ những thứ cấm lưu hành.

 Khi lệnh cấm [một thứ hàng] đã ra, trong vòng hai năm, không được ra lệnh cấm mới đối với nhà buôn Pháp.

Thần dân của vua [Pháp kiều] sẽ trả giá xuất nhập cảnh như người trong nước, giá biểu này không được tăng trong tương lai, trong bất cứ trường hợp nào, dưới bất cứ tên gọi nào.

...

Sau đó đến đoạn dặn Chaigneau phải dịch những điều khoản này sang tiếng Việt, một cách khéo léo để dễ được chấp nhận và lợi dụng việc ông được ra vào dễ dàng bên vua để tâu những điều thuận lợi cho nước Pháp, vv...

Đến đoạn này, cũng đáng chú ý:

"Thư từ liên lạc của M. Chaigneau với Bộ ngoại giao có mục đích chính là quyền lợi thương mại của ta ở nước Nam, dĩ nhiên chứa đựng báo cáo tất cả những vận động của ông trong địa vị Khâm sai, Đại Lý của Vua, cũng như tất cả những hành động của ông trong chức Lãnh Sự (...)

"Ngoài ra, M. Chaigneau sẽ phải thu lượm và ghi lại trong nhật ký, để mỗi khi có dịp, gửi bản sao về Bộ, tất cả mọi thông tin có thể có được về những biến cố xẩy ra, không chỉ ở nước Nam, mà còn ở Trung Hoa, Phi Luật Tân và các thuộc địa Anh, Hoà Lan, đặc biệt các đảo Sumatra và Java, mà hình như đang có sự tranh chấp dữ dội giữa hai phe cầm quyền ở hai xứ này. Sau cùng, M. Chaigneau phải chỉ ra và chuyển về Bộ, những báo cáo đặc biệt về những phần khác nhau của thống kê nước Nam, về luật pháp, cai trị, kỹ nghệ, nghệ thuật, phong tục, lực lượng quân sự trên bộ cũng như trên biển, vv..."[59]

Tóm lại, chức vụ duy nhất của Chaigneau được chính phủ Pháp giao phó bên cạnh Minh Mạng là Agent của nước Pháp. Chữ Agent này có thể dịch là Đại Lý hay Đại Điện, nhưng còn có một ẩn nghiã là Gián điệp. Những điều ghi trong Chỉ thị mà chúng tôi vừa trích dịch trên đây, xác nhận vai trò điệp viên của Chaigneau bên cạnh vua Minh Mạng. Andé Salles lờ hẳn bản Chỉ thị này, khi viết chân dung Chaigneau.

Theo Chỉ thị này, đối với triều đình Huế: Chaigneau là Đại lý (Agent); đối với kiều dân Pháp: Chaigneau là Lãnh Sự (Consul); và đối với chính phủ Pháp Chaigneau là Khâm sai (Commissaire du Roi) đại diện vua Pháp ký các hiệp ước với Việt Nam.

Bản chỉ thị có giọng hách dịch, không những đòi hỏi Pháp kiều phải được hưởng tất cả mọi quyền lợi như người Việt, mà còn ra lệnh cho chính phủ Việt Nam phải làm theo.

Tóm lại, Pháp chỉ đòi những điều kiện mà không có điều khoản gì trao đổi lại.

Trong ba chức của Chaigneau, chỉ có chức Agent là chính thức, được Louis XVIII viết trong thư giới thiệu với Minh Mạng. Chỉ thị cũng yêu cầu Chaigneau, chỉ được xưng một chức ấy,và một chức ấy mà thôi với vua Minh Mạng, tức là gián tiếp bảo giấu hai chức Lãnh sựKhâm sai đi.

Vậy, về mặt chính thức, chính phủ Việt Nam không biết đến các chức Lãnh SựKhâm sai mà Pháp đơn phương cấp cho Chaigneau. Đó là một mánh lới của Pháp, vì biết nếu Chaigneau nói ra các chức kia, có thể vua Minh Mạng sẽ gạt ngay.

 

 

Phản ứng của vua Minh Mạng khi Chaigneau trở lại

Thực Lục, tháng 5/1821, chép việc Chaigneau trở lại Việt Nam như sau:

"Thuộc nội chưởng cơ quản thuyền Phi Long là Nguyễn Văn Thắng từ Tây Dương đến, dâng cái hàn thử biểu. Vua nhân hỏi: "Ngươi lại muốn về sao?" Đáp: "Thần chịu ơn dầy của nước, không biết lấy gì báo đáp. Nay tuổi già, xin làm tôi trọn đời".

Vua nói: "Người ta ở đời quý ở chỗ lập công danh mà thôi. Ngươi theo đòi Tiên đế, hưởng lộc mấy chục năm, tuy là người ngoại quốc, cũng đã là thần tử bản triều. Nếu quả thực có thể trọn tiết làm tôi, thì lưu danh nghìn đời trong sử sách, há chẳng hay sao! Nếu trở về nước Tây thì chẳng qua chỉ là một thường dân mà thôi".

Có người Phú Lãng Sa dâng quốc thư và sản vật địa phương (gương to), cùng đến với Thắng, đậu thuyền ở Đà Nẵng. Đem dịch thư ra thì là xin thông thương. Vua giao đình thần bàn, rồi hạ lệnh cho ty Thương Bạc đưa thư trả lời nhận cho, và biếu nhiều phẩm vật (100 cân da voi, 30 cân da dê, 10 tấm da hổ, 100 tấm da trâu, 500 tấm da hươu, 200 tấm sa nam, 200 tấm the nam, 100 tấm lụa Cao Bộ, đường phèn, đường phổi mỗi thứ 1.000 cân, 10.000 cân đường cát, 2 cây ngà voi, 2 cỗ sừng tê), giao cho người ấy mang về nước"[60].

Chaigneau trở lại triều đình, biếu vua món quà là chiếc hàn thử biểu. Vua hỏi: sao ngươi không ở lại nước của ngươi mà lại trở về đây? Chaigneau trả lời: "Thần chịu ơn dầy của nước, không biết lấy gì báo đáp. Nay tuổi già, xin làm tôi trọn đời". Vua an ủi: Ngươi trở về đây thì được trọng vọng cả đời còn ở Pháp chỉ là thường dân. Những lời trao đổi trên đây nói rõ tình cảm và cách đối xử của Minh Mạng với người đã phục vụ cha mình, và cho thấy Chaigneau trở về, không với tư cách "Đại lý" của vua Pháp mà là một bầy tôi trở về chầu vua.

Đoạn sau, có một câu rất đáng chú ý: "Có người Phú Lãng Sa dâng quốc thư... cùng đến với Thắng [Chaigneau], đậu thuyền ở Đà Nẵng", như vậy Thực Lục không coi Chaigneau là "Đại lý của vua Pháp", vì theo Thực Lục, thư Pháp hoàng là do một người Phú Lãng cùng đến với Thắng, dâng lên. Người này là ai? Nhờ câu sau cùng: "... giao cho người ấy mang về nước", ta có thể đoán người ấy là Borel, người mãi biện của tầu Larose.

Vậy, tóm lại, Chaigneau không dám nhắc đến các chức Lãnh Sự, Khâm sai của mình, đã đành, mà dường như ông cũng không dám dùng cả chức Đại Lý của mình nữa, tuy đã được vua Louis XVIII giới thiệu với vua Minh Mạng trong quốc thư. Qua những điều ghi trong Thực Lục, hiển nhiên là Chaigneau không dám "sử dụng" chức mới của mình trước Minh Mạng, lại càng không dám "điều đình", "thương lượng", "đòi hỏi ", "ký kết", hiệp ước gì cả, như chính phủ Pháp mong muốn. Vẫn theo Thực Lục, vua họp với Công đồng và quyết định để ty Thương Bạc trả lời. Tại sao vua Minh Mạng không trả lời trực tiếp vua Louis XVIII mà lại giao cho quan đại thần trả lời gián tiếp dưới dạng thông tri, điều này ta sẽ hiểu dần, qua những thông tin ở dưới.

Thương Bạc có nghiã là Hàng hải Thương thuyền, nhưng thời ấy tức là Bộ Ngoại Giao, do quan đại thần Nguyễn Đức Xuyên, Chưởng Tượng Quân, kiêm lĩnh. Ông là một trong những đại thần thế lực trong triều, vì đã theo vua Gia Long từ thời hàn vi, và cũng là một trong những người cuối cùng còn sống, nên được Minh Mạng rất trọng nể. Thông tri của Nguyễn Đức Xuyên gửi Bộ Trưởng Ngoại Giao Pháp được ông Abel Rémusat, thuộc viện Hàn Lâm và là giáo sư Hán văn ở trường Hoàng Gia dịch sang tiếng Pháp, Henri Cordier sưu tầm và in lại trong Le Consulat de France à Huế, t. 49-52.

 

 

Thông tri của quan Thương Bạc Nguyễn Đức Xuyên

Chúng tôi dịch lại toàn bộ lá thư, đúng dạng được trình bầy trong sách của Cordier, sau đây:

Bản dịch những văn bản đến từ nước Nam tháng 5/1822, do M. Abel Rémusat, thuộc viện Hàn Lâm, giáo sư Hán văn ở trường Hoàng Gia, vv... dịch.

