Thụy Khuê
Hồ
Hữu Tường (1910-1980)
Hồ Hữu Tường, chính trị gia, nhà văn, nhà báo và là một nhân vật kỳ lạ, sống
70 năm trong thế kỷ XX, trải nhiều vòng tù tội dưới tất cả các chính quyền:
thực dân, quốc gia và cộng sản. Tác phẩm của ông phản ảnh tính chất nổi loạn
trong con người, một con người vừa trào lộng, vừa bi đát, suốt đời đi tìm phương
cách giải phóng dân tộc ra khỏi mọi hình thức quản trị giáo điều: từ bị trị
đến hủ tục, từ độc tôn đến độc tài, nhưng cũng suốt đời "thất bại" trong việc
"chống lại định mệnh", cho đến phút chót vẫn muốn "cưỡng lại số trời" mà không
được. Có lẽ ở bên kia thế giới, Hồ vẫn tiếp tục con đường thiên lý của một Phi
Lạc đã đại náo trần gian: Tây, Tàu, Nga, Mỹ và giờ đây, xuống âm ty đại náo địa
ngục.
Cuộc đời tranh đấu trên hai mặt trận chính trị và văn hóa của Hồ Hữu Tường đầy
tính cách tiểu thuyết chiêu hồi như một truyện Tàu, nhưng cũng lại gắn bó sâu
xa với định mệnh bát nháo của dân tộc Việt Nam trong thế kỷ vừa qua. Hồ Hữu Tường
luôn luôn giữ hai vai: một Tôn Ngộ Không nổi loạn trong Tây Du Ký và một quân
sư du thuyết trong Tam Quốc Chí, khi Khổng Minh, Lỗ Túc, lúc là thằng mõ Cổ
Nhuế, thằng mõ Phù Ninh.... Hành động của nhà chính trị Hồ Hữu Tường và những
người cùng thời biến thành những thế võ tiếu lâm, hài hước trong tiểu thuyết,
hồi ký của nhà văn. Hồ Hữu Tường là tác giả hiếm hoi, trong một xã hội đầy
nghi thức, đã hóa giải những trịnh trọng của chính trị thành chuyện giễu để
hóm hỉnh chọc cười và đó là một trong những lý do khiến không chế độ nào "dung"
Hồ Hữu Tường. Nhưng có lẽ lý do sâu xa nhất vẫn là những gì Hồ Hữu Tường thuyết
minh trong tác phẩm toát ra một chủ nghĩa dân tộc độc đáo, lấy
văn hóa dân tộc làm phương châm và mục đích cấu thành. Hồ Hữu Tường suốt đời
biện hộ cho một Việt Nam trung lập chế, chống chiến tranh. Hồ dùng văn hóa
thay súng ống để giải phóng dân tộc ra khỏi cảnh tối tăm nô lệ. Tranh đấu
chống thực dân bằng ngòi bút của nhà báo, bằng tổ chức thợ thuyền tổng đình
công, muốn đánh đuổi hai chữ "căm hờn" mà ông gọi là ác quỷ ra khỏi tâm hồn người
Việt.
Con đường ông đi không có nhiều đồng hành, bởi tiếng kêu
gọi của ông chỉ là những tiếng kêu trong sa mạc, không ai nghe và cũng ít người
hiểu. Một con người như thế, từ đâu đến và những lý do nào đã thúc đẩy ông có
một nghị lực khác thường triền miên trong hành động đấu tranh cũng như trong
ngòi bút?
Hồ Hữu Tường xuất thân trong một gia đình nghèo, cha mẹ phải làm tá điền cho
người cậu là điền chủ, hội đồng. Tại nhà cậu, sáu tuổi đã đọc Nam Phong. Đọc đâu
nhớ đấy. Cha đặt cho cái tên là thằng Thuộc vì đọc gì cũng thuộc. Bị Nam Phong
"đầu độc", gieo và đầu chất "tân hủ nho" từ nhỏ, sau phải nhờ Phan Văn Hùm "gột
rửa". Lớn hơn chút nữa, đọc và chịu ảnh hưởng tinh thần yêu nước của Đông Pháp
Thời Báo. Tại trung học Cần Thơ, Hồ Hữu Tường và các bạn tổ chức tờ báo "trường"
đầu tiên. Báo tiếng Việt, nhưng Hồ viết bài tham luận bằng tiếng Pháp để "cho
Tây nó đọc", ký tên Pierre Vutren, Vutren là chữ nói lái của Ventru, dịch từ
biệt hiệu Tường Bụng (Tường bụng to). Ký tên như thế là "lậy ông tôi ở bụi này",
thêm việc tổ chức bãi khóa nhân vụ xử Nguyễn An Ninhä, cả nhóm bị đuổi.
Lúc ấy mới 16 tuổi, gia đình cho Hồ Hữu Tường sang Pháp du học, năm 1926. Tại
Pháp, kết bạn với Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm, vào đảng Đệ Tứ Quốc Tế. Bốn năm
sau, 1930, Hồ Hữu Tường ở Lyon đang chuẩn bị thi thạc sĩ toán học thì được tin
cuộc khởi nghĩa Yên Bái thất bại, Nguyễn Thái Học và các đồng chí bị xử tử; Hồ
bỏ học, lên Paris, liên lạc với Phan Văn Hùm, Tạ Thu Thâu, làm báo bí mật lấy
tên là Tiền Quân. Báo chưa ra thì ban biên tập bị bắt vì tổ chức những cuộc
biểu tình, đặc biệt là biểu tình trước điện Elysée, cả bọn bị trục xuất về
Việt Nam, trừ Phan Văn Hùm và Hồ Hữu Tường trốn thoát, chạy sang Bỉ, liên lạc
với nhóm cách mạng cộng sản ở Bỉ, rồi trở lại Paris tiếp tục làm tờ Tiền Quân
trong năm tháng trước khi về nước hoạt động chính trị.
Từ 1931 đến 1939, Hồ Hữu Tường làm lý thuyết gia cho nhóm Đệ Tứ ở Việt Nam, đồng
thời dạy học để sinh sống và điều khiển các tờ báo bí mật như tờ Tháng Mười,
từ 1931 đến 1932, tờ Thường Trực Cách Mạng từ 1934 đến 1937, tờ Quần Chúng từ
1937 đến 1938. Hoặc các tờ báo công khai như Le militant năm 1936, tờ Tháng Mười
năm 1938, tờ Tia Sáng năm 1939 và tham gia tờ La lutte của Nguyễn An Ninh và
Tạ Thu Thâu.
Tháng 11 năm 1932, Hồ Hữu Tường bị Pháp bắt lần đầu, giam 6 tháng. Ngày
1/5/1933 ra tòa bị xử án treo ba năm. Trong thời gian bị giam giữ, ông xuất
bản nhật báo "nhẩm" Thiên Thu. Thiên Thu là "cứu cánh" của tạp chí Tháng Mười
sau này. Trong suốt mười năm làm báo (1930-1939), ông đã viết rất nhiều nhưng
nay không còn lưu lại được gì.
Đầu tháng 6 năm 1939, Hồ Hữu Tường bỏ Đệ Tứ và chủ nghĩa Mác; ngày 29 tháng 9
năm 1939, bị nhà cầm quyền Pháp bắt, cuối năm 40 bị đầy đi Côn Đảo cùng với
Nguyễn An Ninh, Phan Văn Hùm, Tạ Thu Thâu... và những người chống Pháp khác.
Đến cuối năm 1944 mới được trả tự do (Phan Văn Hùm bị phù thũng, Nguyễn An
Ninh mất trong tù ngày 14/8/1943).
*
1945 Nhật đảo chính Pháp. Hồ Hữu Tường ra Hà Nội để sang Tầu nhưng bị kẹt tại
Hà Nội cùng với Tạ Thu Thâu; có đề nghị với Hồ Chí Minh nên để Việt Nam trung
lập nhưng không được chấp nhận. Thời gian này bắt đầu viết Xã hội học
nhập môn, chống lại biện chứng pháp, và một loạt sách chính trị, kinh
tế khác.
1946 Hồ Hữu Tường được mời tham dự hội nghị Đà Lạt với tư cách cố vấn trong
phái đoàn Việt Nam nhưng cũng không phát biểu gì. Kế đó, ông giúp bộ Giáo Dục
Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, thiết lập chương trình soạn và in sách giáo khoa bằng
tiếng Việt cho bậc trung học. Năm 1947 bị Pháp bắt trong lúc tản cư về Kẻ Sặt
(Hải Dương). Rồi ông lại trở về Sài Gòn viết văn, làm báo.
Từ 1948 đến 1949, hợp tác với báo Sài Gòn Mới của bà Bút Trà. Viết tiểu thuyết
Phi Lạc sang Tầu, in dần trên Sài Gòn Mới dưới bút hiệu Ý Dư, đồng
thời viết Thu Hương và Chị Tập.
Mùa xuân năm 1949, sang Pháp vì lý do chính trị. Tại đây, năm 1952, chủ trương
tạp chí Pacific, thử vạch một "đường lối thứ ba" cho các nước Á Phi.
1953, Hồ Hữu Tường về nước, chủù trương nhật báo Phương Đông, đưa ra giải pháp
"Trung lập chế".
1954, với tư cách ký giả, ông sang dự Hội nghị Genève, hết sức vận động cho
giải pháp trung lập Việt Nam nhưng thất bại.
Tháng ba năm 1955, ví có liên lạc với các nhóm trong Mặt Trận Thống Nhất (Cao
Đài, Hòa Hảo, Bình Xuyên), chống lại Ngô Đình Diệm, ông bị bắt ở Rừng Sát. Năm
1957 ra tòa và bị kết án tử hình, nhưng nhờ những trí thức ở Pháp trong đó có
Albert Camus viết thư can thiệp nên án lệnh được đình chỉ và bị đưa ra Côn
Đảo. Sau khi chính quyền Ngô Đình Diệm đổ, Hồ Hữu Tường được trả tự do ngày
31/1/1964. Ra tù, kiệt lực, phải nửa năm sau mới viết lại được. Ông cộng tác
với nhật báo Ánh Sáng, xét lại biện pháp Trung lập chế và đưa ra giải pháp
Siêu lập: đề nghị miền Nam trở nên lãnh thổ của Liên Hiệp Quốc.
1965, cộng tác với tuần báo Hòa Đồng để phát huy nền văn minh tổng hợp: kỹ sư,
chính ủy và tu sĩ. Làm Phó Viện Trưởng Viện Đại Học Vạn Hạnh.
1967 được bầu làm dân biểu trong Hạ Viện Việt Nam Cộng Hòa.
Sau tháng tư năm 1975, bị đi học tập cải tạo 5 năm, được trả tự do, ít lâu sau
mất tại Gia Định ngày 26/6/1980.
*
Hồ Hữu Tường viết nhiều thể loại:
Chính trị, kinh tế, triết học: Xã hội học nhập môn (Minh Đức,
1945), Kinh tế học và kinh tế chánh trị nhập môn (Tân Việt, 1945),
Tương lai kinh tế Việt-nam (Hàn Thuyên, 1945). Phong kiến là gì?
(Minh Đức,1946), Vấn đề dân tộc (Minh Đức,1946), Muốn tìm hiểu
chánh trị (Minh Đức,1946),Tương lai văn hóa Việt-nam (Minh Đức,1946,
Huệ Minh, 1965).
Văn học sử: Lịch sử văn chương Việt-nam (quyển 1) (Lê Lợi,
1950).
Văn phạm: Phép nói và viết hỏi ngã (1950), Em học tiếng mẹ
(1950), Em tập đọc (1951).
Dịch: Tam quốc chí (quyển 1, 1951)
Truyện:
Bộ Một thuở ngàn năm (truyện trào phúng chính trị) gồm có: Phi Lạc
sang Tàu (Sống Chung, 1949), Phi Lạc náo Hoa Kỳ (Vannay, Paris,
1955), Tiểu Phi Lạc náo Sàigòn (Nam Cường, 1966), Diễm Hồng xuất
giá (Nam Cường, 1966).
Bộ Hồn bướm mơ hoa (tiểu thuyết lịch sử xã hội, miền Hậu Giang) gồm 4
tập: Mai Thoại Dung, Tam nhơn đồng hành, Ông thầy Quảng, Bủa lưới người
(Nam Cường, 1966).
Bộ Gái nước Nam làm gì? (tiểu thuyết tranh đấu chống Pháp) gồm Thu
Hương và Chị Tập (Sống Chung, 1949).
Nỗi lòng thằng Hiệp (Lê Lợi, 1949).
Kế thế (tiểu thuyết dã sử) (Huệ Minh, 1964).
Bộ Thuốc trường sanh gồm 3 tập: Xây mộng, Phúc đức và Vẹn
nguyền (Huệ Minh, 1964). Hoa dinh cẩm trận (tiếp theo Thuốc trường
sanh).
Người Mỹ ưu tư (tác giả xuất bản, Paris, 1968)
...
Tiểu luận: Những kỹ thuật căn bản của nghề làm báo (in tại
Paris, 1951, Hòa Đồng, 1965), Trầm tư của một tên tội tử hình (Lá Bối,
1965), Luận lâm I (Huệ Minh, 1965), Nói tại Phú Xuân (những
bài tham luận đọc tại Đại Học Huế) (Huệ Minh, 1965).
Truyện ngắn, tạp văn: Quả trứng thần (1952), Kể chuyện
(Huệ Minh, 1965), Nợ tinh thần (Huệ Minh, 1965).
Tự truyện và hồi ký: Thằng Thuộc con nhà nông (An Tiêm, 1966),
41 năm làm báo (Trí Đăng, Đông Nam Á tái bản tại Paris, 1984), Un
fétu de paille dans la tourmente (Paris, 1969, chưa in).
Sách viết cho nhà Hàn Thuyên, ký tên Nguyễn Huệ Minh (tên vợ), sách viết cho
nhà Tân Việt ký tên Khổng Cưu, cho nhà Minh Đức ký tên Duy Minh, Huấn Chi,
cho nhà Sống Chung ký tên Duy Cúc.
*
Trước khi tìm hiểu tư tưởng và phong cách Hồ Hữu Tường, chúng ta thử nhìn lại
nguồn gốc dòng họ Hồ, như Hồ Hữu Tường đã trình bày qua các tác phẩm và có lẽ
đó cũng là một cách để phân tích những đường hướng chính trong tư tưởng của Hồ
Hữu Tường.
Hồ Hữu Tường sinh ngày mùng 8 tháng 5 năm 1910 tại làng Thường Thạnh, huyện
Cái Răng, tỉnh Cần Thơ. Cha là Hồ Văn Sây, mẹ là Võ Thị Nữ và ông nội là Hồ
Văn Điểu.