"Những văn bản đến từ nước Nam năm 1822 để trong một phong bì giấy, ta có thể đọc được, một bên đề:

"Công văn của Chưởng Tượng Quân, kiêm Quản đốc Tượng Mã quân và Thương Bạc.

Kính gửi quý tôn Pa-tchoui-kouẽi-i, quản đốc Thương Bạc vương quốc Phú-Lang-Sa,

Văn bản dành riêng để chính ông quản đốc mở"

Một bên ghi:

"Minh Mạng năm thứ hai, tuần trăng thứ chín, ngày thứ mười hai [7/10/1821]

"Trong này có hai văn bản"

Dấu triện đóng ba lần trên phong bì, viết theo lối cổ, có nghiã: "Triện của Chưởng Tượng Quân"

Văn bản thứ nhất trong phong bì là như sau:

"Thông tri chính thức"[61]

Sứ giả của vương quốc Việt Nam, Trưởng Tượng Quân kiêm Quản Thương Bạc, Tchouan-kiun Quận công, ra thông tri sau đây:

Tiên đế băng hà năm Gia Khánh thứ 18[62], Kỷ Mão, tuần trăng thứ 12 [tháng 2/1820]. Tuân theo thánh chỉ, vâng mệnh tối cao, Thái tử lên ngôi tôn, giờ là Thánh Tổ, niên hiệu Minh Mạng, đặt nền móng trị vì trăm họ, yên hưởng thái bình.

Nay, ngươi Chaigneau của quý vương quốc, ba mươi năm trước đã đến đây, lập nhiều công lớn, có địa vị trong chính quyền. Năm Kỷ Mão[63], y xin về xứ thăm quê và gia đình. Tháng tư năm nay [5/1821], y trở về đây, mang theo một lá thư và nhiều đồ vật khác. Y trình rằng Vua quý quốc phái y thông báo cho Hoàng Đế.

Ngặt vì biên thuỳ của nước chúng tôi ở cuối phương Nam, còn biên thuỳ quý quốc lại ở đầu phương Tây. Cương vực hai xứ cách nhau nhiều biển, xa nhiều ngàn dặm. Người xứ chúng tôi hiếm khi đến được quý quốc. Vì thế khi thư từ [của quý quốc] đến đây, thông dịch của chúng tôi không đủ khả năng, nên chúng tôi không thể hiểu rõ, qua một vài câu chữ, tất cả những gì quý vị mong muốn cho thần dân quý quốc, về những lề luật và về sự điều đình liên quan đế các việc buôn bán. Cả danh sách những đồ vật kèm theo cũng không thấy ghi trong thư.

 Về vấn đề này, nghiệm ra, tất cả những gì liên quan đến thương mại và việc bán ( sản phẩm), chúng tôi đều đã có quy luật xác định rõ ràng. Tất cả những nhà buôn của các nước khác đến đây đều phải tuân theo. Vậy nếu người của quý quốc muốn đến đây buôn bán, cứ theo phép đó mà làm là tiện hơn cả.

Nay, tôi nhận lệnh Hoàng Đế, trình những mặt hàng ở đây để làm mẫu, và sai Chaigneau lo gửi đến ngài, để ngài đệ trình lên Vua nước ngài. Đó là điều tôi thông báo.

Thông tri trên đây gửi đến ngài, quý tôn Pa-tchoui-kouẽi-i, quản đốc Thương Bạc vương quốc Phú-Lang-Sa.

Minh Mạng năm thứ hai, tuần trăng thứ chín, ngày thứ 12 [7/10/1821] (L.S.)"

Văn bản thứ hai chỉ có danh sách các thứ biếu Vua [Pháp]. Đọc thấy:

Tổng Kê

Những đồ vật dùng làm mẫu hàng sản xuất trong xứ:

200 tấm sa nam, mầu sắc hoà hợp; 200 tấm the nam, mầu sắc hoà hợp; 100 tấm lụa [TL ghi lụa Cao Bộ]; 2 sừng tê, nặng 4 cân (cân ta, livre); 2 ngà voi, nặng 50 cân; 1000 cân Mo-thang [TL ghi đường phổi -là đường miếng to, dầy, có lỗ]; 1000 cân đường phèn; 10.000 cân đường cát; 100 cân da voi; 10 tấm da hổ; 30 cân da tê giác [TL ghi da dê]; 100 tấm da trâu; 500 tấm da hươu.

Trên con số các đồ vật, có đóng dấu triện không được thay đổi.

JPAbel Rémusat [dịch][64].

 

Những nhận xét khi đọc bản Thông tri chính thức (Communication officielle) này:

1- Không phải Thư mà là Thông tri của ông Bộ trưởng (Thương Bạc) gửi cho ông Bộ Trưởng (Ngoại Giao).

2- Không hề nói đến thư và quà của vua Pháp mà chỉ nói: Chaigneau mang theo một lá thư và nhiều đồ vật khác. Và còn có ý trách những đồ vật này không được ghi trong thư.

3- Những "hàng" gửi sang, số lượng rất lớn để chứng tỏ sự hào phóng của nước Nam, nhưng không phải là quà vua Minh Mạng tặng vua Louis XVIII mà là những thứ gửi sang Pháp để làm "hàng mẫu".

4- Lấy cớ không có thông ngôn tốt, thực ra, theo lời Vannier (xem chương 26), quan Thương Bạc có thông ngôn riêng, chỉ Vannier không có. Ở địa phương như Quảng Nam, quan trấn thủ cũng có thông ngôn, nên khi Kergariou cập bến Đà Nẵng, ông đã cho Kergariou "mượn", chưa kể Trần Văn Học vẫn còn sống và đang làm quan đại thần trong triều.

5- Tuy vậy, bản Thông tri vẫn trả lời những điều ghi trong Chỉ thị cho Chaigneau, về những điều kiện mà người Pháp đòi hỏi, có lẽ do Chaingeau tâu miệng. Sự trả lời rất rõ ràng: Chúng tôi không có điều kiện gì đặc biệt cho người Pháp cả, ai muốn đến đây buôn bán thì cứ theo đúng quy luật có sẵn.

Nhưng để hiểu rõ hơn nội vụ việc này, chúng ta cần đọc thêm hai tài liệu, một do chính Chaigneau viết tường trình với Bộ trưởng Ngoại giao về việc này và một do nhà thực vật học Diard, cùng về với Chaigneau, được vua Minh Mạng cho ở lại Việt Nam mấy năm để nghiên cứu thực vật.

 

 

Chaigneau tường trình việc trở lại VN

Trong thư viết ngày 17/10/1821 gửi Bộ Trưởng Ngoại Giao, Chaigneau cho biết: M. Vannier đã sửa soạn về Pháp, nhưng khi thấy tôi [Chaigneau] trở lại, đã thay đổi ý kiến và sẵn sàng ở lại nước Nam, cùng tôi dự những buổi tiếp kiến vua, và hết lòng mong muốn mọi việc thành công[65]. Nhưng quan trọng nhất là thư Chaigneau gửi Bộ trưởng Ngoại giao ngày 19/10/1821, trong đó ông tường trình mọi việc. Chúng tôi xin tóm tắt nội dung và dịch những đoạn chính sau đây:

 Sáng 17/5/1821, tầu Larose cập bến sông Hương, bắn 21 phát súng đại bác chào mừng. Quan trấn thủ bến cảng gửi một chiếc thuyền ra đón, cho hay vua gia Long đã mất. Tôi [Chaigneau] sợ cái chết này sẽ sinh loạn, nhưng may mắn là đã dẹp xong, tôi cũng sợ sẽ gây khó khăn cho nhiệm vụ của tôi, việc này đã xẩy ra như ta sẽ thấy ở dưới.

Tôi được dẫn về nhà quan trấn thủ bến cảng, và ông cũng xác định vua Gia Long đã mất. Nhà vua không có con chính thức, sau khi tra luật, đã lập đứa con hoang lên làm vua, bất chấp luật tắc. Một ông quan về luật đã tự tử chết, những ông quan khác thì thầm không dám nói gì.

Chỗ này Chaigneau viết bậy, không có ai tự tử về việc này, vấn đề không phải Minh Mạng là con hoang, mà Minh Mạng là con thứ. Theo truyền thống Đông phương, thì hoàng tử Cảnh là trưởng nối ngôi, nhưng hoàng tử Cảnh mất sớm, con hoàng tử Cảnh có thể lên làm vua, nhưng Gia Long nói thẳng, ông không chọn cháu, mà chọn con. Minh Mạng được rèn luyện để làm vua từ thủa nhỏ. Vả lại các chúa Nguyễn không theo luật trưởng, mà chọn hoàng tử nào giỏi nhất kế vị.

Chaigneau viết:

"Hoàng thượng đã rơi lệ khi nhìn thấy tôi, tôi nghĩ tình cảm đó phát xuất từ lời khuyên của cha ông. Thực vậy, Hoàng Thượng có nhắc lại với tôi rằng Hoàng Đế Gia Long đã đoái thương đến tôi trước khi mất, ông đã gửi gấm tôi đến người kế vị bằng những lời lẽ tô điểm nhất, quan tâm nhất, và ông cũng không quên tất cả người Pháp, ông nói với con: "Đó là một dân tộc tốt, đáng tôn kính mà con phải biết ơn những việc họ đã giúp ta qua những ông quan mà họ đem lại cho ta.

Vị vua già còn thêm những điều quý hoá để hướng con ông về những tình cảm tốt đẹp đối với chúng tôi như ông đã từng có.

Sau phút hội kiến ngắn ngủi về việc trở lại, tôi tâu vua là tôi có mang một lá thư của vua Pháp cho ông và xin sáng mai được vào yết kiến để đệ trình, nhà vua bằng lòng và cho lệnh ngay để ngày mai làm lễ nhận thư long trọng theo đúng thủ tục ở đây. Lệnh được thi hành ngay.

Ngày 18/5 lúc mặt trời mọc, triều đình phái nhiều ga-le đi dự, một chiếc sẽ có hân hạnh nhận thư của Hoàng đế Louis XVIII, với những đội bộ binh đi hộ tống hai bên bờ sông cùng với các quan. Cả đoàn họp lại đúng trật tự ở cửa sông, gần thành đồn bảo vệ.

Bấy giờ đoàn ga-le mới rời bến cảng, đến sắp hàng hai bên tầu Larose; mà tôi đã lên trước để sắp xếp giấy tờ. Tôi xuống chiếc ga-le danh dự và đặt thư của Hoàng đế dưới sự bảo vệ của thuyền trưởng, trong một hộp riêng, được phủ ngay bằng tơ luạ[66] hoàng gia. Thành đồn chào mừng lúc nhận thư và tầu Larose đáp lại.

Chúng tôi lên đường về triều, cùng với đội quân tháp tùng lúc nãy, tôi vào cung trình vua nước Nam lá thư của Hoàng đế Pháp. Đây tôi không chỉ trích cách nhà vua đã đối xử với với tôi và ông Vannier, người Pháp, làm quan như tôi, có đủ khả năng để dịch trung thành lá thư này, nhưng cũng phải nói rằng, nhà vua đã không tin chúng tôi như vua cha, ông chẳng thèm hỏi chúng tôi xem thư viết gì, mà đi gọi một người dịch từ xa, biết chút ít tiếng Pháp, nhưng kiến thức quá giới hạn để có thể dịch được lá thư sang tiếng Việt. Y không làm được nên vua lại phải nhờ ông Vannier và tôi dịch đúng nội dung thư của Pháp hoàng.

Sau khi đọc rõ, nhà vua có vẻ thích thú những gì Hoàng đế Louis XVIII viết trong thư với lời lẽ hết sức thân thiện và có vẻ muốn trả lời tán thành những ý định của người. Nhà vua muốn chấp nhận sự lựa chọn mà vua [Pháp] đã hân hạnh dành cho tôi làm Đại lý của ngài đối với người Pháp và bấy giờ ông mới nói rằng ông ngần ngại không đưa tôi dịch thư vì ông nghĩ rằng sự ấy bất tiện cho tôi là người đưa thư.

Đến hôm nay, tôi vẫn chưa hiểu thực ý của ông về việc này, nhưng tôi không thể không nghĩ rằng thái độ ngờ vực tôi, mà thời còn cha ông, tôi không bị, có lẽ do quan Thương Bạc xui xiểm.

Ông quan này, qua lá thư của vua [Pháp], đã biết rằng từ nay tôi sẽ trách nhiệm về quyền lợi của người Pháp ở đây, tưởng tượng rằng tôi sẽ lấy hết quyền lợi của ông ta, tệ nhất là những quà cáp mà ngươi ta bắt buộc phải biếu ông ta. Cách đối xử với tôi, mà ông ta cũng không cần giấu diếm lòng ganh tỵ, đã khiến tôi chuyển từ nghi ngờ sang đích xác. Tôi có thể bảo đảm rằng ông ta đã tâu với vua, chẳng bao lâu nước Pháp sẽ đòi nhượng đất và những quyền lợi khác, không thể chấp nhận được.

Trong những lần được hội kiến, nhà vua đã tiếp tôi bớt nồng hậu hơn lần đầu, nhưng không lạnh nhạt đến độ làm tôi ngã lòng không tin tưởng có thể xin được cho nước Pháp đôi điều thuận lợi. Tôi dò ý ông và thấy ông cũng không nghe những lời dèm pha của quan Thương Bạc, tôi tìm hết cách can gián vua. Tuy nhiên, mỗi khi tôi nhân danh vua [Pháp] tâu lên ông một đòi hỏi gì, thì ông tránh trả lời xác đáng, và nói ông sẽ giải thích chuyện này trong văn bản gửi đến Hoàng Đế Louis XVIII qua tầu Larose. Cách đây mấy ngày, ông đã cho phép tôi đọc bản trả lời trù định này, nhưng cấm tôi không được dịch [sang tiếng Pháp] và ông cũng không cho tôi bản sao, tuy ông cho phép tôi được tóm lược ý nghiã, ông nói:

"Bên cạnh vua Pháp có những người giỏi giang có thể dịch cho ông ấy những điều ta viết; ông ấy đã viết thư cho ta bằng tiếng nước ông. Sao ta lại chẳng làm thế, trả lời thư ông ấy bằng tiếng nước ta?"[67]

 Sau đó Chaigneau tóm lược những ý trong lá thư của quan Thương Bạc gửi Bộ trưởng Ngoại Giao, đã dịch ở trên, và ông cho biết, vua Minh Mạng đã gửi lá thư này cùng quà cáp trên tầu Larose, nhưng ông không biết rõ chi tiết việc này như thế nào.

Sau đó Chaigneau kể xấu Minh Mạng: đã cách chức vị quan lớn nhất trong triều của cha, và thay tất cả các quan cũ bằng người của mình. Chuyện này cũng bịa đặt cả: Nguyễn Văn Thành bị kết án vì con trai ông làm thơ "phản kháng", đã tự tử thời Gia Long. Tất cả các đại thần có công với Gia Long, đều tiếp tục làm quan dưới thời Minh Mạng đến khi họ mất.

Chaigneau kể tiếp: bởi vì vua và triều đình sửa soạn ra Bắc nhận lễ cầu phong, khởi hành ngày 10/10/1821, cho nên đã không để ý đến việc của Pháp. Tiếp đó, ông tiếp tục nói xấu Minh Mạng: Vua là kẻ vụ lợi, đầu cơ, mua rẻ, bán đắt, vv... và kể về nhiều vấn đề khác: hàng hoá Pháp đem đến đây không bán được, trong vài năm sắp tới đừng đem tầu Pháp sang nhiều quá. Vua ngại nước Anh ganh tỵ nên không cho Pháp hưởng đặc quyền. Phải đợi vua đi Bắc về rồi sẽ xin vua dễ dàng hơn với nước Pháp, vv...[68]

Đó là những điều Chaigneau viết về việc ông đem thư Pháp hoàng trở về. Ông quy những thất bại của mình là do quan Thương Bạc Nguyễn Đức Xuyên, sợ mất quyền, xui xiểm. Có lẽ vì giầu tưởng tượng nên ông hình dung ra thế. Nguyễn Đức Xuyên là một trong những vị đại thần có công và có uy tín nhất trong triều, có con dâu là trưởng Công Chúa Ngọc Nguyệt. Đứng đầu Tượng binh và Thương bạc trong nhiều thập niên, ông có cái nhìn rộng, thấu rõ tình hình thế giới bên ngoài và ý định xâm lược của người Âu, nên ngay từ khi tầu Cybèle cập bến năm 1817, ông đã khuyên Gia Long không tiếp thuyền trưởng Kergariou và vua đã nghe theo. Tháng 12 năm Giáp thân (1-2/1825), ông bị bệnh, nhà không đủ tiền thuốc, phải tâu xin lĩnh 6 tháng lương trước để chữa bệnh. Vậy chắc ông không ăn đút lót như Chaigneau tưởng. Vua đặc ân cho 1000 quan tiền, 1000 phương gạo, nhưng chỉ trong vòng hơn một tuần ông mất. Vua thương tiếc lắm, truy tặng Thái Phó, Thụy Trung Dũng, nghỉ chầu ba ngày.[69]

Trong triều Minh Mạng, Nguyễn Đức Xuyên tiếp tục vị trí ưu tiên của vài quan đại thần còn sống, ở bên vua như Trịnh Hoài Đức, Đặng Đức Siêu, Nguyễn Văn Nhơn...

Việc không nhận đề nghị giao thương với chính phủ Pháp là sách lược chính trị đề phòng ngoại bang của triều đình, không phải là sự ganh tỵ quyền hành, bởi vì Chaigneau có đáng gì mà Nguyễn Đức Xuyên phải ganh tỵ?

Nhà thực vật học Diard, cùng về Việt Nam, kể chuyện Chaigneau, dưới góc độ khác hẳn.