Dòng họ Hồ này khi xưa ở đất Nghệ An. Sau khi Hồ Quý Ly thất thế, đầu thế kỷ
XV đã bị xua vào đất Qui Nhơn sinh sống. Đến thế kỷ XVIII, trong họ xuất hiện
ba anh em Nhạc, Huệ, Lữ, nổi lên cầm đầu phong trào Tây Sơn. Khi nhà Tây Sơn
bại liệt, tất cả những người họ Hồ, bà con xa gần với Tây Sơn đều phải lánh
nạn. Tỉnh Qui Nhơn bị Nguyễn Ánh đổi tên thành Bình Định. Sự đổi tên này, đối
với họ Hồ, có nghĩa là một sự trả thù, một sự đàn áp.
Để tránh sự trả thù của nhà Nguyễn, một thanh niên tên là Hồ Văn Phi trốn vào
Nam, lưu lạc đến rạch Cái Răng ở miệt Cần Thơ, lập nghiệp. Vợ chồng Hồ Văn Phi
chưa có con trai, nuôi một đứa nhỏ tên là Điểu mà mẹ nó dường như là một người
trong hoàng tộc nhà Tây Sơn lánh nạn. Khi trao con lại cho Hồ Văn Phi, bà dặn
dò rằng: Cha nó cũng họ Hồ, tôi cho nó cho ông là để nó giữ họ. Khi nó lớn lên,
ông bà dặn nó nên nêu lên hai chữ Kế Thế mà thờ giữa hai chữ
Hồ phủ, và truyền lại mãi mãi với con cháu nó nên làm như vậy.
Chữ Kế Thế rút từ những chữ "Kế thế vi đức, dĩ hữu thiên
hạ", hàm súc cái mộng làm đế vương.
Người con nuôi của Hồ Văn Phi có dòng dõi bí mật, đế vương ấy (dòng Quang
Thiệu), chính là Hồ Văn Điểu và là ông nội của Hồ Hữu Tường. Đó là những điều
mà Hồ Hữu Tường thuật lại về dòng dõi của mình trong cuốn tự truyện Thằng
Thuộc, con nhà nông và tiểu thuyết dã sử Kế thế.
Đúng hay sai là công việc của những nhà nghiên cứu lịch sử. Đối với chúng ta,
người đọc và tìm hiểu Hồ Hữu Tường, thì đây là một trong những yếu tố giải
thích tư tưởng cải tổ chính trị và văn hóa của Hồ Hữu Tường, giải thích chí hướng
tân tạo lại Việt Nam, chấn hưng đạo Bửu Sơn Kỳ Hương, một đạo do con
cháu nhà Tây Sơn dựng nên, sau này hưng vượng trong tinh thần đạo Hòa Hảo (có
lẽ đó là lý do khiến Hồ Hữu Tường có cảm tình với tướng Ba Cụt và đạo Hòa
Hảo, và cộng tác với nhóm Mặt Trận Thống Nhất, chống lại Ngô Đình Diệm),
và nhất là quyết tâm tái lập tinh thần Minh Đạo mà Hồ Quý Ly đã xướng
lên từ thế kỷ XIV, để xây dựng một con đường văn hóa Việt Nam, một hệ tư
tưởng Việt Nam không lệ thuộc ngoại bang, phù hợp với một nước Việt độc
lập và tân tiến.
*
Tâm tư Hồ Hữu Tường dường như chia làm hai nhánh: nhánh vọng Tây Sơn và nhánh
hướng nhà Hồ. Cả hai tạo nên một hệ "bàng thống" giao thoa hai vua Quý Ly và
Quang Trung, cùng một dòng họ. Hệ bàng thống này, độc lập với chính quyền
trung ương, tạo thế chân vạc, muốn đứng lên chấn hưng đất nước, theo một đường
lối thứ ba, từ một miền đất mới: miền Hậu Giang.
Vọng Tây Sơn, giữ nguồn gốc nông dân nổi dậy, chống sự đàn áp của thực dân và
phong kiến, nhưng khác với cách mạng cộng sản, dựa vào đấu tranh giai cấp và
duy vật sử quan, Hồ Hữu Tường muốn bảo tồn một truyền thống tâm linh dân tộc,
phát xuất từ miền Hậu Giang, thờ hai bà Chúa Tiên và Chúa Ngọc. Chúa Tiên tương
truyền là Ngọc Hân công chúa và Chúa Ngọc là Ngọc Mân, em sinh đôi của Ngọc
Hân. Những truyền thuyết này được Hồ kể lại trong tiểu thuyết dã sử Kế
thế, theo lời kể của một nhân vật bí mật là ông Thầy Quảng (gốc gác từ
Quảng Nam). Thầy Quảng trong bộ tiểu thuyết Hồn bướm mơ hoa, là
một lãnh tụ chính trị, đội lốt thầy bói và đạo sư, truyền bá đạo Bửu Hương Kỳ
Sơn (thờ hai bà chúa), chủ trương cải cách đạo Phật, chấn hưng nhà Tây Sơn, cổ
động cho những thuyết "Minh Đạo tái sanh", "Thiên địa tân tạo", "Việt Nam phục
nghiệp". Tất cả những sứ mệnh này xác định hướng thứ nhì: vọng nhà Hồ, tiếp
tục con đường mà Hồ Quý Ly đã mở ra từ thế kỷ XIV về việc canh tân đất nước
trên toàn diện chính trị, văn hóa và xã hội.
Xin nhắc lại, từ cuối thế kỷ XIV, Hồ Quý Ly đã áp dụng những chính sách:
- Dùng chữ Nôm thay chữ Hán để chấn hưng quốc học. Dịch các kinh sách chữ
Hán sang chữ Nôm.
- Soạn 14 thiên Minh Đạo, nội dung phê phán Nho giáo một cách có hệ thống,
đặt Chu Công lên trên Khổng Tử; phê bình Khổng Tử, nêu bốn điểm đáng ngờ
trong Luận Ngữ; chỉ trích Hàn Dũ, Trình, Chu... là những bậc hủ nho; ca ngợi
vua Trần Minh Tông không chịu rập theo khuôn mẫu lễ giáo của người Tầu.
- Về mặt xã hội, Hồ Quý Ly lập nhà thương, làm lại sổ hộ tịch, định lại thuế
khóa, thống nhất đo lường, phát hành tiền giấy, cải cách ruộng đất, v.v...
Ngoài ra Hồ Quý Ly còn là một nhà thơ chữ Nôm và chữ Hán, kiêm dịch giả.
Nối tiếp và giao thoa con đường của hai tiền nhân Quý Ly và Quang Trung trong
tinh thần độc lập đối với ngoại bang, từ chính trị, xã hội, đến văn hóa, dường
như đó là điều mà Hồ Hữu Tường muốn thực hiện qua hành động và tác phẩm.
*
Suốt đời vào tù ra khám, Hồ Hữu Tường là khuôn mặt trí thức độc đáo của Việt
Nam trong thế kỷ XX: một trí thức hành động. Là nhà chính trị, nhưng biết lợi
khí của văn hóa, ông luôn luôn tuyên bố: "Tôi là kẻ
dụng văn, chớ không phải nhà văn." Lời tuyên bố có vẻ khiêm tốn này
nói lên tính chất minh họa tư tưởng trong các tác phẩm của Hồ Hữu Tường. Là
một tác giả đa năng, đa dạng, ông viết nhiều thể loại, nhưng thành công nhất ở
những tiểu luận, tham luận, tự thuật, truyện ngắn và tiểu thuyết trào phúng.
Cuộc đời và sáng tác của ông trải nhiều giai đoạn.
Từ 1930 đến 1939, theo Đệ Tứ và chủ nghĩa Mác-Lê, thời kỳ mà sau này ông gọi
là "sự căm hờn dẫn đi lạc lối trong 9 năm", viết rất nhiều báo nhưng không
lưu lại được gì, có thể vì đó là thời kỳ còn lập luận theo duy vật biện
chứng, nên sau này ông không cho in lại. Nhưng đối với những nhà nghiên cứu,
tìm lại những bài viết của Hồ Hữu Tường trong thời kỳ "Đệ Tứ", cũng là một điều
cần thiết.
Thời kỳ 39-44: Giữa 1939 bỏ Đệ Tứ và Mác-Lê, rồi bị Pháp bắt tới cuối 1944.
Đó là thời kỳ Côn Đảo lần thứ nhất. Trong năm năm ở tù, Hồ Hữu Tường đã hình
thành một hệ thống tư tưởng mới: chủ nghĩa dân tộc, không lệ
thuộc Tây, Tàu, Nga, Mỹ.
45-46: thời kỳ lập thuyết mới. Từ 1945, khi ra Hà Nội, Hồ Hữu Tường viết
những tác phẩm đầu tiên Xã hội học nhập môn, Kinh tế học vàø chính trị
nhập môn, Tương lai kinh tế Việt Nam, Vấn đề dân tộc, Tương lai văn hóa Việt
Nam... theo con đường tư tưởng mới.
Từ 1948 trở đi, bắt đầu sáng tác tiểu thuyết: Phi Lạc sang Tầu, Thu
Hương, Chị Tập ... Ngay cả thời kỳ Côn Đảo lần thứ nhì (57-64), ông
vẫn tiếp tục sáng tác nhưng cũng bị mối cắn, nhiều tập phải viết lại. Những
tác phẩm như Kế thế, Hồn bướm mơ hoa, Trầm tư của một tên tội tử hình,
Thuốc trường sanh ... đều viết tại Côn Sơn và phát hành sau khi được
trả tự do.
Trong bài tựa cuốn Luận lâm I, Hồ Hữu Tường viết:
"Tôi bước vào mê ly đồ của chủ nghĩa Mác-Lê đầu
tháng 6 năm 1930. Tôi bước chân ra ngoài cái mê ly đồ ấy vào đầu tháng 6 năm
1939. [...] Trong 9 năm này, những bài luận của tôi viết thảy đều lập trên
nền tảng của duy vật luận biện chứng pháp.
Từ tháng 6 năm 1939 đến tháng 6 năm 1945, ngoài những bức thơ ngắn cho gia đình,
tôi không có viết gì khác. Đến Hà Nội vào đầu tháng 6 năm 1945, tôi đã sắp
dàn bài cho quyển Xã hội học nhập môn mà tôi viết xong khi khởi đầu tháng
11. Từ hai mươi năm nay, tôi chưa trước tác được tài liệu nào vững chắc và
khoa học để đả kích chủ nghĩa của Marx, hơn tập sách nhỏ này. Cả phương pháp
biện chứng và duy vật sử quan đều bị "lật vích", nền tảng triết lý và cơ sở
xã hội học của Marx đều bị lật ngược, thế mà kiểm duyệt Việt Minh đọc không
hiểu nên chẳng bôi chữ nào.
Từ ấy, phương pháp biện luận của tôi không còn là biện chứng pháp nữa. Trong
năm năm nằm ở Côn Đảo, trong những ngày tàn của chế độ thực dân, tôi đã suy
tư tìm thấy và thường nói với Nguyễn An Ninh rằng duy vật luận của Marx hóa
ra siêu hình, chánh là do Marx đội cho nó cái lốt của biện chứng pháp [...].
Năm năm tù dưới chế độ thực dân đã giúp cho tôi "cai" biện chứng pháp, cũng
như người nghiện cai thuốc phiện.
Và, rời bỏ tư duy siêu hình của biện chứng pháp, tôi trở về với tư thái khoa
học [...] Khoa học, bao giờ cũng cho phép ngoại suy để mở rộng phạm vi hữu
hiệu của mình. Nhưng bao giờ những cuộc ngoại suy nầy phải phê phán cho chặt
chẽ, kẻo bị lầm. Nói theo một danh từ mới xuất hiện, mà đã tràn lan khắp
nơi, là cần phải "xét lại". Thế mà, biện chứng pháp, tin tưởng như là một
giáo điều, không cho tín đồ của chủ nghĩa Marx "xét lại"." (trích
bài Tựa cuốn Luận lâm I do Huệ Minh xuất bản năm
1965, tại Sài Gòn). Tiếc rằng hiện nay chúng tôi chưa tìm được cuốn Xã
hội học nhập môn để trình bầy những lập luận chống Marx xủa Hồ Hữu
Tường.
Sách in những năm 45-46 phần lớn ký tên Duy Minh. Với bút hiệu Duy Minh, Hồ
Hữu Tường muốn nói lên sự lựa chọn: không nhận cái Tâm trong duy tâm
chủ quan của triết học Hegel, cũng không nhận cái Vật "vô tri vô giác"
trong cái duy vật của triết học Các-Mác, mà chọn Duy Minh, bởi vì có duy minh
thì mới đến được cái giác của nhà Phật. Hồ Hữu Tường chủ trương: muốn
cải thiện đời sống -bởi vì chỉ có sống là quan trọng nhất- thì con người phải
tổng hợp cả ba nền văn minh lớn: kỹ sư, chính ủy và tu sĩ, nói cách khác:
khoa học, triết học và tôn giáo thành một thể toàn
bích thì mới mong đạt tới thiên đường hạnh phúc. Tôn giáo ở đây là Đạo
Phật đổi mới. Sự cách tân đạo Phật có trong tinh thần đạo Bửu Sơn Kỳ
Hương và đạo Hòa Hảo sau này, và có lẽ đó cũng là tinh thần "Hậu Giang" mà Hồ
Hữu Tường là một trong những người đề cao và cổ động.
*
Trở về với tác phẩm chủ yếu đầu tiên của Hồ Hữu Tường, cuốn Tương lai
văn hóa Việt Nam do Minh Đức in, ký tên Duy Minh, cuốn sách đắc ý nhất
của ông, một bản tuyên ngôn tư tưởng của nhà chính trị và nhà văn hóa, trình
bày con đường tư tưởng mới: lấy văn hóa dân tộc thay thế cho tất cả các ý thức
hệ. Tư tưởng sau này sẽ được đào sâu và phát triển trong toàn bộ tác phẩm của
tác giả.