 

 

Diard tường thuật việc Chaigneau trở lại VN

Pierre Médard Diard (1794-1863) là nhà vạn vật học, gặp Chaigneau ở Batavia và được Chaigneau mời cùng về Việt Nam. Tầu đến Đà Nẵng ngày 17/5/1821, Diard được vua Minh Mạng cho phép đi khắp nơi nghiên cứu thực vật, được ở lại Việt Nam và Cao Miên, từ 1821 đến 1824.

Diard đã viết cho người thầy, Nam tước Georges Cuvier (1769-1832), nhà vạn vật học nổi tiếng, thuộc Tham chính viện (Conseil d'Etat), những bản phúc trình về thực vật học và ba lá thư (còn được lưu lại) trình báo về tình hình Việt Nam, trong đó ông bộc lộ chiến lược độc đáo của một nhà bác học, là nên chiếm nước ta làm thuộc địa bằng phương pháp "trồng trọt". Minh Mạng là kẻ "không thể bảo được", nếu không có súng ống đi kèm. Hai lá thư của nhà bác học này[70] cho thấy rõ ý nguyện thâm sâu của nước Pháp, mà có lẽ Minh Mạng đã thấy rõ hơn cả.

 

1- Lá thư Diard viết cuối tháng 10/1821 gửi M. Cuvier:

Trình bầy sơ qua tình hình nước Việt khi ông đến, vua Gia Long đã mất, tuy nhiên theo ông, vua Gia Long rất có cảm tình với nước Pháp, người Pháp, nhưng vì sợ người Anh ganh tỵ nên ông đã không để cho Pháp được hưởng những đặc quyền, hay thương lượng một thoả hiệp nào. Bây giờ người kế vị lại càng ngại sự ganh tỵ của các nước Âu Châu, nên cũng không cho Pháp biệt lệ, tuy vậy, nhà vua không hoàn toàn chối bỏ mọi liên hệ với Pháp, Diard phân tích:

"Chỉ vì tình tình của ông [Minh Mạng] khác hẳn ông vua già [Gia Long], thay vì đơn giản, thẳng thắn, dễ gần cận, ông lại kiểu cách kiêu kỳ theo lối các vua Đông phương, nhất cử, nhất động đều theo đúng nghi lễ và luật tắc Trung hoa, có lẽ ông muốn thử hay là ông đã, giữ thế bề trên đối với vua Pháp, bắt buộc tất cả những người Pháp muốn ở lại nước ông phải chịu một phần luật tắc và điều kiện sống nhục nhã mà người Âu phải chịu để đổi quyền thương mại với nước Tầu.

Nhưng vì cha ông chưa từng buộc họ điều gì bao giờ và tôi nghĩ rằng, ông cũng sợ nếu bắt họ chịu đựng những sách nhiễu mà họ không quen, thì sẽ gây chiến với nước Pháp, ông lại không được lòng các quan đại thần, và ông còn nghi ngờ các cháu ông [con hoàng tử Cảnh] cũng được một đám quan có thế lực ủng hộ, có thể chiếm ngai vàng của ông. Tuy nhiên, một người trung gian cứng rắn và khôn khéo có thể kéo ông về phe ta, cho ta những đặc quyền cần thiết có lợi cho sự buôn bán của ta ở xứ này. Rủi thay, người hiện nay có trách nhiệm về việc quan trọng này, lại tỏ hoàn toàn không có khả năng làm tròn nhiệm vụ: ông Chaigneau, ở chỗ riêng tư, là người tốt nhất, đáng mến nhất; nhưng lại là ông quan khúm núm, có lẽ do quen lối Nam Hà, và tính tình lại quá nhút nhát, không dám đòi hỏi, nhân danh sự công bằng đối với nước Pháp, buộc vua nước Nam phải nhượng bộ vài đặc quyền thương mại.[71]

Thưa Nam tước, dù tôi đã chịu ơn ông ấy [Chaigneau] trên nhiều bình diện, nhưng tôi phải thú nhận với Nam tước rằng, tôi rất tiếc ông Chaigneau đã đặc biệt bỏ lỡ cơ hội duy nhất mà ông ấy có thể điều đình, chưa kể, không những ông ấy làm thương tổn đến chức vụ cao trọng của mình, mà còn làm tổn thương đến vua và dân tộc Pháp nữa. Những dòng đơn giản ngắn ngủi sau đây để trình bầy cho Nam tước rõ sự việc.

Ông Chaigneau, ngay ngày đầu tiên đến nơi, sau khi báo cho vua nước Nam biết ông có mang thư của vua Pháp, thoả thuận ngày mai sẽ đem thư lại cho nhà vua, đã không bàn đến vấn đề nghi lễ, rất quan trọng trong dịp như thế này. Lá thư, quả là đã được ông Lãnh sự [Chaigneau] đem lại, nhưng với nhiều cẩu thả sơ suất, thiếu sửa soạn trước, đến nỗi Hoàng đế nước Nam, có lẽ đã rất thích thú, vì thấy được cơ hội để tỏ ưu thế của mình và sỉ nhục một vị vua Châu Âu: nhà vua đã nhận thư mà không có một vinh dự nào đi kèm, trái hẳn với luật rõ ràng của xứ này, thư của vua nước khác, phải được tiếp đón bằng lễ nghi trọng thể và được tất cả các quan có mặt trong triều dâng lên tận ngai vàng.

Vì thế, tự nhiên là trong một lúc, vua nước Nam, đã có ý nghi, không biết lá thư của vua Pháp là thực hay giả, điều này là một sỉ nhục cho ông Chaigneau, và ông Chaigneau lại còn để lỡ dịp, mở ra trước bá quan, cuộc điều đình chính thức. Ông Lãnh sự quả đã phạm hai lỗi một lúc.

Sau cùng, vẫn trong sự cao ngạo Á châu, khi vua nước Nam quyết định gửi biếu Hoàng Đế Louis XVIII, một số quà để đáp lễ những thứ ông nhận được, đã mượn cớ, vì uy thế của ngai vàng, không thể gửi một lá thư do vua ký tên trên một tầu buôn [Larose], nên nhà vua đã để quan đầu triều [Nguyễn Đức Xuyên] viết thư trả lời vua Pháp.

Về mối liên hệ giữa các việc buôn bán, thì không có gì khó khăn cả, chiếc tầu [Larose] đã được miễn mọi thứ thuế, và người mãi biện của tầu cũng được phép trú ngụ ở nước Nam. Qua việc này, ta không thể nghi ngờ gì nữa về tình cảm thực thụ của nhà vua; tựu trung, ông không muốn thẳng cánh đuổi người Pháp khỏi xứ, mà chỉ cố gắng làm thế nào để từ chối tất cả mọi thương lượng, cho Pháp một điều kiện đặc biệt, và ngăn họ đến đây quá đông, gây mối lo ngại cho ông và tạo sự ganh tỵ của nước khác.

Hiện giờ, hiển nhiên những chủ đích của Pháp về nước Nam, không thể giới hạn; và trong cả hai tương quan chính trị và ngoại giao, lợi ích lớn nhất của Pháp, là thiết lập quan hệ vững chãi với một nước có vị trí lợi ích như thế. Để đạt mục đích này, ta phải cố gắng rút ra cái phần đích đáng mà hoàn cảnh hiện nay cho phép.

Vì vậy, ưu tiên trên hết, là sự điều đình phải giao cho một người khôn khéo và phải bắt đầu sớm để có thể kết thúc trước khi hai người Pháp có tước quyền đại thần ở đây trở về Pháp, và một điểm cũng quan trọng nữa là sự thương thuyết này phải bắt đầu ngay trong năm thứ nhất của vị vua còn nhớ những sự giúp đỡ của nước Pháp, chưa kể hai địch thủ nguy hiểm [Anh và Hoà Lan] mà ta cần phải hù dọa.

Giờ đến chuyện đặc quyền nào mà nước Pháp cần đạt được ở xứ này để có thể giữ kỳ vọng rút được những lợi ích thiết thực.

Trước hết, trong hoàn cảnh hiện tại, đòi hỏi nhà vua một sự nhượng đất nào đó, là vô ích và phi chính trị, nhưng nếu chỉ giới hạn trong việc xin buôn bán ở nước Nam, thì đó là một đặc quyền suông, bởi vì trừ đường, không có một sản phẩm nào khác ở thuộc địa có thể buôn bán có lời sang châu Âu. Vậy, sự tự do gần như vô hạn để thiết lập tất cả mọi loại cơ sở trồng trọt, trên những vùng khác nhau của nước này, phải là mục đích độc nhất xác thực của tất cả mọi hiệp ước thương mại giữa nước Pháp và xứ giầu có này".[72]

Theo thư của Chaigneau ở trên: đợi Minh Mạng đi Bắc về sẽ xin vua dễ dàng cho người Pháp buôn bán. Vua Minh Mạng ra Bắc nhận lễ thụ phong của nhà Thanh, cùng các đại thần Trịnh Hoài Đức, Nguyễn Đức Xuyên... Nguyễn Văn Nhơn ở lại làm phụ chính trong triều với hoàng tử trưởng là Thiệu Trị sau này. Vua khởi hành ngày 10/10/1821 và trở về Huế ngày 23/1/1822.

Khi vua đã trở về Huế, có vụ chiến hạm Cléopâtre do Courson de la Ville-Helio điều khiển, ngày 28/2/1822 cập bến Đà Nẵng, đến từ Moluques, Manille, và Macao, để đi Malacca rồi về Pondichéry. Thuyền trưởng nhờ Chaigneau xin phép vua được đến yết kiến ở Huế, nhưng vua đã gửi lời cám ơn và mời thuyền trưởng cứ việc đi thẳng (thư Chaigneau, Cordier, trang 82-83).

Lá thư của Diard dưới đây, viết ngay sau vụ này, lời lẽ khác hẳn, lần này nhà bác học đã để lộ chân tướng thực dân ẩn sau các công trình nghiên cứu thực vật học.

 

2- Thư Diard viết ngày 3/3/1822 gửi M. Cuvier

Quan-haie, 3/3/1822

"...Nhưng khi tôi thấy chính phủ ta đã bỏ ra không biết bao nhiêu tiền để lập được mấy thuộc địa ốm o ở Cayenne, Sénégal, Madagascar, là những xứ, hoặc không có người ở, hoặc không thể thuộc điạ hoá được, vì tính hung ác của thổ dân, thì tôi không khỏi dằn lòng mơ ước cho ta lập được thuộc điạ trên đất nước này [Việt Nam], ta sẽ lợi dụng chiếm những vùng đất nhượng, hay đòi hỏi được đặc quyền đơn thuần cho mọi người Pháp đến trồng những sản phẩm ở thuộc điạ, quyền mà nước Pháp đã chính đáng đạt được ở Nam Hà khi cấp cho vua Gia Long sự cứu trợ lớn lao bằng tiền bạc cũng như khí giới chiến tranh. [!]

 Nhưng, như tôi đã có hân hạnh thưa với ông, không thể hy vọng gì ở ông vua hiện thời nếu những đòi hỏi của nước Pháp không đến từ một ông Đại sứ với sự hỗ trợ của một lực lượng quân sự. Vả lại, tuy dùng bạo lực, tôi không nghĩ ta có thể coi phương tiện này như không xứng đáng với lòng hào hiệp của nước Pháp, bởi vì, khảo sát kỹ mọi mặt, những đòi hỏi của ta không những chính đáng, mà thêm vào đó, thái độ vô lễ của nhà vua khi trả lời những vỗ về thân tình của vua Pháp, có thể biện minh cho tất cả mọi phương tiện mà Hoàng Đế thấy là tốt, để buộc ông ta phải thuận cho người Pháp đến tự do buôn bán ở nước ông (...)

Trong giả thiết cuối này, nhất là nếu nước Pháp thành công trong việc lập cơ sở trồng trọt trong vùng Sài Gòn và hơn nữa, ở Cao Miên, mà người dân là nô lệ của Nam Hà, không đòi hỏi gì hơn được tháo gỡ xiềng xích, thì chỉ trong vài năm, chúng ta sẽ có ở vùng Ấn Độ hai thuộc địa về mặt chính trị và thương mại có thể ganh đua với tất cả các thuộc điạ khác đang chia chác nhau sự khai thác giầu có của những xứ Á Đông. Nhưng, tôi xin nhắc lại, không phải bằng sự điều đình hay đòi hỏi thuần tuý thân hữu mà ta có thể đạt được mục đích này."[73]

Lời Diard phù hợp với những điều ghi trong Thực Lục ở trên: Đối với Minh Mạng, Chaigneau chỉ là bầy tôi thần phục, không dám nói, không dám bàn chuyện gì cả.

Chúng ta cũng thấy sự sáng suốt của vua Minh Mạng: Biết rõ khả năng học vấn của Vannier và Chaigneau, nên nhà vua phải dùng một dịch giả chuyên môn, người Việt. Việc Minh Mạng không viết thư trả lời vua Pháp và sai quan Thương Bạc viết "Thông tri" cho người đồng đẳng trong chính quyền Pháp, chứng tỏ Minh Mạng không muốn có quan hệ với vua Pháp dưới bất cứ hình thức nào, kể cả quà cáp cũng đưa dưới dạng "hàng mẫu".

Diard đã nói thẳng chủ ý thâm sâu của người Pháp: việc buôn bán chỉ là cái cớ để xâm nhập, vì không có sản phẩm nào ở thuộc địa có thể bán có lời ở Châu Âu, trừ đường và chính Chaigneau cũng cho biết, hàng Pháp đem về Việt Nam không bán được vì quá đắt, và Diard nói thẳng thực ý của mình và cũng là của chính phủ Pháp: Phải dùng bạo lực chiến tranh mới chiếm được đất nước này.

 

 

Sự thất bại của Chaigneau

Trái với những điều các sử gia thuộc điạ viết: Chaigneau bị Minh Mạng đối xử tệ, thậm chí bị Minh Mạng đuổi về, thực ra Chaigneau hồi hương vì bị chính phủ Pháp xỉ nhục đã không thành công trong những chức vụ quá cao mà chính phủ Pháp dành cho ông.

Nhận được Thông tri của Nguyễn Đức Xuyên, ngày 27/6/1822, Bộ Trưởng ngoại giao Pháp viết thư cho Chaigneau[74], lời lẽ phũ phàng:

"Lá thư mà ông đã báo trước với tôi và ông sẽ thấy bản dịch đính kèm đây, không phải là thư trả lời của hoàng đế như ông dự đoán, mà là thư ông quan Chưởng Tượng Quân gửi cho một trong những Bộ trưởng của vua. Phương pháp này có thể cho là rất vô lễ, nếu không có lý do gì khác với chuyện lầm lộn do triều đình ngu dốt không biết tiếng Pháp, nên nhà vua không hiểu lá thư ông được giao đem về cho ông ta". Tiếp đó là những lời khiển trách Chaigneau: Vua nước Nam không đích thân trả lời vua Pháp mà sai Bộ trưởng viết thay, là lỗi Chaigneau. Ông buộc Chaigneau phải giải quyết ngay việc Minh Mạng nghi ngờ chính phủ Pháp, và nếu cần phải bỏ tiền mua đồ đút lót các quan có thế lực trong triều (nhà nước Pháp cho phép Chaigneau chi tới 4.000 francs một năm). Ông cũng rất ngạc nhiên thấy Chaigneau khuyên không nên gửi nhiều tầu buôn Pháp đến Việt Nam, điều này trái ngược với chính sách của Pháp là mở rộng quan hệ mọi mặt với nước Việt, vv...

Ngày 10/3/1822, Chaigneau viết thư tường trình từ Đà Nẵng vụ chiến hạm Cléopâtre do Courson de la Ville Hélio điều khiển, cập bến Đà Nẵng ngày 28/2/1822, thuyền trưởng nhờ ông xin đến Huế ra mắt vua, cũng bị từ chối.

Ngày 7/12/1822, Chaigneau lại nhận được lá thư khiển trách nặng nề nữa của ông Bộ trưởng, cho rằng Chaigneau đã thất bại, không làm gì để tỏ rõ thiện ý của nước Pháp, khiến vua Minh Mạng hết nghi ngờ nước Pháp, vv...

Ngày 17/2/1824, sau sự thành công của phái bộ Crawfurd, của Anh, được Minh Mạng cho phép đến Huế, nhưng cũng không được triều kiến; Bộ Trưởng Ngoại Giao Pháp ganh tỵ với Anh, lại gửi thư khiển trách Chaigneau bất lực.[75]

Có lẽ lá thư khiển trách cuối cùng này giúp Chaigneau quyết định trở về Pháp, vì không chịu nhục được nữa. Cuối tháng 10/1824, Chaigneau và Vannier chính thức xin về nước.

Đối với những ngòi bút thuộc điạ, việc Chaigneau và Vannier trở về, chỉ có một lý do duy nhất là Minh Mạng đã làm trái lời cha, xử tệ và đuổi hai vị "ân nhân cuối cùng".

Để đánh đổ lập luận của người Anh, kể rằng: Gia Long đã "trăn trối" với con phải "đề phòng, đừng để mất một mảnh đất nào cho Pháp" và "chứng minh" rằng Minh Mạng đã làm trái lời cha khi "xử tệ" với Chaigneau, André Salles đã dành nhiều trang[76] để "trình bày" mối thiện cảm của Gia Long với Pháp, và ông đã dùng lời Vannier và Chaigneau kể lại, nói rằng Gia Long "trăng trối" với con về việc phải đối xử tốt với hai ông và trung thành với nước Pháp. Salles còn kể thêm những chuyện khác, rút từ thư Chaigneau gửi cho các giáo sĩ như việc Gia Long "dặn" Lê Văn Duyệt: "Nếu con ông làm gì sai trái, thì phải phản đối ngay" vv...