Sách in năm 1946, 500 quyển, những bản quý in trên giấy "sắc thần" chế tạo
riêng tại làng Bưởi, bìa do Tô Ngọc Vân vẽ. Sau này được in lại nhiều lần nhưng
đã bị cắt bỏ, trừ bản chính của nhà Minh Đức và bản in trên tuần báo Sanh Hoạt
(Sài Gòn) của Phạm Mậu Quân là đầy đủ. Đây là một tập văn xuôi, có giọng trầm
bổng như thơ, một tập "thơ tư tưởng", lời lẽ thống thiết. Hồ Hữu Tường viết:
"Tôi muốn cất tiếng mà kêu to. Kêu thật to để ai
nấy cùng nghe. Tôi muốn có một giọng tha thiết. Thực tha thiết để ai nấy
cùng cảm. Tôi muốn có những luận điệu đanh thép. Thực đanh thép để ai nấy
cùng tin. Nghe, cảm, tin,... để cùng tôi đem một cái vinh quang chưa hề có
trên quả địa cầu về cho dân tộc ta, dân tộc Việt" (trích
Tương lai văn hóa Việt Nam, in lần thứ ba, Huệ Minh, Sài Gòn, 1965).
Đó là Tiếng gọi đàn của Hồ Hữu Tường năm 1945. Ngay lúc ấy ông đã biết
rõ rằng "dù có thét to đến bực nào, dù có một giọng
tha thiết như thế nào, dù có những luận điệu đanh thép cách nào, tiếng gọi đàn
của tôi cũng sẽ là tiếng kêu trong sa mạc" (sđd, trang 12).
Biết là kêu trong sa mạc nhưng vẫn kêu. Biết gọi không ai nghe nhưng vẫn gọi.
Tâm sự bi thiết ấy đã đeo đẳng Hồ Hữu Tường suốt đời như một thân phận con người,
như một số phận dân tộc.
Nhưng Tương lai văn hóa Việt Nam không chỉ dừng lại ở mức kêu
gào mà mang một nội dung suy tưởng sâu sắc. Trước hết Hồ Hữu Tường định nghĩa
thế nào là văn hóa: "Văn, trong nghĩa cầu
nguyên của nó, là đẹp đẽ, là hiền lành, trái với võ, là hung bạo. Hóa,
trong nghĩa cầu nguyên của nó là thay đổi. Hai chữ đó mà ghép lại, thì tôi cho
rằng đó là cái gì làm cho người ngày càng cao quý hơn, đẹp đẽ hơn, làm cho người
(hạ tiện, xấu xa) hóa ra Người (cao quý, đẹp đẽ)" (trang 6).
Tóm lại cái làm cho người trở nên Người là
văn hóa: "Tôi vẫn muốn rèn, luyện, uốn, nắn, hun đúc
tôi, cho tôi ngày nay đẹp đẽ hơn ngày hôm qua, cho tôi ngày mai càng đẹp hơn
tôi ngày nay, để rồi bây giờ tôi là "người" dần dần theo đuổi "Người""
(sđd, trang 18)
Người đọc có thể tìm thấy ở "cái tôi ngày hôm nay phải hơn cái tôi ngày hôm
qua", một ảnh hưởng xa gần nào đó của Nietzsche. Chữ Người viết hoa của
Hồ Hữu Tường có những yếu tố tương đương với siêu nhân (surhomme) của
Nietzsche (chính Hồ Hữu Tường cho biết Nguyễn An Ninh là người Việt Nam đầu
tiên đọc Nietzsche và rất thích). Nhưng Hồ đi theo một hướng khác: ông muốn
hành trình người (tầm thường) nên Người (cao cả) trở thành lộ trình bình thường
của mỗi người Việt Nam, và đó là tương lai văn hóa dân tộc. Tại sao như vậy?
Ông giải thích: bởi mọi ý thức hệ, khi mới thành lập, đều có thể giúp ích cho
xã hội tiến bộ. Nhưng khi nó không còn thích hợp với điều kiện sống cụ thể nữa,
thì cái xác nó, chướng ngại vật phản tiến hóa, là lực lượng phản động, là một
tai họa cho nhân loại. Khi đã biết được luật sống thừa của các ý thức hệ, bạn
hãy cố gắng xây đắp một nền văn hóa Việt Nam, dựa trên nguyên tắc biến đổi,
ngày hôm nay phải đẹp hơn hôm qua, và như vậy bạn sẽ thoát ra được sức chi
phối của các ý thức hệ sống thừa (trang 20). Đó là tinh thần chủ yếu trong tư
tưởng Hồ Hữu Tường.
*
Tinh thần này xuất hiện năm 45-46, khi phần đông người Việt chưa biết Hồ Chí
Minh là ai, và phần đông thế giới chưa biết cộng sản là gì. Hồ Hữu Tường đã đi
trước thời đại, vượt qua những người đồng thời để sớm nhận ra ngõ cụt của
những ý thức hệ, trong số đó có chủ nghĩa cộng sản. Lập luận của ông trong tập
sách nhỏ này cho thấy một dân tộc như Việt Nam, muốn
tìm con đường sống đầy đủ ý nghĩa trong thời kỳ phi cơ, bom nguyên tử và độc
quyền đế quốc này, thì dân tộc Việt Nam phải chọn một kế hoạch văn hóa
(trang32), phải tạo ra một nền văn hóa rực rỡ: văn hóa Việt Nam phải làm cho người trở nên Người (trang 37-38). Ông viết:
"Hiện nay, bạn thấy Tây phương đắc thắng, chiếm địa
vị tối thượng, hãnh diện với thế giới. Về quân sự, về kinh tế, về chính trị,
Tây phương là tất cả. Bạn cho Tây phương là cái gương duy nhất, rồi bạn toan
nêu cái "văn hóa" Tây phương làm văn hóa Việt Nam.
Tôi van bạn. Tôi ước mong bạn xây đắp riêng cho Việt Nam một nền văn hóa rực
rỡ, để trình trước Đại hội đồng nhân loại làm sự nghiệp của mình."
(trang 39)
"Sứ mạng của bạn là sứ mạng sáng tác." (trang48)
Tìm một đường đi, không theo Đông, không theo Tây, mà chọn lọc vàø kết nạp
những tinh hoa của cả Đông lẫnTây trên con đường sáng tạo của mình: văn hóa
Việt Nam là do người Việt Nam sáng tác và xây đắp nên, nó làm cho người Việt
Nam trở nên Người. Cái hành trình đó là hành
trình văn hóa chúng ta chưa biết nó thế nào, bởi mỗi ngày nó một
thay đổi.
Hồ Hữu Tường đã tìm ra cách thúc đẩy hành động sáng tạo, nói lên tính cách
biến hóa của sáng tạo, đồng thời coi sáng tạo như một sứ mạng của con người.
Một định nghĩa vừa trừu tượng, vừa cụ thể: Con đường sáng tạo là con đường văn
hóa. Nó khiến con người từ vị thế tầm thường, kém cỏi, trở nên Người (văn hóa).
Một sự hướng thượng mà nhân loại chưa làm được. Từ đó, Hồ bảo rằng phương Tây
chưa có văn hóa, bởi tất cả những gì họ sản xuất ra trong văn chương, nghệ
thuật, triết học, khoa học... đã bị cái mà ông gọi là "quái hóa" khuất phục.
Chính cái quái hóa này đã biến đổi những tư tưởng đẹp đẽ như "Tự do, bình đẳng, bác ái", thành phương tiện, thành
khí giới để chinh phục. Quái hóa đã xui khoa học chế ra đại bác, chiến xa, tầu
chiến, phi cơ, hơi ngạt, vi trùng, bom nguyên tử để giết người, để chinh phục
kẻ yếu, để đè nén, áp bức, dày xéo chúng ta" (trang 42)
Văn hóa làm cho con người trở nên Người.
Quái hóa biến văn chương, nghệ thuật, triết học, khoa học... thành phương tiện.
Bởi nó không đi theo con đường nhân bản.
Còn mượn Đạo học của Đông phương ư? Nhưng ở Đông phương
chỉ có những thuật tu dưỡng, chớ đã có văn hóa bao giờ? (trang 48)
Cho nên ta không thể bắt chước Đông hoặc Tây, để làm văn hóa, mà phải tạo văn
hóa bằng sáng tạo, làm cho người Việt Nam trở nên Người.
Nó là cuộc vận dụng thường xuyên của tinh thần, không phút nào ngừng, không
khi nào nghỉ (trang 55), văn hóa (phải)
làm sao cho cái chân, cái thiện, cái mỹ, thấm nhuần lý trí, tình cảm, bản năng,
cơ thể mọi người, của mọi chế độ, của mọi tương quan xã hội. (trang
54-55)
"Lương tri sẽ là sản phẩm của người. Nó có nguồn gốc ở người. Nó là một vật
nhân bản." (trang 56)
"Khoa học, văn chương, triết học, nghệ thuật, luân lý, tôn giáo... là những
ngành của cây sinh hoạt. Còn văn hóa là nhựa sống trong thân cây, trong các
ngành, các lá" (trang 57)
*
Khi cho rằng Tây phương đã biến những thành tích của văn hóa như văn chương,
triết học, khoa học... thành những phương tiện để chinh phục và đàn áp, Hồ Hữu
Tường có thái quá chăng? Hẳn là không. Ông chỉ muốn minh họa một thực tế hiển
nhiên: Hitler, Staline đã trưng dụng khoa học để làm vũ khí, cũng như Hitler
đã trưng dụng tư tưởng surhomme của Nietzsche và Staline đã sử dụng triết học
Các-Mác trong các chiến dịch thanh trừng và tiêu diệt đồng loại.
Ngày nay, trong tình thế mới, người ta cũng có thể đặt câu hỏi: đệ nhất cường
quốc Hoa Kỳ có đang dùng khoa học (bom đạn) như một phương tiện để "san định"
thiên hạ theo đúng quan niệm "dân chủ" và "bình đẳng" của Hoa Kỳ?
Điểm cực đoan và cũng gây sốc mạnh trong Tương lai văn hóa Việt Nam
là "Tây phương và Đông phương chưa có văn hóa". Nhưng đó chính là điểm độc đáo
trong tư tưởng Hồ Hữu Tường: ông coi văn hóa không phải là những thành
quả đã gặt hái được trong các lãnh vực văn chương, khoa học, nghệ thuật, triết
học, mà là một trạng thái động, là một thái độ, một phong cách: Con người thường
trực sống trong suy tưởng để tiến tới chân thiện mỹ. Và một con người như thế
là con người văn hóa.
"Văn hóa" như vậy rất gần với hành trình tiến đến cõi niết bàn của nhà
Phật, tìm đến đỉnh cao của con người. Nhưng đạo Phật tìm sự xuất thế, giải
thoát cho chính mình, Hồ Hữu Tường tìm sự nhập thế: tiến đến chân thiện mỹ
trong hành động để phụng sự xã hội, con người; và đó là lý do cần phải "cải tiến"
đạo Phật, đi từ sự tu thân (Đông phương) để tiến tới sự nhập thế hành động,
thay đổi diện mạo nhân loại.
*
Con đường tư tưởng
Tiếp tục con đường tư tưởng đã vạch ra trong Tương lai văn hóa Việt Nam,
những bài tiểu luận hoặc tham luận đến sau, đào sâu và mở rộng thêm đường hướng
nhân văn và dân tộc của Hồ Hữu Tường.
Trong cuốn Luận lâm I (Huệ Minh, 1965), ông chọn 9 bài viết
trong khoảng 1948 đến 1964, mỗi bài một chủ đề khác nhau (văn hóa, chính trị,
kinh tế, tư tưởng) mà ông cho rằng "biện chứng pháp không thể áp dụng được".
Luận lâm (tuy đề Luận lâm I, nhưng chỉ ra có một
quyển) đưa ra những đề tài có thể gây tranh luận, với chủ đích đẩy sự nghiên
cứu và suy tưởng đi xa hơn.
Trước hết với đề nghị "Tìm (lại) nguồn gốc của dân tộc Việt Nam". Hồ
Hữu Tường cho rằng không có một thứ chủng tộc nào là thuần túy. Người Việt, là
sự hòa đồng hai mặt: thổ dân sống trên giải đất này kết hợp với các sự chinh
phục đến từ nơi khác. Bắc do Lạc Việt, Trung do Chàm (Chăm) và Nam do Miên
(Khmer) đến chinh phục rồi lần lần bị đồng hóa. Giai đoạn kế tiếp là sự thống
nhất theo lối phong kiến: người Việt (ở Bắc) tiêu hủy quốc gia Chàm (Trung) và
đồng hóa người Chàm, chiếm Chân Lạp và đồng hóa người Khmer. Nền văn hóa Việt
cao hơn hai nền văn hóa Chàm và Khmer nên tồn tại nhưng vẫn chứa đầy ảnh hưởng
của hai nền văn minh này trong ngôn ngữ, âm nhạc, tư tưởng.
Về tư tưởng, người phương Bắc (Trung Hoa) chú trọng đến cảm giác chủ quan: Khi
nhìn con ngựa, họ thấy mầu trắng trước, cho nên họ nói bạch mã, cũng như
ngã phụ (tôi cha) (cái tôi đi trước). Tư tưởng Việt Nam (thuộc người phương
Nam), gần gũi với Miến Điện, Xiêm, Mên, Chàm... mang tính phân tích và đi từ
khách quan đến chủ quan, cho nên nói ngựa trắng, cha tôi v.v...
Về ngôn ngữ, Hồ Hữu Tường không nhận tiếng Việt hoàn toàn đơn âm, mà cho rằng
những tiếng mượn từ chữ Hán thường đơn âm, còn những tiếng thuần Việt như éo
le, oái oăm, lim dim... không thể bảo là đơn âm được.
Về âm nhạc, những điệu hò Huế, những bài vọng cổ chứng thực hiện tượng hòa hợp
văn hóa Việt-Chàm, Việt-Miên. Tóm lại, theo Hồ Hữu Tường, muốn "tìm nguồn gốc
dân tộc Việt Nam" trước hết phải chấp nhận những tiền đề:
- Gốc thổ dân sống trên giải đất này;
- Bãi bỏ thuyết chủng tộc và công nhận thuyết hợp chủng và đồng hóa;
- Nền văn hóa cao nhất trong các dân tộc hợp chủng sẽ sống còn;
- Lịch sử Việt Nam không phải là lịch sử của một cuộc Nam tiến mà là sự thống
nhất theo đường lối phong kiến;
- Tư tưởng Việt (thuộc phương Nam) khác với tư tưởng Trung Hoa (thuộc phương
Bắc).