Tóm lại, những điều người ta đưa vào miệng Gia Long và Lê Văn Duyệt thì nhiều lắm, nhưng thường không có cơ sở. Khi lên ngôi Minh Mạng đã 29 tuổi, dày kinh nghiệm nội trị và ngoại giao, tự quyết đoán mọi việc, chắc không cần phải ai dạy bảo. Riêng Chaigneau khi viết thư cho các giáo sĩ nói xấu Gia Long và Minh Mạng thì ông không ngần ngại điều gì, đó cũng là một khía cạnh của con người ông.

Điều Gia Long chính thức dặn dò Minh Mạng được ghi lại trong Thực Lục, chỉ là: "Đấy là cơ nghiệp gian nan của trẫm, nay giao cho con, con nên cẩn thận giữ gìn", "Nay việc lớn của thiên hạ đã định rồi. Ta cũng sắp chết, không nói gì, chỉ có một việc là ngày sau phải cẩn thận, chớ nên gây hấn ngoài biên"[77]. Lời dặn dò này phù hợp với việc từ năm 1803 đến cuối đời, Gia Long luôn luôn phòng bị người Âu, chủ yếu người Anh đến xâm phạm lãnh thổ sau khi họ đã chiếm Ấn Độ. Vì thế, Minh Mạng đã kiên trì giữ thế quân bình, không gây hấn và cũng không để cho Anh, Pháp chiếm Việt Nam.

Trở lại việc tìm hiểu sự thất bại của Chaigneau trong khi thi hành các chức vụ mới, Salles,  vẫn theo lời Chaigneau, để giải thích rằng: sự khó khăn của Chaigneau là do lỗi ở viên quan ty Thương Bạc, không biết phân biệt các chức vụ khác nhau của Chaigneau, và lại tham lam nghĩ rằng Chaigneau vừa làm Lãnh sự, vừa làm quan của triều đình Huế, thì ông ta sẽ mất nguồn lợi đến từ kiều dân Pháp và Âu Châu, vì thế nên tìm hết cách đạp đổ[78]. Điều này, như chúng tôi đã nói ở trên, chỉ là hoang tưởng của Chaigneau, và là điều vu khống cho quan Thương Bạc Nguyễn Đức Xuyên: chính phủ Pháp đã dặn Chaigneau giấu các chức vụ Lãnh sựKhâm sai, không nói với Minh Mạng, thì làm sao quan Thương Bạc lại biết mà ganh tỵ và đạp đổ?

 

Sự phân biệt ba chức Đại lý đối với triều đình Huế, Lãnh sự Pháp đối với kiều dân, và Khâm sai để thay vua Pháp ký các thỏa ước với Việt Nam, của Chaigneau, cho thấy rõ mưu tính của chính phủ Pháp: đối với chính phủ Việt Nam, Pháp chỉ gửi một viên Agent sang, và như trên đã nói, chữ Agent này, ngoài nghiã Đại lý hay Đại diện, còn có nghiã là Gián điệp, và chính trong nghiã gián điệp này, mà Chaigneau có bổn phận phải làm phúc trình tất cả những gì xẩy ra, không những ở Việt Nam mà cả ở vùng Đông Nam Á nữa. Việc này, thứ nhất, vượt quá khả năng của Chaigneau, vì lúc ấy mọi phương tiện giao thông không dễ dàng, Chaigneau lại không phải là người tháo vát, không thông thạo chữ nghiã; và thứ nhì, Minh Mạng cũng chẳng thiếu gì phương tiện để khám phá ra "sứ mệnh thần lén" đó. Còn chức "Lãnh sự" dành riêng cho kiều dân Pháp, có thể gọi là "lãnh sự chui" vì không có gì chính thức cả. Những điều này chứng tỏ: chính phủ Pháp biết chắc Minh Mạng không hề muốn giao thiệp với Pháp, và chính Pháp cũng không hề có ý định đặt quan hệ ngoại giao song phương với Việt Nam (tức là đề nghị hai bên trao đổi lãnh sự), mà chỉ coi Việt Nam là một miếng mồi, một thuộc điạ tương lai, phải tìm mọi cách khéo léo để chiếm đoạt, cho nên chỉ đặt một Đại lý để làm Gián điệp bên cạnh vua Minh Mạng.

 

Việc đưa các giáo sĩ vào lậu cũng là một trong những nguyên nhân khiến Chaigneau phải trở về Pháp. Trong thư từ gửi các giáo sĩ, Chaigneau và Vannier thường nói xấu vua và kể công trạng của mình đối với đạo Chúa, đặc biệt công Chaigneau đã làm thế nào để đưa các giáo sĩ vào lậu, mặc dầu chuyện này tuyệt đối cấm.

Trong một số thư[79], Chaigneau kể lại việc linh mục Thật (người Việt) thân tín của ông, đã làm lễ rửa tội cho các con ông, sau ông Thật bội giáo, trở thành "con quỷ được phóng thích", đã tố cáo Chaigneau làm những việc:

Năm 1821 Chaigneau trở lại Việt Nam trên tầu Larose, đem theo ba giáo sĩ: Olivier, Taberd và Gagelin [thực ra là bốn, nhưng Gélan mất ở dọc đường]. Ba, bốn ngày sau khi tầu cập bến Đà Nẵng, ba giáo sĩ này được đưa lậu lên bờ, "mặc đồ Việt, được giấu kỹ trong một thuyền nhỏ", với sự trợ giúp của Chaigneau. Tháng 3/1822, tầu Cléopâtre lại bí mật đưa giáo sĩ Imbert lên bờ, Chaigneau tin rằng những việc này không ai biết, không ngờ linh mục Thật đã trình báo tất cả.

Trong thư ngày 30/10/1823, Chaigneau báo cho Bộ Ngoại Giao Pháp biết: Vì những nghi kỵ bao quanh khiến ông không thể tiếp tục làm đại diện cho nước Pháp được nữa, vả lại cũng sắp hết hạn 4 năm đã hứa, ông muốn trở về sống ở Pháp, để các con có một tương lai bảo đảm. Trong thư viết ngày 1/11/1823, cho La Bissachère, Chaigneau nói thêm: "Con hy vọng không phải ở thêm một năm nữa ở cái xứ thổ tả này (ce maudit pays). Không có cách nào chịu được, con muốn phát khùng". Việc đưa các giáo sĩ vào lậu và bị tố cáo, là một lý do nữa khiến Chaigneau xin về Pháp.

 

 

Sử gia Pháp tôn vinh Chaigneau là Lãnh Sự Pháp đầu tiên ở triều đình Huế

Câu chuyện trở thành khôi hài khi hầu hết các tác giả thuộc địa, đều coi Chaigneau là Lãnh sự Pháp đầu tiên ở Việt Nam: từ Cordier, 1884, Louvet, 1885, đến Maybon, Salles, Cadière, Taboulet... đặc biệt Cadière, hết sức đề cao Chaigneau là lãnh sự Pháp đầu tiên ở Việt Nam.

Henri Cordier là thành viên của Hàn Lâm Viện, và là người đầu tiên, đưa ra cái tựa: Le Consulat de France à Huế sous la Restauration (Lãnh sự Pháp tại Huế thời Vương Chính Trùng Hưng), tức là ông đã dựng nên một toà Lãnh sự "ảo", vì chức "Lãnh sự" của Chaigneau chưa bao giờ được chính phủ Việt Nam công nhận.

Theo gót người thầy Cordier, khi viết bài La maison de JB. Chaigneau, Consul de France à Huế (Nhà của Chaigneau, Lãnh sự Pháp tại Huế), học giả Cadière đã làm những việc:

- Chính thức xác định trên tựa của bài viết: Chaigneau là Lãnh Sự Pháp.

- Nhấn mạnh Chaigneau là Lãnh sự Pháp đầu tiên ở Việt Nam.

- Xác định ngôi nhà của Chaigneau ở Chợ Được là "sứ quán" Pháp tại Huế.

Một việc làm như vậy, cần phải dựa trên những cơ sở vững vàng. Vậy cơ sở gì đã khiến cho tất cả các ngòi bút thuộc địa đều đồng nhất với nhau, bỏi vì họ dựa vào cuốn sách Le Consul de France à Huế, của Henri Cordier, trong đó các thư từ trao đổi giữa Chaigneau và Bộ Ngoại Giao Pháp đều đề chức vụ là Consul.

Nhưng chức Consul này do phiá Pháp đơn phương đặt ra và "bí mật" trao cho Chaigneau. Trong lịch sử bang giao quốc tế, chưa hề có một thứ Lãnh sự nào "lén lút", theo hướng một chiều như thế cả. Nếu có Lãnh sự Pháp ở Huế thì cũng phải có Lãnh sự Việt ở Paris. Chaigneau, vì không được vua Pháp giới thiệu là Lãnh sự với vua Minh Mạng và theo những gì mà chúng ta biết, thì Gia Long và Minh Mạng chưa hề chấp nhận một sự trao đổi ngoại giao chính thức nào với một nước Âu Châu, Minh Mạng đã từ chối không trả lời vua Pháp mà sai quan Thương Bạc viết Thông tri cho Bộ Trưởng Ngoại Giao Pháp, không gửi quà biếu vua Pháp mà gửi những "hàng mẫu", đó là một tín hiệu rõ ràng, dễ hiểu.

 Chức Lãnh sự của Chaigneau, như vậy, chỉ là một ảo chức. Sứ mệnh của Chaigneau, như vậy, chỉ có thể là thất bại. Không chỉ vì khả năng và cá tính của Chaigneau như Diard nhận xét mà còn vì những toan tính không đường hoàng và kém cỏi của triều đình Pháp.

 

 

Lời đồn tam ban triều điển

Theo Salles, đầu tháng 10/1824, Chaigneau và Vannier xin nghỉ. Đơn được chấp thuận ngày 8/10/1824. Ngày 11/10 vua Minh Mạng cấp cho hai ông các bằng cấp khen thưởng và cho lên chức.

Ngày 25/10, Chaigneau bán nhà. Ngày 15/11 hai gia đình rời Huế, tuy chưa biết chắc có tầu ở Đà Nẵng đi Sài Gòn. Salles thuật lại những yếu tố trên đây với câu hỏi: Tại sao vội vã thế? Rồi ông tự đáp: Vì "Vua nước Nam đã gửi cho Chaigneau một cái khay trên có một chiếc thuyền nhỏ và một dây lụa, có nghiã là ông phải đi, hoặc phải thắt cổ", theo lời bà Chaigneau nhủ danh Hélène Barisy. Sang một trang sau, ông Salles cho biết: "Thông tin" này, ông rút ra từ lời bà Chaigneau nói với người anh em họ xa là ông Louis de Modille de Villeneuve, ông này lại nói lại với con trai là trợ giám mục Léonce de Modille de Villeneuve, và ông trợ giám mục Léonce viết thư cho ông Salles ngày 3/1/1921, kể rằng: "Cha tôi, hồi ở Lorient có quen một bà cô tên Chaigneau [Hélène Barisy] có những thói tật lạ, trở thành đề tài hiếu kỳ, bà ta kể rằng vua An Nam đã gửi một cái khay."

Vậy là từ câu "vua An Nam đã gửi một cái khay" mà ông Salles "suy ra" vụ được gọi là "tam ban triều điển" hay vụ "Minh Mạng cưỡng bức Chaigneau phải chọn về Pháp hay phải tự tử!"

Lạ nhất là chính ông Chaigneau và con trưởng của ông là Michel Đức, cũng không hề nói đến chuyện cái khay này. Các giáo sĩ cũng không. Michel Đức, trong hồi ký, chỉ nói đến sự "nóng ruột" muốn được ra đi sớm. Tuy nhiên Salles vẫn lợi dụng lời đồn thoát thai từ miệng "bà cô" để bàn rộng về "tam ban triểu điển" (vua cho chọn ba thứ: lụa, gươm, và thuốc độc để tự xử) mà theo ông Salles, các vua Nguyễn thường dùng để thanh toán các đối thủ! Ông quả quyết rằng, lý do "tam ban triều điển" là chính, đã khiến Chaigneau và Vannier đã phải "vội vàng rời Huế"[80].

Ta sẽ hiểu người ta đã chuyển ân của vua thành oán như thế nào, khi đọc Thực Lục, tháng 10/1824, chép việc Chaigneau và Vannier xin về nước:

"Chưởng cơ Nguyễn Văn Chấn và Nguyễn Văn Thắng dâng sớ xin về nước. Vua bảo bầy tôi rằng: "Bọn Chấn là người Phú Lãng Sa, năm trước về với ta, có công đánh giặc, cho nên Đức Hoàng khảo Thế Tổ Cao Hoàng Đế [Gia Long] ta cho làm đến chức ấy, bổng lộc theo phẩm cấp, lại còn cho hậu thêm. Trẫm từ nối ngôi đến nay, đãi họ cũng không bạc, sao họ lại xin về?". Sai đình thần hỏi, hai người đều nói rằng chịu ơn dầy của triều đình đã lâu, chỉ vì già yếu nên muốn quay đầu về núi mà thôi". Vua cho rằng đi làm quan xa nhớ quê hương là thường tình của người ta, bèn cho về. Cho phẩm phục và 6.000 quan tiền"[81].

Chaigneau và Vannier đợi ở Đà Nẵng ba tuần mới có thuyền đi Đồng Nai, (từ 17/11/1824 đến 11/12/1824), đến Sài Gòn ngày 24/12/1824. Hai ông ra đi, không biết có hai tầu chiến Thétis và Espérance do Bougainville làm tư lệnh sẽ đến vịnh Đà Nẵng ngày 12/1/1825 và tầu Courrier de la Paix sẽ đến Đà Nẵng ngày 18/1/1825.

Chaigneau bị ốm nặng từ ngày 7/1/1825. Và trong tháng hai, hai con trai của ông, Joseph Nhàn và Louis Thương bị chết vì bệnh dịch tả. Ngày 4/4/1825, hai gia đình lên tầu Courrier de la Paix, về Pháp, đến Bordeaux ngày 6/9/1825.

Chaigneau về Lorient ở ngôi nhà cũ, đã mua ngày 12/7/1821. Gia đình Vannier cũng sống gần đấy. Chaigneau lên Paris, thăm Hội Truyền Giáo Hải Ngoại và Bộ Ngoại Giao, nhưng Bộ Ngoại Giao tiếp đón lạnh nhạt, vẫn trách ông thất bại trong nhiệm vụ. Năm 1826, ông được lương hưu 1.800 francs (một năm).

Tháng 10/1827, vua Minh Mạng gửi cho hai vị cựu thần một lá thư dài, viết ngày 24/12/1826, và tặng mỗi người một món quà gồm những bình men Huế và tơ lụa, khiến hai bà vợ hết sức vui mừng và công chúng Lorient thán phục. Nhưng Salles vẫn cho đó là một "thủ đoạn" của vua Minh Mạng, "giả bộ tử tế", và vẫn bới chuyện trong thư, vua không nói đến các chức tước khác mà chỉ đề gọn hai chữ Chưởng Cơ[82].

Năm 1830, chính phủ Pháp bãi lương hưu của Chaigneau. Hai năm sau, ông mất tại Lorient ngày 31/1/1832, ở tuổi 63.

 


 


 


[1] Đáng chú ý 3 bài: La maison de Chaigneau (Nhà Chaigneau) của Cadière, BAVH, 1917, II, t.117-164. Les Diplômes et ordres de service de Vannier et de Chaigneau (Văn bằng và chỉ dụ sai phái của Vannier và Chaigneau), tài liệu của André Salles do Cadière dịch và chú giải, BAVH, 1922, II và - Jean-Baptiste Chaigneau et sa famille (JB Chaigneau và gia đình) của André Salles, BAVH, 1923, cả quyển I.

[2] Salles, JB Chaigneau et sa famille, BAVH, 1923, I, t. 7, 10.

[3] Salles, JB Chaigneau et sa famille, BAVH, 1923, I, t. 43, 44.

[4] Đến các hải cảng: Ile de France, Pondichéry, Mahé, Madagascar, Trinquemalay, Batavia, Canton và Manille.

[5] Nghiã là "biết cách tìm điểm nhắm, xác định vĩ độ, kinh độ, những biến đổi, định vị trí tầu trên bản đồ".

[6] Salles, JB Chaigneau et sa famille, BAVH, 1923, I, t. 45 và t. 149.

[7] Salles, JB Chaigneau et sa famille, BAVH, 1923, I, t. 46.

[8] Salles, JB Chaigneau et sa famille, BAVH, 1923, I, t.50, 51.

[9] Louvet, La Cochinchine Religieuse, I, t. 545.

[10] Salles, JB Chaigneau et sa famille, BAVH, 1923, I, t.53, 102.

[11] Salles JB Chaigneau et sa famille, BAVH, 1923, I, t. 103-104.

[12] Từ 1873, ông Đức dạy tiếng Việt ở trường Sinh ngữ Đông phương (École des Langues Orientales); Đức Chaigneau mất ngày 14/4/1894, tại nhà riêng 88 Avenue de Clichy, Paris (theo Salles, JB Chaigneau et sa famille, BAVH, 1923, I, t. 111). Hai con trai thứ của Chaigneau là Pierre Địu và François-Xavier Ngãi, mất ở trạc tuổi 40, cũng không có con. Người con gái Anne Trinh, có một con gái, sau sinh thêm 4, 5 lần nữa đều không nuôi được. Như thế, các con của bà Hồ Thị Huề, không còn ai nối dõi.

[13] Hélène Barisy lai Việt, con gái Laurent Barisy. Barisy mất năm 1802, sau vợ cũng qua đời. Chaigneau đón Héléne  về nuôi, Hèlène hơn Michel Đức ba tuổi.

[14] Hélène sinh được 2 con ở Huế là Henri Quang, chết trên đường về Pháp lần thứ nhất năm 1819, và Louis Thương, chết ở Sài Gòn, trên đường về Pháp lần thứ nhì, 1825 vì dịch tả. Tại Pháp, ngày 14/6/1820, Hélène sinh thêm bé gái Marie, cũng mất sớm. Trong thời gian ở Việt Nam lần thứ hai (1821-1825) Hélène sinh thêm Jean, con trai duy nhất, có con nối dõi dòng Chaigneau. Gia đình về lại Lorient, sinh thêm hai con nữa: Marie, sau đi tu, và Edouard, mất sớm.