Vẫn trong chiều hướng cổ võ cho sự thay đổi quan điểm suy tưởng và nghiên cứu,
trong bài "Đầu năm, nhắc một món ăn trân mỹ" (Luận lâm), phê bình hai
bộ văn học sử Việt Nam cổ văn học sử của Nguyễn Đổng Chi và
Việt Nam văn học sử của Dương Quảng Hàm, Hồ Hữu Tường cho rằng quan
niệm văn học sử của hai nhà nghiên cứu này đã lỗi thời và đề nghị một hướng
mới: Theo ông, văn học sử Việt Nam là văn học sử viết bằng tiếng Việt, cho nên
phải loại các tác giả viết chữ Hán, chữ Pháp ra ngoài, chỉ khảo cứu những tác
phẩm:
- văn chương bình dân, ca dao, tục ngữ...
- văn chương chữ Nôm,
- văn chương chữ quốc ngữ
và phụ thêm có thể đưa ra bộ Việt Nam tư tưởng sử để khảo cứu
xem người Việt đã phát biểu tư tưởng của mình bằng tiếng Việt, tiếng Tầu, tiếng
Pháp, tiếng Anh như thế nào.
Ngoài ra ông còn đề nghị phải tìm hiểu thêm hai thời kỳ văn chương nhà Hồ và
văn chương đời Tây Sơn (nhóm Hồng Sơn văn phái, ngoài Nguyễn Du và truyện Kiều,
còn để lại bản dịch sáu bộ tài tử của Tàu ra lục bát mà Hoàng Xuân Hãn đã nhắc
tới, nay chưa tìm ra) mà chữ Nôm đã có một chỗ đứng quan trọng.
Đề nghị này của Hồ Hữu Tường, có hai ý nghĩa: trở về với văn hóa dân tộc và
đẩy xa việc nghiên cứu quốc âm. Nhưng việc ứng xử với nền văn học chữ Hán là
một vấn đề phức tạp.
Nếu dựa theo cách viết văn học sử trên thế giới nói chung, và Pháp, nói riêng
là đúng. Nhưng Việt Nam có một lịch sử và lịch sử văn học không giống những
dân tộc khác: Nếu những quốc gia khác từ thời lập quốc không bị đô hộ (lâu dài)
hoặc không đổi ngữ tự, thì ngược lại, Việt Nam vừa bị đô hộ, vừa đổi ngữ tự.
Thời kỳ văn học chữ Hán là kết quả 1000 năm đô hộ của Tàu. Người Việt "bắt
buộc" phải diễn tả tư tưởng của mình bằng Hán tự. Vì không có chữ viết hoặc
nếu có, cũng không thể phát triển được. Sự đô hộ đã ảnh hưởng lâu dài đến
những thế hệ sau: chữ Hán trở thành chữ thi cử, "quốc tự", chữ "thánh hiền".
Do đó, chữ Hán trong nhiều thế kỷ là chữ viết để chuyên chở nội dung ý nghĩ,
tư tưởng Việt Nam. Vấn đề đặt ra ở đây là: Chữ viết là chính hay ý nghĩ là
chính? Hiển nhiên là cả hai, bởi chữ viết chuyên chở văn phong lẫn tư tưởng.
Viết văn Tàu, văn Pháp phải tuân theo quy luật của Hán văn, Pháp văn, hoàn
toàn khác với văn phong Việt Nam. Tóm lại, một áng văn chương chữ Hán, chữ
Pháp, do người Việt (thấm nhuần văn hóa Việt và có tâm hồn Việt) viết, thường
là sự kết hợp hài hòa giữa hai nền văn hóa Hán-Việt, Pháp-Việt, tạo nên một
tác phẩm "lai" và có chỗ đứng trong cả hai nền văn hóa gốc.
Mở rộng thêm vấn đề về trường hợp của những người Việt sống ở nước ngoài, một
người (quốc tịch) Pháp hoặc Mỹ, gốc Việt, viết văn bằng tiếng Pháp, tiếng Anh,
nên xếp vào văn học sử Pháp, Mỹ hay văn học sử Việt? Trong trường hợp này,
"bản chất" của tác phẩm cung cấp nhiều thông tin hơn quốc tịch của tác giả. Ví
dụ, Linda Lê, dù là gốc Việt, nhưng khó tìm thấy dấu ấn (văn hóa và tâm hồn)
Việt, trong tác phẩm của chị; ngược lại, Phạm Duy Khiêm, Nguyễn Tiến Lãng, dù
viết tiếng Pháp nhưng tác phẩm của họ thấm đậm tâm hồn và tâm thức Việt Nam.
Cho nên vấn đề Hồ Hữu Tường đặt ra chỉ nên xem là một cách thúc đẩy mọi người
khai triển và tìm kiếm những hướng đi khác trong cách viết văn học sử, đặc
biệt nên chú ý đến những mảng văn chương bị các chính thể khai trừ,
thậm chí tiêu diệt, và đó là điều thường trực xẩy ra ở mọi nơi, mọi thời.
Bài "Tìm một ý thức hệ cho thời đại" trong Luận lâm và
bài "Cái nghiệp tiên thiên" trong "Trầm tư của một tên tội tử
hình" (Lá Bối, Huế, 1965), phát triển tư tưởng Minh đạo đưa ra
giải pháp: Canh tân đạo Phật, làm sao cho đạo Phật từ xu hướng tu thân, xuất
thế, giải thoát cái khổ cá nhân, trở nên một Minh đạo, nhập thế, tìm giải pháp
cho cái khổ tập thể của con người thời đại, chìm trong áp bức và chiến tranh.
"Có lẽ hồi thời của Phật, kinh tế còn là tự nhiên,
con người ít bị đớn đau mỗi ngày vì bị bóc lột, chính trị còn là đơn sơ, thần
dân ít bị khổ sở vì thiếu sự tổ chức xã hội; nên khi nhìn nhận cái khổ, Người
chỉ thấy rõ có sinh, lão, bệnh, tử [...] Cái khổ này là cái khổ cá nhân, thì
tìm sự giải thoát bằng phương pháp cá nhân là một việc giải thích được. Nhưng
loài người càng phát triển, liên hệ xã hội càng phức hóa, thì một cái khổ khác
tràn lên, cái khổ tập thể bởi sự tổ chức xã hội không thay đổi kịp để mãi
thích ứng cho sự tiến triển nầy." (Tìm một ý thức hệ cho thời
đại, Luận lâm, nxb. Huệ Minh, 1965, trang 57)
"Đạo Phật, và chỗ nầy nó khác hơn các tôn giáo khác,
là một sự tu luyện, theo nghĩa tầm nguyên của danh từ này: tu là làm cho càng
tốt đẹp thêm mãi, luyện là làm cho tinh ròng thêm mãi. Phật tử tu luyện để làm
cho lý trí càng thuần thục hơn hầu đến cái giác. Nếu sự tu luyện ấy dùng để dự
bị vấn đề, chuẩn bị các điều kiện, vạch lối trước bằng trực giác hay thị kiến
cho các sự giải đáp các vấn đề này, thì tôn giáo sẽ là hướng đạo cho đại đội
quân của khoa học. Chừng ấy Niết bàn sẽ không còn là một cái chứa không có gì
đựng ở trong và chỗ nhắm của các vị bồ tát (tự giác nhi giác tha) mới đạt được."
(trích Cái nghiệp tiên thiên, trong Trầm tư của một tên tội tử hình,
trang 36-37, Lá Bối, 1965)
Nếu trong quá khứ ảnh hưởng đạo Phật thời nhà Lý đã đem đến các vị vua nhân từ
như Thái Tông, Thánh Tông, Thần Tông... và đưa nước Việt đến một thời kỳ phát
triển cực thịnh, thì ở đây, trong lý thuyết Minh đạo mới này, Hồ Hữu Tường dường
như muốn mở rộng tính chất đạo trị hơn, muốn tâm thức thiền sư đi vào lòng người,
qua phương pháp giáo dục, một cách "trồng người" mới, để tất cả đều có phương
tiện đi tới bến giác ngay trong cuộc sống, tạo ra một cõi niết bàn tại thế.
Vai trò của một Maitreya - Di Lặc thời nay -thời mạt pháp- là phải tạo ra một
nền văn minh tu sĩ, tức là đem đạo đức tôn giáo vào đời sống chính trị. Tôn
giáo phải đồng nhất với chính trị để tạo ra những con người nói chung, và
người cầm quyền, nói riêng, có đạo đức, thấm nhuần lòng từ bi, bác ái, thâm
hiểu ý niệm bình đẳng và tự do. Tóm lại, sự đào tạo con người trong tinh thần
Minh đạo tổng hợp bốn nền móng cơ bản: tôn giáo, triết học, khoa học và
chính trị. Ở đây, Hồ Hữu Tường lấy lại hai chữ Minh đạo của Hồ Quý Ly
để đưa ra một nội dung tư tưởng mới.
Vấn đề đạo đức tôn giáo nói chung và đạo đức nhà Phật nói riêng, ngày nay cũng
đang thịnh hành ở Tây phương, đạo Phật phát triển rất mạnh ở Pháp. Dường như
trong một thế giới "võ trị" như ngày nay, sự trở về với đạo đức, niềm tin, là
một điều kiện cần thiết và lý thuyết Minh đạo mà Hồ Hữu Tường đề nghị
cách đây hơn nửa thế kỷ vẫn còn rất hợp thời.
Lập thuyết Minh đạo đánh dấu giai đoạn chuyển biến tư tưởng thứ nhì của
Hồ Hữu Tường. Trong năm năm tù Côn Sơn lần thứ nhất, dưới thời Pháp thuộc, Hồ
Hữu Tường đã "trầm tư" ra chủ thuyết dân tộc để thay thế chủ nghĩa
Mác-Lê. Ở Côn Đảo lần thứ nhì, dưới thời Ngô Đình Diệm, kẻ bị kết án tử hình
"trầm tư" ra chủ thuyết Minh đạo: Tổng hợp chủ nghĩa xã hội và đạo Phật.
Và đó là điều mâu thuẫn lớn lao trong tư tưởng Hồ Hữu Tường: suốt đời đánh đổ
những ý thức hệ, và suốt đời lập thuyết. Nhưng chính điểm mâu thuẫn ấy là đức
tính lớn lao của ông, tạo dựng tư cách độc đáo của một nhà văn, nhà chính trị
và nhà tư tưởng, bộc lộ tính chất hành động trong tư tưởng Hồ Hữu Tường.
Cuốn Nói tại Phú Xuân (Huệ Minh, Sài Gòn, 1965) tập hợp những
bài tham luận đọc tại Huế trước cử tọa thanh niên, Hồ Hữu Tường phân tích tất
cả những nhược điểm trong ngành giáo dục của ta, thiếu sách vở, thiếu thày
..., và ông đã dùng tất cả tài năng hùng biện của mình để thúc đẩy tinh thần
sinh viên, nêu lên những nguyên tắc rèn luyện tinh thần:
- Thứ nhất: Tinh thần súc tích (esprit d'accumulation). Súc là chứa,
cất, tích là dồn lại. Kẻ đi học, với tinh thần súc tích ví chẳng khác anh nông
dân, mùa khô gặt lúa, chứa thóc vào bồ để quanh năm lấy ra mà dùng. Nhưng người
đi học mà chỉ có tinh thần súc tích thôi, thì khi ra đời chỉ có thể làm cán bộ
thừa hành. Cho nên tinh thần súc tích chưa đủ.
- Phải có tinh thần phê phán để xét lại tất cả những thông tin mà mình
thu thập được.
- Rồi tới tinh thần tìm tòi và tinh thần phát minh.
Nhưng bao trùm lên hết là tinh thần dân tộc.
"Tinh thần dân tộc là kết hợp rất nhiều phức cảm về
màu da, về tiếng nói, về tập quán, về ý thức... chung quanh cái ý muốn chung
làm cho dân tộc Việt được trường tồn [...] Tôi cho là tinh thần dân tộc không
phải chỉ là cảm tình, là bản năng, nó còn có thể là sinh lý nữa [...] đọc bài
văn tế các trận vong chiến sĩ của Nguyễn Đình Chiểu thì rơi nước mắt rồi dấn
thân vào con đường kháng Pháp. Lùi lại lịch sử mấy trăm năm, đọc bài Bình Ngô
Đại Cáo của Nguyễn Trãi, chúng ta vẫn còn thấy tim rung động." (trang
42-45)
Đối với Hồ Hữu Tường, sinh viên, nếu muốn tìm một phương pháp rèn luyện cá
nhân để phụng sự dân tộc, thì phải nhìn thấy mấu chốt của vấn đề: Tinh thần
súc tích, tinh thần phê phán và tinh thần phát minh là ba cái chân vạc của
một cái đỉnh thờ: tinh thần dân tộc. Hồ Hữu Tường có cực đoan quá chăng?
Không, bởi vì ông đã sống trong một thời kỳ mà đất nước bị người Pháp đô hộ,
tiếp theo là cuộc nội chiến ý thức hệ giữa hai miền, do ngoại bang điều khiển.
Rồi cuộc thống nhất đất nước, lại phát triển thêm hai cực:
- Một hướng tự đại, triệt để đề cao "bản sắc dân tộc" qua những nội dung
trống rỗng, coi Việt Nam là trung tâm của vũ trụ, không cần học hỏi tìm tòi;
- Một hướng tự ti, vọng ngoại, lấy ảo ảnh Tây phương để thay thế cho ảo ảnh
thiên đường xã hội chủ nghĩa.
Trong cả hai trường hợp, một tinh thần dân tộc đích thực, trong sự học hỏi,
tìm kiếm và phát minh để xây dựng một tương lai văn hóa Việt Nam trong chiều
hướng văn trị, vẫn còn cần thiết, nhất là khi hiện tượng toàn cầu hóa
có thể phát triển trong chiều hướng võ trị.
Số kiếp con mọt và
con thằn lằn
Nếu Hồ Hữu Tường luôn luôn nhắc nhở "tôi không phải
là nhà văn, tôi chỉ là kẻ dụng văn", thì những truyện ngắn của ông
lại từ chối lời nhận xét trên đây và công nhận điều sau này: "Đọc tiểu thuyết hay của các nước, tôi rất hiểu tiểu
thuyết xây dựng thế nào, nhưng tôi không chịu viết tiểu thuyết, mà chỉ bám vào
lối văn "kể chuyện". [...] Tôi chỉ muốn "kể chuyện" cho hoang đường, cho hóm
hỉnh, cho trào phúng, cho quê mùa, như những giáo sư văn chương của tôi mà
thôi. Con nhà trâm anh thế phiệt, ông, bác, cha, anh, thảy đều khoa hoạn, thì
viết văn điêu luyện như Nguyễn Du, việc ấy hợp lý, hợp tình. Con nhà nông như
tôi, mà viết văn nông dân, việc ấy cũng hợp lý, hợp tình nữa.