[15] Salles, JB Chaigneau et sa famille, BAVH, 1923, I, t. 118-119.

[16] Thư Chaigneau viết ngày 10/6/1798, Cadière, Doc. Rel., t. 37-38.

[17] TL, I, t. 407.

[18] Dấu ấn của Công Đồng, hay Hội đồng các đại thần xét việc công. Định chế Công đồng có từ thời Quang Trung.

[19] Chúng tôi dịch theo bản Louvet, t. 558-559. Cadière có bản dịch khác trong Les diplômes et ordres de service de Vannier et de Chaigneau, BAVH, 1922, II, t. 140.

[20] Thư Barisy gửi đại tá Despinas ở Pondichéry, Salles, JB Chaigneau et sa famille, BAVH, 1923, I, t. 55.

[21] TL, I, t. 432.

[22] LT, II, mục từ Nguyễn Khắc Thiệu, t. 344.

[23] Thực Lục I, t. 474.

[24] Doc. Salles, Les diplômes et ordres de service de Vannier et de Chaigneau BAVH, 1922, II, t.143, 145-146.

[25] LT, II, t. 295 và TL, I, t. 499.

[26] TL, I, t. 539.

[27] TL, I, t. 438.

[28] TL, I, t. 564.

[29] TL, I, t. 602.

[30] Dịch lại bản in trong Les diplômes et ordres de service de Vannier et de Chaigneau, BAVH, 1922, II, t. 155.

[31] Dịch lại bản in trong Les diplômes et ordres de service de Vannier et de Chaigneau, BAVH, 1922, II, t. 160.

[32] Les diplômes et ordres de service de Vannier et de Chaigneau, BAVH, 1922, II, t. 147-148, và t. 150-151.

[33] Les diplômes et ordres de service de Vannier et de Chaigneau, BAVH, 1922, II, t. 154.

[34] Les diplômes et ordres de service de Vannier et de Chaigneau, BAVH, 1922, II, t. 161.

[35] Thư Chaigneau viết cho M. Létondal, khoảng 1806-1807, Cadière, Doc. Rel. t. 58-59.

[36] Cadière, La maison de Chaigneau, BAVH, 1917, II, t. 128-129.

[37] Thư Chaigneau viết cho M. Létondal, khoảng 1806-1807, Cadière, Doc. Rel. t. 58-59.

[38] Thư Chigneau viết cho M. Létondal ngày 6/6/1807 và 12/5/1808, Cadière, Doc. Rel. t 59 và 60.

[39] Thư Chaigneau viết cho anh là Alexandre-Jean ngày 27/3/1809, Salles, Jean-Baptiste Chaigneau et sa famille BAVH, 1923, I, t. 157-158.

[40] Thư Chaigneau gửi người anh cả ngày 1/10/1817, Salles, BAVH, 1923, I, t. 160.

[41] Thư Chaigneau viết ngày 3/6/1819 gửi M. Baroudel, Cadière, Doc. Rel. t. 62.

[42] Thư Vannier viết ngày 15/6/1819 gửi M. Baroudel, Cadière, Doc. Rel. t. 63.

[43] Thư Vannier viết cho Baroudel ngày 13/7/1820, Cadière, Doc. Rel., t. 63-64.

[44] Salles, Le mémoire sur la Cochinchine de Jean-Baptiste Chaigneau (Hồi ức của Chaigneau về nước Nam), BAVH, 1923, II, t. 255-256.

[45] Salles, Le mémoire sur la Cochinchine de Jean-Baptiste Chaigneau, BAVH, 1923, II, t. 253-283.

[46] Asie, Mémoires et Documents. Indes Orientales, Chine, Cochinchine, tập 21, t. 228-254.

[47] Salles, Le mémoire sur la Cochinchine de Jean-Baptiste Chaigneau, BAVH, 1923, II, t. 253.

[48] Salles, Le mémoire sur la Cochinchine de Jean-Baptiste Chaigneau, BAVH, 1923, II, t. 280.

[49] Thư Auguste Bergerin, Commissaire général de la Marine (Tổng giám đốc hải quân) gửi Bộ trưởng hải quân ngày 2/5/1820, in trong Le Consulat de France à Huế sous le Restauration (Lãnh sự Pháp ở Huế dưới thời Vương Chính Trùng Hưng) cuả Henri Cordier, Ernest Leroux, Paris,1884, t. 14-16.

[50]Thư Chaigneau gửi Bộ trưởng Ngoại giao, Henri Cordier, Le Consulat de France à Huế, t. 28-29.

[51] Thuỷ thũng (hydropique) theo thư Labartette ngày 10/6/1820, Launay, III, t. 436.

[52] Cadière et Cosserat, La maison de JB Chaigneau, Consul de France à Huế, BAVH, 1922, I, t. 1, 9, 23.

[53] Thực Lục ghi một chiếc gương. Nguyễn Đức Xuyên trong Thông tri gửi Bộ Trưởng Ngoại giao Pháp (ở dưới), nói rằng danh sách quà tặng không được ghi trong thư của Pháp hoàng. Còn Taboulet (La geste... I, note 2, t. 310), chép danh sách quà tặng của Louis XVIII, năm 1824, gửi Bougainville đem quốc thư và quà, trên tầu Thétis đến Việt Nam, cũng bị Minh Mạng từ chối không tiếp.

[54] Dịch lại bản Louvet, II, t. 502-503.

[55] Cadière, Les français au service de Gia Long, Leurs noms, titres et appellation annamites (Những người Pháp đến giúp Gia Long, Tên, chức và tên Việt), BAVH, 1920, I, t. 144.

[56] Salles, J.B. Chaigneau et sa famille, BAVH, 1923, I, t. 86.

[57] Taboulet, La Geste Française... I, note 3, t. 310.

[58] Dịch theo nguyên cảo, in trong Le Consulat de France à Huế sous la Restauration (Lãnh sự Pháp ở Huế dưới thời Vương Chính Trùng Hưng) của Henri Cordier, t. 39-44.

[59] Instructions pour M. Chaigneau, Agent et Consul de France en Cochinchine, Cordier, Consulat de France à Huế, t. 39- 44.

[60] TL, II, t.131.

[61] Nguyên văn bản tiếng Pháp: Communcation officielle (L.S).

[62] Năm Gia Long mất là năm Gia Khánh thứ 20.

[63] Năm Kỷ Mão trải dài từ tháng 2/1819 đến tháng 2/1820. Chaigneau lên tầu về Pháp lần thứ nhất, ngày 13/11/1819.

[64] Dịch lại bản dịch của J.P. Abel Rémusat, Cordier sưu tầm và in trong Le Consulat de France à Huế, t. 49-52.

[65] Le Consulat de France à Huế, Cordier, t. 52-53.

[66] Nguyên văn: des sombraires (sic) royaux, chúng tôi đoán là chữ sombreffe nghiã là tơ lụa, viết sai.

[67] Cordier, t. 58-59.

[68] Cordier, t. 55-69.

[69] TL, II, t. 388.

[70] Những thư này được ghi lại trong bài Vie, Voyages et Travaux de Pierre Médard Diard (Cuộc đời, các chuyến đi, và công trình của Pierre-Médard Diard) của J.H. Peyssonnaux, in trong BAVH, 1935, I, cả cuốn.

[71] Ý Diard muốn nói Pháp có quyền đòi Minh Mạng phải trả công đã "giúp Gia Long dựng lại ngai vàng"!

[72] Thư Diard gửi M. Cuvier, cuối tháng 10/1821, in lại trong bài Vie, Voyages et travaux de Médard Diard, Peyssonnaux, BAVH, 1935, I, t. 73-76.

[73] Thư Diard gửi M. Cuvier ngày 3/3/1822, Vie, Voyages et travaux de Médard Diard, Peyssonnaux, BAVH, 1935, I, t. 77- 78.

[74] Thư không đề tên người gửi, nhưng giọng của Bộ trưởng ngoại giao, Le Consulat de France à Huế, t. 83-85.

[75] Le Consulat de France à Huế, t. 81, 87 và 104.

[76] Salles, J.B. Chaigneau et sa famille, BAVH, 1923, I, t. 83-87.

[77] TL, I, t. 1001.

[78] Salles, J.B. Chaigneau et sa famille, BAVH, 1923, I, t. 85-86.

[79] Thư Vannier gửi Baroudel ngày 2/8/1821 (Cadière, Doc. Rel, t. 66-68), thư Chaigneau gửi Badourel ngày 25/6/ 1822, t. 72-73, thư Chaigneau gửi La Bissachère ngày 1/11/1823, t. 74-75.

[80] Salles, J.B. Chaigneau et sa famille, BAVH, 1923, I, t. 93-95.

[81] TL, II, t. 373.

[82] Salles, J.B. Chaigneau et sa famille, BAVH, 1923, I, t. 101.

 

Thụy Khuê

 

© Copyright Thuy Khue 2015