Con vua thì đặng làm vua
Con sãi ở chùa thì quét lá đa
có cái văn tâm như thế, nên trong chín năm theo chủ nghĩa Mác-Lê, giáo điều
của chủ nghĩa nầy dạy phải viết theo đường lối "tả chân xã hội" (réalisme
socialiste), thà tôi nhịn viết văn, chớ tôi không chịu phản lại giai cấp tôi.
[...] Cái văn tâm như thế đem những văn tứ "cổ điển" lại, chuyện "ma", chuyện
thần tiên, chuyện hoang đường, chuyện tiếu lâm châm biếm ... "cổ điển" là cổ điển
của thứ văn chương nông dân ta vào thế hệ của tôi." (trích bài
Tựa cuốn Kể chuyện, nxb Huệ Minh, Sài Gòn, 1965)
Như vậy rõ ràng là trong cách viết văn, Hồ Hữu Tường đã cố tình lựa chọn lối
kể chuyện, ông không gọi là truyện ngắn, mà lấy ngay hai chữ kể chuyện
làm tên sách. Và cách kể chuyện thần tiên, ma quỷ của Hồ Hữu Tường cũng là một
cách chống lại "duy vật biện chứng" bằng con đường dân tộc: "Về chuyện ma, kỷ niệm của tôi là kỷ niệm chung của
tất cả, tất cả trẻ con Việt ở nhà quê. Một đêm tối om, bên cạnh ngọn đèn dầu
leo lét, ba bốn người ngồi lại mà nghe kể chuyện, một thằng nhỏ giõ tai nghe.
Một lát nó nhảy vào giữa, run sợ. Mà càng run thì nó càng thấy lý thú[...] Thế
mà, vào nhà trường, học khoa học của Tây phương, thầy cấm đứa nhỏ ấy tin
truyện ma, cho đó là dị đoan [...] Khi nhập vào chủ nghĩa Mác-Lê, thì giáo điều
của duy vật luận biện chứng pháp lại càng nghiêm khắc với chuyện ma hơn nữa.
Thế mà sự thật lại khác hẳn. Năm 1932, nhà của một người bạn của Tạ Thu Thâu
là trạng sư Blaquière, ở đầu đường Taberd (nay là Nguyễn Du), xéo xéo nhà thờ
lớn, lại có ma dời bàn, khiêng ghế, dựng ván đứng lên, làm "trò khỉ" (mượn lời
của cựu thủ tướng Hương). Nhà mác-xít Tạ Thu Thâu tức quá, luôn ba đêm đến đó
ngủ, để nghiên cứu bọn ma có quyền lực gì, mà làm cái công việc mười người lực
lưỡng chưa chắc làm nổi... Nhưng vì quyền lợi của chủ nghĩa duy vật mà chúng
tôi đương vác cờ, không cho phép chúng tôi nói đến." (Kể
chuyện, trang 4-5)
Hồ Hữu Tường có tin ma hay không, điều đó không quan trọng. Ma chỉ là cái cớ đểø
ông phát lộ tinh thần dân tộc: người dân mình tin ở thần linh, ma quỷ, thì
mình cũng không thể xóa chúng trong sổ văn chương của mình. Tính chất duy
linh là một phần "dân tộc tính" vẫn còn hiện hữa và Hồ Hữu Tường đã dùng
duy linh để đối chọi với duy vật (vô thần). Ma như một
cõi âm bí mật, không biết, chưa biết, giao thoa giữa siêu linh và tâm thần, nhưng
ma có thể giúp người nói đến nhiều việc thực dụng, hiện hữu (Bồ
Tùng Linh); ma là một trong những đề tài mà văn học có thể sử dụng để đưa đến
những kết quả nghệ thuật bất ngờ: Hồ Hữu Tường đã "dụng ma" như ông đã "dụng
văn" để trình bày tư tưởng của mình.
Những chuyện kể của ông, gom góp in lại thành sách, chỉ có ba tập. Cuốn
Quả trứng thần gồm nhiều truyện thần tiên, in năm 1952, nay đã
thất lạc; trong bài Tựa cuốn Kể chuyện (1965), tác giả có
lời rao: bạn nào có cuốn sách này xin cho mượn lại.
Kể Chuyện (Huệ Minh, Sài Gòn, 1965) gồm bẩy truyện ngắn, những
mẩu tiếu lâm về Quặp râu và một vở kịch trào phúng.
Cuốn Nợ tinh thần (Huệ Minh, 1965), do Nguyễn Ngu Í biên tập, là
cuốn tạp văn, có bốn bài tiểu luận đặc sắc: Một bài phi lộ, đề xuất
những kế hoạch nghiên cứu triết học, khoa học và thể hiện văn chương; Tân
Xuân Thu (hai bài) so sánh thời chúng ta với thời Xuân Thu; Xuân Thu cũ
và Xuân Thu mới, phê bình bộ Đông Chu liệt quốc, và hai truyện ngắn hay:
Tù trong tù và Chuyện con thằn lằn chọn nghiệp.
Cách kể chuyện của Hồ Hữu Tường rất đa dạng: Răng đen (trong Kể
chuyện) là một "truyện thật ngắn" (3 trang) cô đọng và đặc sắc, vạch
trần chính sách nham hiểm của thực dân: Hai sinh viên nhược tiểu (Maroc -
Annam) gặp nhau trên "mẫu quốc". Trong ba năm học chung, họ rất quý mến nhau,
nhưng đế khi tôi (tác giả) lên đường về nước, Ali mới thổ lộ: Tôi sợ anh lắm.
Vì sao? Bởi Ali vẫn đinh ninh rằng nước "Đại Pháp" đã dẹp tan quân "phiến loạn"
Abd-el-Krim, nhờ bọn "tirailleurs annamites" (lính khố xanh) nổi tiếng ăn sống
thịt người đến nỗi máu khô đọng lại nhuộm đen răng!
Xuân An Hải (trong Kể chuyện) là một chuyện ma "thật sự"
xẩy ra ở An Hải, một làng cổ ở Côn Đảo. Người tù bị "ma dấu" là một anh cộng
sản chính hiệu và những người chứng kiến việc "ma dấu" này (gần 200 mạng) phần
đông đều theo chủ nghĩa duy vật. Lập lờ giữa mê tín và giả đò, Hồ Hữu Tường
muốn chế giễu cả biện chứng lẫn con người duy vật: tất cả chỉ là
một trò giả đò như ma dấu hay chăng?
"Bỗng có tiếng hú vang, tiếng hú xa tít từ trên chót
núi Chúa đưa xuống, lẫn với tiếng cây cối rung chuyển ào ào, như cơn bão rừng,
như đạo kỵ binh rần rộ từ trên cao kéo xuống, nghe lạnh xương sống. Trông theo
tiếng hú, thì thấy anh Xa mắt nhắm nghiền, hai tay đưa ra trước như nắm một
dây cương ngựa tưởng tượng, từ trên cao phóng xuống như bay. Điều mà giữa ban
ngày không ai dám làm, nữa là ban đêm, cái đêm cuối năm đen như mực xạ. [...]
Thế mà Xa cứ chạy, chạy như bay, lướt trên mặt đá lởm chởm." (Kể
chuyện, trang 18)
Một quang cảnh rất siêu thực do bàn tay phù thủy sắp đặt: Tiếng hú trên núi
Chúa đưa xuống, trông theo tiếng hú, thấy anh Xa mắt nhắm nghiền,
chạy như bay... tất cả chỉ là phù phép, hỏa mù xung quanh một "thực thể"
ghê gớm "tiếng hú từ núi Chúa". Cả anh Xa, lẫn những kẻ "trông" thấy tiếng hú
(gần 200 mạng tin theo duy vật), ở đây đều đã mu muội, đang lên đồng theo lệnh
của Chúa. Điểm ngời ngời duy nhất sáng trưng ở đây là núi Chúa,
nơi Chúa ngự. Chúa không ra mặt nhưng Chúa điều khiển,
Chúa giật dây, Chúa làm lóe mắt, ù tai những kẻ "nghe" và "nhìn"
thấy "Chúa".
Đồng thiếp giữa giả và thật để hóm hỉnh nhạo báng các hạng "chúa tể" trên đời:
Chúng chính là ma. Người bị ma dấu, mê hoặc trong một trận đồ, trở
thành cuồng tín, nhảy nhót, đằng phi, đi mây về gió... vô tình làm trò đùa cho
những cuộc chơi đồng thiếp, làm quân trong những trận "cờ người"?
Một hình thức "ma dấu" khác nằm trong truyện ngắn Cọp hú. Cọp hú
(trong Kể chuyện) rút từ một huyền thoại miền Cà Mau. Người bị "cọp
hú" cũng tương tự như bị quỷ ám, sẵn sàng dâng cả thể xác lẫn linh hồn cho cọp.
Cọp hú là một hình thức ngụ ngôn thấm đậm màu sắc địa phương, dân dã, một mặt
nói lên những mu muội của người ăn phải bả cọp (ngoại bang hay lý thuyết ngoại
bang), quay trở lại "ăn thịt" đồng bào ruột thịt mình.
Côn Lôn là một ngục tù lũy thừa bốn: ông, cha, con, cháu. Kẻ ở trên đảo là kiếp
tù ông. Trong đảo có banh (bagne), kẻ ở trong banh là kiếp tù cha. Trong banh
có khám, bị nhốt trong khám là tù con. Tù con mà còn bị còng chân là tù cháu.
Đó là thân phận tù trong tù.
Qua bốn cửa ải, vào vòng tận của khổ đau, trong cuộc đời gần 20 năm tù tội, Hồ
Hữu Tường rất ít khi nhắc đến những đọa đầy thân xác trong tù, họa hoằn viết
một vài hàng như: "tôi lướt qua cơn dông tố mà ba phần
tư anh em, vì yếu đuối vượt qua không nổi, phải gởi xương ngoài đảo."
Tù trong tù giúp chúng ta hiểu tại sao Hồ Hữu Tường có đủ nghị lực để
vượt lên những cơn dông này: phải có một hoạt động tinh thần hàng ngày, phải
tìm cách "đằng phi trên vòm trời tư tưởng".
"Ấy là tôi có được người bạn đường (Nguyễn
An Ninh) để đằng phi trên vòm trời tư tưởng.
Nhờ sự đằng phi trên vòm trời tư tưởng ấy, xét nét lại cả những hệ thống triết
học, tôn giáo, tư tưởng, mà tôi quên rằng thời gian qua mau hay là quên chú ý
đến những khổ cực nặng nề của đời tù con." (Tù trong tù, Nợ tinh
thần, Huệ Minh, 1965, trang 71)
Hồ cố gắng vươn lên, từ đớn đau của thể xác và tối tăm của định mệnh, một đời
sống tinh thần phong phú, liên tục, một sức sáng tác không ngừng, trong tim,
trong óc. Bao nhiêu người chết gục trong tù, riêng Hồ, để khỏi chết, trầm
tư và kể chuyện, sáng tác "nhẩm", hoặc viết, mặc dầu biết cái viết
của mình đôi khi chỉ làm mồi cho mối mọt. Đó là bí quyết tồn tại. Lối "kể
chuyện" của Hồ Hữu Tường, một lối kể bình dân, truyền thống như Nguyễn Đình
Chiểu, như Hồ Biểu Chánh... rất miệt vườn, gắn bó với vùng đất mới Hậu Giang,
nhưng đã biến dạng thành một lối kể đa diện và luôn luôn biểu lộ những suy tư
của tác giả về cuộc sống, về sáng tác. Tiêu biểu nhất có lẽ là hai truyện
Nàng mọt sách (trong Kể chuyện) và Chuyện con thằn lằn
chọn nghiệp (trong Nợ tinh thần).
*
Nàng mọt sách là một truyện thần tiên, không dựa theo cổ tích mà do tác
giả sáng tạo. Truyện bắt đầu bằng những hàng: "Ngày
xưa ... Ở đất Hậu Xuyên có chàng học trò nọ, họHồ, tên Lân-Trinh, tự là Khổng
Cưu..."
Lối mở đầu này cho thấy ngay đây là một tự truyện vì cả Lân Trinh lẫn Khổng
Cưu đều là biệt hiệu của Hồ Hữu Tường.
Lân Trinh nghèo lắm, không có tiền mua sách để đọc. Gặp buổi loạn ly, chàng phải
lánh nạn ở một cái am nhỏ của một vị đạo sĩ. Một hôm quét am, Lân Trinh lượm
được cuốn sách xưa, mừng quá, mở ra đọc, thì than ôi, không trang nào nguyên
vẹn. Một con mọt hai đuôi đang vội vã lẩn trốn, định giơ tay giết nó, nhưng
không nỡ vì chàng tự hỏi nó ăn sách để sống cũng như ta ăn cơm vậy, có tội lỗi
gì? Không ngờ con mọt là hậu kiếp của Tiên Dung, con gái Ngọc Hoàng. Xưa ở
Thiên Đình, nàng phải hâm rượu cho cha đãi quần tiên, nhưng vì mê đọc sách làm
cạn cháy rượu đào, bị vua cha đầy xuống trần gian. Tiên Dung xin được làm kiếp
con mọt để đi hết nhân gian tìm lại cuốn sách quý mà nàng mới lật vài trang,
chưa kịp đọc hết (trong tủ sách Thiên Đình). Đây là một truyện ngắn xác định
văn tâm và văn tài của Hồ Hữu Tường, quảng bá tư tưởng "văn hóa trị". Vềû giai
đoạn văn trị ở hạ giới, sao Thái Bạch tâu với Ngọc Hoàng: "Sở dĩ loài người đang ngoan ngoãn thế này, ấy bởi họ
đương trải qua một hồi "văn trị". Họ không mê say việc chiến đấu, giết lẫn
nhau. Họ không thèm nghĩ đến việc hại nhau, lừa nhau."
Ở thời kỳ văn trị này, loài người chỉ có một lối tranh đấu duy nhất là chọn
con đường văn tự (gọi là thơ). "Thơ có thể làm cho
con người say mê như mê gái đẹp", đó là một "tôn giáo mới mà giáo chủ là Nàng
Thơ". Kẻ tín đồ của tôn giáo này cũng say mê, cũng khổ hạnh, cũng
phải hi sinh, đôi khi tử vì đạo. Thỉnh thoảng cũng có kẻ "đắc đạo". Kẻ đắc đạo
sẽ lên cõi Tao Đàn, trở thành Tiên, và Tiên được các tín đồ gọi là Thi sĩ. Thi
sĩ không cần uống thuốc trường sanh mà vẫn bất tử. Mỗi vị để lại những phù chú
riêng của mình, ghi lại trong những thứ gọi là sách. Mỗi tín đồ, muốn tìm đến
vì Tiên của mình thì chỉ việc giở sách ra là có thể đàm đạo được. Nghe Thái Bạch
"báo cáo" những đặc điểm của chính sách văn trị ở hạ giới, Ngọc Hoàng sinh
lòng ham muốn, bèn truyền cho các vì sao đi khắp nhân gian, thu lượm các kiệt
tác văn chương đem về "nộp bổn", tạo ra tủ sách Thiên Đình cho chư Tiên, Phật
cùng thưởng lãm. Ngày lễ khánh thành thư viện, Tiên Dung, con gái Ngọc Hoàng,
vì đam mê những kỳ lạ trong văn phong và tư tưởng của loài người nên mắc nạn,
bị đầy xuống trần. Sự đầy đọa này lại đáp ứng đúng nguyện ước của Tiên Dung:
muốn thoát khỏi thiên đàng "vô văn hóa" để đến với hạ giới văn hóa. Tiên Dung
xin làm kiếp mọt để thỏa mãn đam mê tha thiết và nhỏ nhoi nhất của mình: Xuống
trần để được sống trong "cõi văn", tìm lại cuốn sách hay mà nàng đang đọc dở.
Sống kiếp mọt... bao lần bị loài người giết... nàng vẫn tái sinh thành mọt,
Tiên Dung có tìm thấy hạnh phúc không? Hay chỉ là một kiếp lẩn tránh nguy cơ
không ngừng bị tiêu diệt, mỗi lần gặp được một... "con người". Hay chỉ là một
trần gian bụi bậm, mà loài người đã bỏ rơi ... văn. Sách vở không ai đọc, làm
mồi cho ... mối, mọt? Thời kỳ "văn trị" đã qua rồi, hay tất cả chỉ là ảo tưởng?
Một thiên đường tưởng tượng, chưa bao giờ hiện hữu? Lân Trinh và Tiên Dung là
một kiếp: Hồ Hữu Tường.
Nếu trong Nàng mọt sách Hồ Hữu Tường còn có những giây phút lạc quan,
tin tưởng vào một thời điểm hạ giới văn trị mà loài người không chém giết nhau,
thì ở Chuyện con thằn lằn chọn nghiệp Hồ nói lên tất cả những hoang
mang, thất vọng của mình về con người võ trị. Chuyện con thằn lằn chọn
nghiệp cũng là một tự truyện, mang tính bi đát của một "tiếng kêu trong sa
mạc".
Đó là chuyện một thiền sư già, tu đã sắp thành chánh quả. Vị thiền sư đinh
ninh rằng Phật Thích Ca khi đắc đạo có dặn là hai nghìn năm trăm năm về sau -thời
mạt pháp-, Di Lặc sẽ xuống trần cứu độ chúng sanh. Tính ngày, tính tháng,
thiền sư thấy thời hạn đã đến. Vì vậy ông nguyện sẽ tụng đủ một nghìn lần kinh
Di Lặc để được đắc đạo. Nhưng dự định của ông có con thằn lằn nghe được, bèn
tìm cách ngăn cản, vì nó biết chắc là sau khi tụng kinh đến lần thứ một nghìn,
thiền sư sẽ lên giàn hỏa, tự thiêu, để đến cõi Niết Bàn. Đêm ấy, vị thiền sư
tụng kinh (lần thứ một nghìn) dưới đĩa đèn dầu lạc. Thằn lằn bèn bò lên bàn
thờ Phật, dần dần uống cạn đĩa dầu cho đèn tắt, nhà sư không tiếp tục tụng
kinh được nữa. Nhiều lần như thế, thiền sư không hiểu nguyên do. Một đêm ông
bèn vừa tụng kinh, vừa rình xem kẻ nào là thủ phạm vụ tắt đèn, và ông bắt quả
tang thằn lằn tại trận. Nổi xung lên, nhà sư ngưng gõ mõ và mắng rằng:
"- Loài nghiệt súc! Té ra mi ngăn ngừa không cho ta
được đắc đạo!
Rồi tay cầm dùi mõ, nhà sư nhằm ngay đầu con thằn lằn mà đập mạnh. Con thằn
lằn bị đánh vỡ đầu chết ngay."
Kiếp thằn lằn phải chăng cũng lại chính là kiếp của Hồ Hữu Tường? Suốt đời
muốn ngăn chặn sự mù quáng, u mê, tự sát, chém giết... nhưng thất bại và chính
bản thân mình bị đồng loại trù dập, triệt hạ.
Nhà sư phải chăng là cõi nhân sinh? Một nhân sinh tin vào những thiên đàng
bánh vẽ, muốn tranh thủ niết bàn bằng mọi giá, bất kể phương tiện, thậm chí cả
việc sát sinh?
Muốn cứu người ư?
Muốn độ người ư?
Thằn lằn phải làm cách nào mới đạt được kết quả? Vì không thể bắt buộc người
rời bỏ sự mê tín, cũng không thể bắt buộc người phải hướng thượng. Đó là câu
hỏi mà Hồ Hữu Tường muốn đặt ra cho chính mình. Dường như ông đã nhìn thấy sự
không tưởng trong các lập thuyết hướng thượng, đồng thời cũng nhận thấy sự cô
đơn tuyệt đối của mình trước định mệnh, nên ông viết:
"Hồn con thằn lằn từ ấy trôi theo mây gió, không biết
trụ vào đâu. [...] Thật chưa hề lúc nào có một linh hồn bị trừng phạt phải đau
khổ đến thế."
*
Đó là đoạn kết trong Chuyện con thằn lằn chọn nghiệp viết năm 1953. Đến
năm 1966, Hồ Hữu Tường viết thêm một đoạn, do Nguyễn Thái sưu tầm, in trên báo
Quê Mẹ, số xuân 1983, nội dung ngụ ý:
Hồn thằn lằn vẫn muốn độ người. Nhưng loài người vì vẫn mắc tham sân si, nên
tất cả đã phải đầu thai làm kiếp chuột. Muốn cứu người, thằn lằn bèn xin Thích
Ca cho được đầu thai làm chuột, lấy tên Long Thử. Long Thử thấy loài chuột đông
như kiến mà sợ hãi không dám chống lại một chú Mèo. Nó bèn kiếm kế rử Mèo vào
bẫy, nhưng rút cục kế của Long Thử cũng không thực hiện được vì loài chuột quá
hèn nhát và ưa phản bội. Cuối cùng Long Thử lại bị đem ra xử tử hình một lần
nữa về tội "Thử gian". Muốn cứu người không dễ. Bởi người không tự cứu.
Hồ Hữu Tường bộc lộ sự tuyệt vọng tuyệt đối về con người: không có cách nào
cứu vãn được. Dù đầu thai đến kiếp thứ mấy, con người vẫn y nguyên như cũ, với
tất cả tham sân si cố hữu. Nhưng cũng không thể không có những kiếp thằn lằn,
suốt đời tìm cách cứu độ nhân sinh, đưa người hướng thượng nhưng vô hiệu và
những kẻ chọn nghiệp thằn lằn biết chắc con đường mình đi sẽ không dẫn đến chỗ
nào khác ngoài cái chết.
*
Hồi ký và tiểu thuyết
Tiểu thuyết là thể loại sáng tác phong phú nhất của Hồ Hữu Tường, có thể
chia làm hai loại: xã hội và trào phúng.
- Khuynh hướng xã hội (đấu tranh) có những bộ Gái nước Nam làm gì?, gồm
2 quyển: Thu Hương và Chị Tập (Nxb Sống Chung, 1949), Thuốc
trường sanh, 3 cuốn: Xây mộng, Phúc đức và Vẹn nguyền (Huệ
Minh, 1964); Hồn bướm mơ hoa, 4 cuốn: Mai Thoại Dung , Ông thầy Quảng,
Tam nhơn đồng hành và Bủa lưới người (Nam Cường, 1966) và những tác
phẩm khác như Kế thế , tiểu thuyết dã sử, (Huệ Minh, 1964), Người Mỹ
ưu tư (tác giả xuất bản tại Pháp, 1968) viết về bối cảnh và thân phận
những đứa con lai Mỹ-Việt.
- Khuynh hướng trào phúng có bộ Ngàn năm một thuở hay Một thuở ngàn
năm, gồm 4 quyển đã in Phi Lạc sang Tàu (Sống Chung, 1949), Phi
Lạc náo Hoa Kỳ (Vanay, Paris, 1955), Tiểu Phi Lạc náo Sàigòn (Nam
Cường, 1966) Diễm Hồng xuất giá (Nam Cường, 1966).
Tự truyện và hồi ký: Thằng Thuộc con nhà nông tự truyện (An Tiêm, 1966)
và cuốn hồi ký Bốn mươi mốt năm làm báo (Trí Đăng, Saì Gòn ; Đông Nam
Á, Paris, 1984). Ngoài ra còn một cuốn hồi ký tiếng Pháp, Un fetu de paille
dans la tourmente (Cọng rơm dập vùi), viết tại Paris năm 1969, chưa in.
Hồ Hữu Tường là một trong những nhà văn có cách viết tự thuật và hồi ký vô
cùng duyên dáng, hóm hỉnh, mà lại phản ảnh được cuộc đơì thăng trầm đầy sôi động
của một người làm cách mạng bằng ngòi bút. Nhờ hai cuốn Thằng Thuộc con
nhà nông và Bốn mươi mốt năm làm báo mà người đọc không
những có thể biết rõ tiểu sử, tâm sự, con đường đấu tranh và xuất xứ mỗi tác
phẩm của Hồ Hữu Tường, mà còn thấy được chân dung và tâm tình của những nhà ái
quốc khác như Nguyễn An Ninh, Phan Văn Hùm, Tạ Thu Thâu trong bối cảnh hoạt động
của họ, liên hệ đấu tranh, tư tưởng, tương quan lực lượng giữa những cá nhân
hay đoàn thể đã hoạt động cùng thời với họ.
Với Thằng Thuộc con nhà nông, Hồ Hữu Tường vừa muốn xác nhận
nguồn gốc nông dân , vừa muốn bác bỏ tính duy vật mà chủ nghĩa Mác Lê gán ghép
cho họ: Hồ đề cao tính duy linh trong tâm hồn Việt như một cá tính độc đáo
không thể loại trừ: tin tướng số, qủy thần, sấm trạng, điềm, vận Hồ
không hề đứng ở địa vị nhà khoa học để phán xét nhân dân, ông luôn luôn đứng
về phía quần chúng bình dân để nhìn đời. Toàn bộ triết lý sống của Hồ Hữu Tường
dường như nằm trong mấu chốt đó, ông sống và viết như một nông dân chính hiệu.
Muốn được như vậy, trước tiên, ông phải «là» nông dân (mặc dù có học).
Hồ đã thành công trong sự «là» ấy. Từ lúc chưa ra đời, Hồ đã là «nông
dân» trong lòng mẹ: sinh trong điềm và sấm. Hồ tự «khai sinh» cho mình
trong lòng dân tộc, từ dân tộc tính Việt Nam.
Họ Hồ thật, gốc nông dân thật, ở Hồ không có dấu vết giả dối nào, từ nguồn gốc
đến danh hiệu, có lẽ để đối chiếu với một sự giả mạo họ tên khác của người
cùng thời trong lịch sử.
Gia đình họ Hồ, khi Tây Sơn thua, chạy đến miệt Cái Răng là đã kiệt quệlắm. Hồ
Hữu Tường thuật lại rằng: «Tía tôi, Hồ Văn Sây, lớn
lên trong cảnh nghèo nàn, thất học từ nhỏ, ông được cả làng chú ý vì tánh tình
ngay thẳng, cương trực, hiền lành» (Thằng Thuộc con nhà nông,
trang 14-15). Mẹ Hồ Hữu Tường, bà Võ Thị Nữ, tuy con nhà giàu nhưng mồ côi cha
năm mười hai tuổi, mẹ tái giá để con lại cho bà cô (giàu) nuôi; cô gả Nữ cho
Sây (người làm công) vì muốn cháu gái có chồng họ Hồ, «họ của ba vua» ( Quý Ly,
Thái Đức, Quang Trung).
Ngoài cha mẹ, Hồ Hữu Tường còn nhắc đến một nhân vật khác, khá huyền bí là
Thầy Quảng (gọi là Thầy Quảng vì có giọng nói Quảng Nam). Thầy Quảng, người đỡ
đầu, vừa là thầy bói, vừa là đạo sư, và là đảng trưởng đảng Bửu Sơn Kỳ Hương,
đã ảnh hưởng sâu xa đến cha con Hồ Hữu Tường. Khi Hồ ra đời, Thầy Quảng bói
một quẻ: «Năm Canh Tuất, tháng ba, ngày hai mươi chín,
giờ dần thì tốt lắm, mà cũng xấu lắm. (Nếu) Không có «Tuần» và «Triệt» thì số
này là số Đế vương» (trang 24). Rồi Thầy Quảng đặt tên: «... đặt tên cho nó là Hồ Hữu Tường, nghĩa là họ Hồ
có điềm lành. Nó có «văn xương», «văn khúc» thì ắt không phải là nông dân như
ông cha. Ít nữa cũng là một văn sĩ. [...] Vậy tôi đặt cho nó cái tự là Khổng
Cưu, ứng vào câu «khổng cưu đắc hữu tường». Khổng là to, cưu là bói, Khổng Cưu
Đắc Hữu Tường là bói một cái bói to mà được điềm lành» (trang 26).
Thầy Quảng còn đặt tên hiệu là Bửu Liên (vì hôm sanh Tường, tía nằm mộng thấy
có người đem tặng một đóa sen quý). Tất cả những «điềm», «số» và «sao» như vậy
đã «vận» vào Tường từ lúc ra đời: Tường mang «mệnh đế vương», chào đời với «sứ
mạng hưng vượng dòng họ», «tân tạo quốc gia», «giải phóng dân tộc». Rủi thay,
cái tên chữ «Hữu Tường» đang gánh những kỳ vọng «hay ho» như vậy, lại bị kỵ
húy đúng tên ông dượng ghẻ (chồng thứ nhì của bà ngoại), Hữu Tường bèn bị tía
đổi tên là thằng Thuộc cho gọn, bởi nó đọc đâu thuộc đấy !
Đó là thủ pháp «kể chuyện» của Hồ Hữu Tường: đem xuất xứ dòng họ đặt lên đỉnh,
có lẽ muốn giải thích thái độ cao ngạo của mình, rồi đùng một cái, lật ngược đỉnh
xuống đáy bằng chính «nội dung» lời kể: Thằng Thuộc lật nhào Hữu Tường, chữ
nôm đánh đổ chữ Hán, nguồn gốc nông dân đánh đổ nguồn gốc đế vương Nghệ thuật
ở đây là hạ bệ. Sự hạ bệ này còn có nhiều lối hành ngôn khác không kém phần
thâm thúy, cao ngạo và hóm hỉnh: ví dụ về cuộc gặp gỡ chính trị với nhân vật
đệ tam là Tôn Quang Phiệt. Sau khi gặp Hồ Hữu Tường và Tạ Thu Thâu,Tôn Quang
Phiệt kể lại với Đào Duy Anh rằng: «Hai đứa nó là kỳ
tài phải lắm. Tạ Thu Thâu tướng con vượn. Hồ Hữu Tường tướng con khỉ đột. Con
vượn yểu tướng, e Tạ Thu Thâu chết sớm. Con khỉ đột sống dai hơn. Đào Duy Anh
thuật lại lời ấy rồi, thì vài tháng sau, tôi nghe Tạ Thu Thâu bị giết ở Quảng
Ngãi» (sđd, trang 45). Ở đây ông đặt hai cặp phạm trù đối cực: kỳ
tài-khỉ vượn, chuyện tếu-bị giết, trong một câu, khiến hai «đối cực» ấy tự
triệt tiêu nhau, một cách tương đối hóa, hài hước hóa những chuyện không hài
hước (ám sát, thủ tiêu). Hồ Hữu Tường tạo cho cuộc đời một chiều kích mới: tất
cả đều có thể nhìn dưới con mắt khoan dung, độ lượng, nếu ta coi sống, chết,
như những cuộc chơi, mà sự « mất», «còn», đáng cười hơn đáng khóc. Chỉ với
nhân sinh quan như thế, Hồ Hữu Tường mới có thể sống còn trong những cuộc
thanh trừng, các trại tù mà Côn Lôn khét tiếng là mồ chôn người yêu nước.
Hồi ký Bốn mươi mốt năm làm báo, viết vào khoảng năm 1971, do
Trí Đăng xuất bản tại Sài Gòn, và Đông Nam Á in lại ở Paris năm 1984, là một
tác phẩm giá trị về hai mặt tư liệu lịch sử và nghệ thuật viết hồi ký. Đây là
một thiên phóng sự đầy tính phóng túng và hài hước về suốt giai đoạn từ 1930
đến 1971, trong cuộc đời hoạt động cách mạng và làm báo của Hồ Hữu Tường cùng
với những nhà cách mạng khác, các bậc đàn anh như Phan Văn Trường, Nguyễn An
Ninh, Nguyễn Thế Truyền hoặc những bạn đồng hành như Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm,
v.v... một thế hệ thông minh xuất chúng, coi ngục tù, cái chết như không, loại
những bi thảm bằng tiếng cười, và trên tất cả là lý tưởng giải phóng quê hương
và niềm tự hào dân tộc.
Với nghệ thuật kể pha trộn cả bi lẫn hài, giao thoa ký ức và tư liệu lịch sử,
Hồ Hữu Tường đã vẽ được những chân dung cực kỳ sống động của Nguyễn Thế Truyền,
Phan văn Trường, Nguyễn An Ninh, Tạ Thu Thâu, Trịnh Hưng Ngẫu, Phan Văn Hùm.với
những giai thoại lý thú như: nguồn gốc cái tên Nguyễn Ái Quốc, làm báo» nhẩm»
Thiên Thu, mối tình Bruxelles, Nguyễn An Ninh bán dầu cù là, Phan văn Hùm dậy
Hồ Hữu Tường viết văn Việt.
Tiêu biểu cho tác phong hài hước hoá những chuyện nghiêm chỉnh, có thể kể màn
Nguyễn An Ninh dạy thanh niên phân biệt đệ tam với đệ tứ:
«- Mấy em còn nhỏ, chưa biết vợ con. Thế nào ra đời
rồi cũng phải cưới vợ. Vậy để qua dậy cho em học làm chồng có lẽ có ích lợi
hơn là học làm cách mạng với mấy anh đó, nói cái gì mà mấy em không hiểu. Đây
qua hỏi các em vậy chớ l.. có mấy lỗ? Đừng có cười chớ!ù Các em làng chàng,
không học bài căn bản nầy, rủi làm bậy vợ nó chết thì làm sao?
Mấy cậu thanh niên ngơ ngác nhìn nhau, thì Ninh dạy:
- L... có ba lỗ, một cái lỗ để đái, một lỗ để đẻ và một lỗ để đ
các em phải
thuộc cái đó bằng không thì không được đa!
Bọn trẻ cười lăn, nhưng cũng nghe Ninh kết luận:
-Ừ thì Đệ tam một lỗ, Đệ tứ một lỗ, và con đường dân tộc cũng một lỗ. Các em
làng chàng đi sai đường, thì không khác nào cưới vợ mà đ... sai lỗ vậy(...)
-Ừ thì các em cứ cười cho đã đi, rồi nghe qua nói một câu nầy. Tất cả con trai
cưới vợ, nào để nhìn nó đái ? Nhà nghèo, thêm sợ nó đẻ. Chỉ muốn cưới vợ vì
cái chuyện vợ chồng mà thôi. Thì Đệ tam hay Đệ tứ gì thì cũng ví như đái và
đẻ. Chớ toàn dân thảy đều muốn cuộc cách mạng dân tộc, giải phóng dân tộc mình
khỏi gông cùm ngoại bang. Có phải vậy không?» (Hồi Ký, trang
99-100)
Lối tái tạo chân dung Nguyễn An Ninh trên đây đã làm sáng tỏ một lúc hai nhân
cách: Một Nguyễn An Ninh hóm hỉnh tuyệt vời, đi vào lòng quần chúng qua ngả tư
biện hài hước, dùng thực chứng để giải thích những lý thuyết khô khan về chính
trị, dùng tục để đáp với thanh. Một Hồ Hữu Tường xuất sắc trong nghệ thuật:
không «tả» Ninh mà «kể» Ninh, nhưng sự «kể» của ông cũng là «tả»: ông đồng hóa
nghệ thuật kể và tả. Từ lời nói hóm hỉnh của Nguyễn An Ninh toát ra lòng yêu
nước của người anh hùng, nhưng nét đặc biệt ở người anh hùng này, Ninh là «người»
trước và «hùng» sau, hoặc ít ra «người» đi đôi với «hùng», khác những thần tượng
thường được suy tôn: chỉ có «hùng» hết là «người» .
Nguyễn An Ninh, qua lời kể của Hồ Hữu Tường là một nhân vật anh hùng phản anh
hùng, pha trò, nói tục, cám dỗ thanh niên bằng tâm hồn trào phúng, bằng biện
chứng phản biện chứng, bằng ngôn ngữ gợi hình độc đáo, ý nhị. Cái tục ở Nguyễn
An Ninh-Hồ Hữu Tường là tục đắc địa, tục của những người có bản lãnh, tục mà
vẫn giữ được đạo theo nghĩa Bồ Đề Đạt Ma: siêu tục, siêu tục dẫn đến những nụ
cười Xuân Hương, Duy Tốn rất thế tục, khác hẳn với cái dung tục tầm thường,
không nghệ thuật, tục để mà tục, ít khi phản ảnh một thực tại sống thật nào.
Trào phúng đối với Hồ Hữu Tường trở thành một liều «thuốc trường sanh», chữa
bách bệnh, là dưỡng khí nuôisống người tù. Ký ức tù của ông khác với nhiều người,
không chứa khổ đau, không gây căm phẫn, hờn oán. Dường như , những điều ấy
không có gì đáng nói, đáng kể; điều đáng ghi lại là những trầm tư của một «tên
tội tư ûhình», nghĩ về tương lai dân tộc hoặc những giây phút hạnh phúc của đời
tù: kể chuyện Tàu, làm báo nhẩm, sự «bột phát» của tác phẩm nhẩm: Phi Lạc hoài
thai từ nền văn chương nhẩm với những tiểu thuyết đã «có màu Tự Lực Văn Đoàn
lắm».
Tất cả những hình thức sáng tác nhẩm này, là để chữa căn bệnh biệt giam «bị nhốt với người khác còn trò truyện mà trí khuây
khoả (...) Chớ bị nhốt một mình, thì mình luôn luôn nói chuyện với mình, mệt
trí không tưởng tượng nổi. Có khi câu chuyện mình nói với mình khuya rồi mà chưa
dứt, thì tiếp tục nói hoài, sanh ra bịnh mất ngủ. Mà hễ mất ngủ luôn, thì dễ
sang qua điên». (Hồi Ký, trang 54).
Toàn bộ tập hồi ký là một giọng coi thường cái chết, tương đối hóa khổ đau,
hài hước hoá những trầm trọng, bi kịch; coi tất cả chỉ là đùa chơi, không có
gì quan trọng. Từ những kinh điển, những «tư tưởng lớn», đến những lý tưởng,
lập thuyết, cái gì cũng có mặt trái của nó. Hồ Hữu Tường vạch mặt trái của tất
cả kể cả chính mình, vì vậy mà ông chiếm được lòng tin của độc giả qua những điều
tự thuật,ø rất có thể «có chỗ bịa» nhưng bịa y như thật, điều mà ông không mấy
thành công trong địa hạt tiểu thuyết xã hội.
Tiểu thuyết của Hồ Hữu Tường thường dài dòng và hay giải thích, phần tâm lý
nhiều khi sơ sài, giả tạo, nhưng ông có óc hiện thực xã hội, óc tưởng tượng và
óc trào phúng rất cao.
Ở loại xã hội, Hồ Hữu Tường dùng tiểu thuyết như một phương tiện tuyên
truyền, xác định lập trường yêu nước; ở loại trào phúng, tiểu thuyết của ông
phủ định tất cả: chế giễu chính trị, phê phán xã hội, đả phá những "trịnh
trọng" của lập thuyết, coi tất cả là chuyện tiếu lâm, hài hước, tán dóc, tán
nhảm. Hai khuynh hướng này đối lập nhau, tiêu biểu hai nét tương phản trong
con người Hồ Hữu Tường: Có một Hồ Hữu Tường nghiêm chỉnh, ưa lập thuyết và một
Hồ Phi Lạc trào lộng, đánh đổ tất cả những gì có tính cách lý trí, biện luận.
Hai cuốn tiểu thuyết xã hội đấu tranh đầu tiên của ông là Thu Hương
và Chị Tập.
Chị Tập và Thu Hương, viết năm 1949, trong bộ
Gái nước Nam làm gì? là kết quả của một thử nghiệm "tiểu thuyết mới"
mà ông cho biết là đã bàn bạc với Khái Hưng ở Hà Nội năm 1945, và trao đổi
thêm với Đông Hồ ở Sài Gòn. Chị Tập và Thu Hương
tiêu biểu cho hai từng lớp đấu tranh trong giai đoạn đầu cách mạng. Tập xuất
thân từ quần chúng lao động, Thu Hương trí thức, tiểu tư sản, thành thị. Thu
Hương được mô tả qua hình ảnh cô Cúc, sau này là nha sĩ, kiêm điêu khắc gia Điềm
Phùng Thị, mà thời ấy, tác giả có quan hệ tình cảm. Ông viết Thu Hương
theo lời "yêu cầu" của "người đẹp" và lại ký bút hiệu Duy Cúc. Thu Hương trong
truyện là sinh viên trường thuốc Hà Nội, đảng viên một đảng cách mệnh bí mật,
một cô gái đẹp và gan dạ, dám cướp sân khấu để tuyên truyền, dám ám sát giữa
thành phố, ... Chị Tập, con nhà nghèo, bị cha mẹ đem bán, trải bao khổ đau, tù
tội, sống chung với trộm cướp và những ngươì làm cách mạng. Được thả, Tập trở
thành đảng viên đắc lực, nhận những công tác nguy hiểm, cổ động tuyên truyền,
đình công bãi thị, buôn lậu, làm thổ phỉ, cướp khí giới Nhật, xây dựng chiến
khu ... Hai phụ nữ, hai giai cấp, hai trình độ, gặp nhau trong kháng chiến,
tạo ra những mẫu người lý tưởng, huyền thoại mà thời đó rất cần.
Viết Thu Hương, Chị Tập, Hồ Hữu Tường đã dùng tiểu thuyết để
tuyên truyền cho lý tưởng cách mạng, ông đặt vấn đề làm sao kết hợp các thành
phần xã hội khác nhau, các đảng phái khác nhau? Làm sao đánh động lòng yêu nước?
Làm sao củng cố lực lượng du kích? Làm sao khắc phục những khuyết điểm để đi
đến thành công? Đó là thời kỳ Hồ Hữu Tường còn trẻ, còn tin vào sứ điệp cách
mạng.
Trong thời kỳ ở Côn Đảo lần thứ nhì, ông viết hai bộ trường thiên khác, nói
lên sự chán nảm của mình trước các trường tranh đấu. Bộ Thuốc trường
sanh in năm 1964, lấy bối cảnh kháng chiến Nam Bộ những năm 50-52.
Nhân vật chính là Tuyết Lê và bác sĩ Tâm, những người trí thức không cộng sản,
từ thành vào bưng, theo kháng chiến. Họ có nhiệm vụ phải tìm cho ra một thứ "thuốc
trường sanh", như một phát minh khoa học tân kỳ, đem uy tín cho cách mạng.
Muốn bào chế thuốc trường sanh, thì phải lấy được chân con cọp Mun, nổi tiếng
chúa tể vùng Hậu Giang. Cuối cùng, Tuyết Lê và Tâm hạ được cọp, nhưng cũng lại
sa vào nanh vuốt của cọp.
Thuốc trường sanh nói lên sự mất mát niềm tin, nói đến sự cô đơn
tập thể, những chán nản hầu như tuyệt vọng về những nẻo đường kết hợp dân tộc.
Tất cả chỉ là nghi ngờ và thủ đoạn, là cô đơn và chia rẽ. Thuốc trường
sanh là tâm sự của những người "ngoại đạo", muốn nhập vào dòng chính
thống cách mạng, nhưng không thể được. Kết quả là phải đào thải, chia lìa.
Tập Hồn bướm mơ hoa cũng là một trường thiên tiểu thuyết phiêu
lưu, tranh đấu, có tính chất "ngự lâm pháo thủ", viết về những người thân quyến
hoặc còn lưu luyến nhà Tây Sơn, lưu lạc vào Nam, quyết dựng nên tổ chức Bửu
Sơn Kỳ Hương, chống Nguyễn, nhưng việc không thành. Hồn bướm mơ hoa có những
trang rất hay về đời sống sông lạch miền Hậu Giang, cảnh tù vượt Côn Đảo, tâm
trạng của con người trong "xã hội Nam Kỳ" theo đuổi ngấm ngầm lý tưởng, hoài
bão "tự trị", nhưng chưa thực hiện được. Hồn bướm mơ hoa ấp ủ
giấc "mơ hoa" của "cánh bướm" Hữu Tường: muốn chọn con đường thứ ba cho đất nước,
nhưng không ai theo, không ai tin, tất cả chỉ là thất bại.
Tiếc rằng phần lớn truyện dài của Hồ Hữu Tường đều dựa trên những cốt truyện
quá "tiểu thuyết", những nhân vật quá giả tạo, bởi ông luôn luôn muốn thổi
phồng người đàn bà. Không kể Ngọc Mân trong tiểu thuyết dã sử Kế thế,
thuần tính huyền thoại, từ Thu Hương, chị Tập đến Tuyết Lê, Mai Thoại Dung,Lệ
Dung-Mỹ Dung trong Hồn bướm mơ hoa hay Loan, Phượng trong
Người Mỹ ưu tư... đều là những mẫu người khó tìm thấy trong cuộc sống,
vì họ giỏi quá hoặc cao thượng quá. Họ không thật. Ngoài ra, những cảnh huống
mà Hồ đẩy nhân vật vào, thường gượng ép. Ví dụ Tuyết Lê và bác sĩ Tâm tìm cách
"sáng chế" thuốc "trường sanh" trong bưng biền. Ai tin được? Rồi hai người lại
tựï sống chung như một cặp vợ chồng "giả". Việc Mai Thoại Dung đem tất cả gia
sản của mình cúng cho thầy Quảng (anh hùng phái nam, hiếm hoi trong truyện của
Hồ Hữu Tường) để xây dựng đảng Bảo Hương Kỳ Sơn, bỏ con, bỏ cái theo "lý tưởng".
Rồi cặp bài trùng "Lệ Dung-Mỹ Dung" cũng là những tay «quái kiệt» ; Lệ Dung
vừa đẹp, vừa thông minh, mưu lược (cỡ Tuyết Lê), Mỹ Dung võ nghệ cao cường,
tâm hồn tuyệt vời cao cả, "gả" chồng mình cho Lệ Dung vì "đại sự". Những chi
tiết này làm giảm sút giá trị bộ Hồn bướm mơ hoa, có lẽ là hay nhất trong loạt
tiểu thuyết xã hội phiêu lưu của Hồ Hữu Tường, vừa có những tình tiết ly kỳ,
hấp dẫn kiểu Dumas, vừa vạch ra được những nét đạo đức vàlý tưởng Bửu Sơn Kỳ
Hương của người Nam Bộ.
Cuốn Người Mỹ ưu tư viết tay, tác giả tự xuất bản tại Paris năm
1968. Khởi đầu in hàng ngày trên nhật báo Sống, theo Hồ Hữu Tường cho biết ở
trang đầu, thì bác sĩ Trần Ngươn Phiêu đã kêu gọi được gần mười ngàn người ký
tên đề cử Người Mỹ ưu tư tranh giải thưởng Nobel. Người Mỹ ưu tư muốn đưa ra
một vấn đề thời sự xã hội rất thương tâm : vấn đề con lai Mỹ-Việt và đòi hỏi
một sự công bằng trong lương tâm tòa án. Để "thay lời tựa", Hồ Hữu Tường viết
năm lá thư gửi văn hào J. Steinbeck , những bức thư này nhắc nhở tác giả
Chùm nho uất hận đến thực tại phũ phàng của những đứa con lai
Mỹ-Việt, đặt câu hỏi với lương tâm của một người đã từng cảm thông nỗibất hạnh
của những kẻ bị áp bức, khốn cùng. Ngày hôm nay, trong lương tâm ấy còn sót
lại giọt nước mắt nào cho những người đàn bà lỡ làng bụng mang dạ chửa đứa con
lai:
"Ông cỡi phản lực mà đi vào chiến trường [...] Nhưng
tôi cũng tin rằng ông không làm sao vào những xóm tồi tàn nhà lụp xụp làm bằng
các hộp bỏ mà nghe những câu chuyện thương tâm của những bà mẹ bóp mũi con chết,
chỉ vì hài nhi có mắt đục, tóc hoe và không cha." (trang 42-43)
Tiếc rằng cuốn Người Mỹ ưu tư tiếp đó lại rơi vào hướng khác. Hướng
của một truyện dài trinh thám với những chi tiết éo le, những nhân vật chính đều
có những hành tung ly kỳ và nhất là Loan Phượng có những nét «phi phàm», khó
chiếm được lòng tin của độc giả.
Sở trường của Hồ Hữu Tường là tiểu thuyết trào phúng. Phi Lạc là một trong
những nhân vật nổi tiếng của tiểu thuyết Việt Nam thế kỷ XX. Chính Hồ Phi Lạc
đã làm "thành danh" Hồ Hữu Tường. Bộ Ngàn năm một thuở gồm 4
cuốn đã in, nhưng chỉ cuốn đầu, Phi Lạc sang Tàu là thành công
hơn cả. Những cuốn sau, viết vội, viết nhiều, đâm nhàm, làm giảm giá trị toàn
bộ.
Là một thứ Ngộ Không made in Việt Nam "thời mơi", Phi Lạc làm nổi bật những
nét "đặc thù" trong "dân tộc tính" Việt Nam: dốt nát, khoác lác, thấy người
sang bắc quàng làm họ, tự cao tự đại nhưng lại ranh vặt và ưa nịnh hót ...
Những nét "đặc thù" này, không chỉ nằm trong "bản chất" Phi Lạc mà dường như
chúng là "nội dung tư tưởng" của toàn thể nhân quần xã hội: từ thằng mõ đến
ông tiên chỉ, từ ông tiên chỉ đến các vị bác học, anh hùng, đời trước, đời này,
thảy đều rất tuồng,rất rỗng, khôi hài và bi đát.
Bi hài kịch của Phi Lạc bắt đầu từ ... nguồn cội: Nó vốn là thằng mõ làng Phù
Ninh, vô học, nhưng trót giả danh dòng dõi họ Hồ, có bà con với Hồ Thơm Nguyễn
Huệ. Sự phét lác của nó đến tai thằng mõ Cổ Nhuế, một tên bịp bợm khác. Nhân
muốn trả thù mõ Phù Ninh, Cổ Nhuế bèn "bán đứt" Phù Ninh cho sư Hồng Hạc, một
vị chân tu người Tàu, được sứ mệnh xuôi Nam, tìm đến "thảo lư" rước Khổng Minh
hiện đại về làm thánh sư, với nhiệm vụ phò Minh đuổi Thanh, phục quốc. Câu
chuyện đưa ta vào một thế đồ bát quái, một thứ tiểu thuyết chiêu hồi lối Tàu,
mà chống Tàu, trong đó tất cả những địa danh, tên người như Phù Ninh, Cổ Nhuế,
Hồ Thơm, Hồ Thích, Phi Phúc, Phi Lạc ... đều có những ẩn nghĩa trào phúng, dây
mơ rễ má với nhau, đều có thể đảo lộn trật tự chính-tà, thật-giả, nhanh như
chớp.
Tại sao sư Hồng Hạc lại có sứ mệnh đi Nam tìm thánh? Ấy bởi bốn câu sấm đồ rằng
của Minh Thành Tổ. Tại sao tìm đến mõ Phù Ninh? Bởi làng Phù Ninh (quê Ngọc
Hân) ắt hẳn phải "sản xuất" ra con cháu ... Hồ Thơm. Tại sao Hồng Hạc lại tin
lời mõ Cổ Nhuế? ( làng Cổ Nhuế vừa nổiá ù tiếng buôn phân vừa ø chuyên sản xuất
nhân tài, Cổ Nhuế xứng danh với Hồ Thơm) vì Hồng Hạc "tham khảo" ý kiến cụ Bác
Cổ Viễn Đông Nguyễn Văn Tố và chính cụ Tố "giới thiệu" mõ Cổ Nhuế cho Hồng Hạc
như một sư phụ chuyên trị "cái biết" mà chẳng cần dựa vào "sách nào, trang
mấy, tờ a hay tờ b, dòng thứ mấy"...
Tất cả những vòng vo rất tam quốc này, nói lên tính chất lằng nhằng, bòng bong
của cuộc sống, nhưng đồng thời cũng bộc lộ tính hú họa, mà người ta thường gọi
là "ngẫu nhiên" của cuộc đời: Sai một ly, đi một dặm. Một sự nói láo có thể
dẫn đến hậu quả hy mã lạp sơn hay tai ương chín tầng địa ngục. Nhất là khi
những cái "hú họa" ấy lại được các vị bác học kim cổ như Hồ Thích đem ra phân
tích và cho nó một "chứng từ" (trường hợp cái tên Hồ Phi Lạc) thì phải biết là
uyên bác.
Phi Lạc sang Tàu là một tác phẩm phản kháng toàn diện. Một sự
nổi loạn chống lại tất cả các hình thức từ chương, khuôn mẫu bào chế tư tưởng,
chế nhạo những sự "mượn nhầm họ" mà họ Hồ là "nạn nhân" thời đại. Sự phản
kháng của Phi Lạc có nguồn gốc sâu xa từ tự ái dân tộc, từ tình yêu dân tộc,
nằm trong máu-óc Hồ Hữu Tường. Ông dùng một nhân vật cùng đinh, cùng khổ: thằng
mõ (Cổ Nhuế hay Phù Ninh), cho nó làm đảo lộn trật tự tiên chỉ, làng xã; nó được
thỉnh sang Tàu, sang Mỹ, sang Nga, như một cố vấn, một vị phu tử; nó làm "khuynh
đảo" những "nền văn minh vĩ đại" bằng sự ... tán dóc, nói láo. Sự đại náo của
Phi Lạc, cũng như sự đại náo của Ngộ Không, tiêu biểu cho cuộc cách mạng thường
trực của tư tưởng: luôn luôn phải đặt lại vấn đề, chống lại những trật tự có
sẵn của những bậc thánh hiền hoặc giả hiền.
Trong Phi Lạc sang Tàu, Hồ Hữu Tường tấn công vào vạn lý trường
thành của một ngàn năm đô hộ: Người Việt đã trở thành một thứ con nuôi của nhà
Hán, sách vở "mở ra thì nếu không phải là "Tử viết"
thì cũng là một anh ba Tàu nào đó viết, chớ không có ai trích lục tư tưởng của
một người Việt nào đó để mà viết."
Đối với Hồ Hữu Tường, sự thần phục người Tầu trên hơn hai ngàn năm, phát xuất
trên núi từ Không Tử, Mạnh Tử, rồi hạ san xuống đến Mao, hậu Mao ... như một
feuilleton hồi đoạn, một sự xuống dốc ăn theo độ trượt không phanh của nước
Tàu.
Để chống lại sự leo thang xuống dốc ấy, Phi Lạc như một con rối, đứng ngã ba
đường, huơ tay, huơ chân, đáng trống, khua chuông, hú hồn những nhà tư tưởng
Việt Nam như Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, như Đức Phật Thày Tân An, như Cống
Quỳnh ... về nhập thế. Họ nhập vào Phi Lạc, nói ra những điều "minh triết"
trong tư tưởng Việt.
Hình thức truyện nhại Tây Du, có chia hồi như Tam Quốc Chí. Cuộc Tàu du của
Phi Lạc gần giống như cuộc Tây Du của Ngộ Không và Hồng Hạc là hiện thân của
Đường Tam Tạng. Tại sao lại đi Nam? Vì "xét ra không
đâu mà Phật giáo được thịnh hành như ở cõi đất Nam này."
Hồng Hạc, muốn phiêu du, bèn vào trong một cái niêu để nhập thiền. Đang phiêu
phiêu thì thấy một đứa trẻ ngâm mấy câu thơ, làm người giật mình tỉnh dậy, té
ra là nó đang đọc Sấm Trạng Trình ... Người bèn theo hướng sấm dẫn dắt mà đi
ra khỏi Sài Gòn, đến Đa Kao gặp Cầu Bông, qua cầu tới một nơi khói hương nghi
ngút. Hỏi ra là đền thờ Tả quân Lê Văn Duyệt. Tả quân thương tình, gọi sư Hồng
Hạc ra mà giới thiệu với nhà khảo cứu nổi tiếng nhất nước Nam là Ứng Hòe
Nguyễn Văn Tố, và chính nhờ sự bác học của cụ Tố mà sư Hồng Hạc tìm được thánh
nhân Hồ Phi Lạc, đưa về Tàu tôn lên làm cố vấn.
Hồ Hữu Tường đã thay Huyền Trang bằng Hồng Hạc, Ngộ Không bằng Phi Lạc và Tây
Trúc bằng làng Phù Ninh. Một sự Việt hóa điển tích và chếø biến kinh điển
thành chuyện tiếu lâm hài hước, trong một thế giới mà Tả quân Lê Văn Duyệt đối
thoại với Ứng Hòe Nguyễn Văn Tố mà thằng mõ Cổ Nhuế, Phù Ninh, trò truyện
chính chị, triết lý, văn chương với Khổng Minh, Hồ Thích. Phi Lạc sang Tàu quảng
bá cho đảng Bửu Sơn Kỳ Hương, cho nó một ý nghĩa lịch sử chính trị trong sự chế
giễu xã hội và các biện chứng của lý trí: đưa Điềm và Sấm ra như
một ý thức dân tộc (duy linh) chống lại cái duy vật vô thần.
Phi Lạc sang Tàu còn là tiếng cười cay đắng
của người dân nhược tiểu, biết mình kém thua đủ đường nhưng vẫn muốn nổi loạn,
tìm chỗ đứng cao nhất trong lòng một cộng đồng nhân loại mà phi lý và
bất công phủ trùm lên tất cả. Đây là một sự phản kháng toàn diện của những người
thấp cổ bé miệng, của những trí thông minh xuất chúng, không tháo gỡ được thân
phận mình ra khỏisự gò ép của những cơ chế cứng nhắc mà tựu trung chỉ là những
trò hề lập nghiêm. Phi Lạc đã đi vào lòng người và sẽ ở lại lâu dài bởi nó đã
cười lên được cái bi đát của những thân phận cùng khốn, những kiếp mõ làng
trong lòng những dân tộc nhược tiểu.
Thụy Khuê
Paris, tháng 5/2003
© Copyright Thuy Khue 2003