Thụy Khuê
Hélène Péras và Hàn Mặc
Tử
"Cả cuộc
đời ngắn ngủi, tan vỡ từ tuổi 24 vì bệnh cùi, Hàn Mặc
Tử đã dành cho thơ, dành cho những tìm kiếm trinh trắng thiết
tha giao hòa một tình yêu tuyệt vọng hướng về những người
con gái đã xa, và cái cõi ngoài của tình yêu trần thế ấy,
ở trong những bài thơ cuối cùng, Hàn Mặc Tử gọi là Thượng
Thanh Khí.
Cho tới tận cùng
của vô vọng, thơ Hàn luôn luôn là một êm ái dịu dàng,
một ánh sáng vô minh, một niềm vui huyền diệu làm cho Hàn
rung động đến phút cuối. Hàn viết: "Vườn thơ tôi rộng
rinh không bờ bến. Càng đi xa càng ớn lạnh".
Những lời trên đây của nhà xuất bản
mà chúng tôi trích dịch ở bìa sau tập thơ Le Hameaux des
Roseaux (1), Ðây Thôn Vĩ Dạ, như lời bạt (2), nói
về nhà thơ mệnh yểu, mất năm 29 tuổi, mà Hélène Péras
đã dịch, và dịch với những rung động đồng điệu của
hai tâm hồn thơ, một Pháp, một Việt, gặp nhau trên cung bậc
tha thiết và bí mật của thi ca.
Hàn Mặc Tử chúng ta đã biết, còn
dịch giả là ai? Bà là ai mà hiểu Hàn đến thế? Ở đây
chúng tôi không tìm đến những chữ hoặc những hình ảnh
đôi chỗ còn có thể bàn lại, bởi vì biết dịch là khó,
dịch thơ lại càng khó hơn. Và dịch thơ Hàn Mặc Tử không
dễ dàng gì. Thường thường những nhà thơ lớn là những
nhà thơ không thể dịch được. Nguyễn Du, từ Nguyễn Văn
Vĩnh đến nay đã có biết bao nhiêu bản dịch Truyện Kiều
sang tiếng Pháp, nhưng thường là các dịch giả mới chỉ
viết thơ Nguyễn Du ra văn xuôi. Hôm nay, đối diện với Le
Hameaux des Roseaux, Ðây Thôn Vĩ Dạ, độc giả
có một tác phẩm của Hàn Mặc Tử được chuyển sang tiếng
Pháp, dưới ngòi bút của nhà thơ Hélène Péras.
Tập thơ này, Hélène Péras đã dịch
với sự cộng tác của Vũ Thị Bích, chứng tỏ mọi khó khăn
rồi sẽ vượt qua với một tấm lòng, và từ nay, độc giả
Pháp có thể tiếp cận với thơ Hàn Mặc Tử qua bản dịch,
có lẽ là đầu tiên này.
Như chúng tôi vừa nói, dịch giả là
một nhà thơ, nhưng trước đó, bà đã đi theo con đường
triết học và y học, rõ hơn, Hélène Péras là bác sĩ phân
tâm, luận án trình năm 1956 có tựa đề La notion d'intuition
en psychopathologie - Khái niệm trực giác trong Bệnh lý học
tâm thần. Thiếu thời đã làm thơ, nhưng nguồn thơ thực
sự trở lại từ những năm 60. Tác phẩm đầu tiên của bà
xuất hiện năm 1978, tựa đề Résonances - Âm Vang.
Tác phẩm thứ nhì, năm 1983, La mémoire et la voix
- Ký Ức Và Tiếng Nói (Arfuyen, 1998). Tập thơ mới nhất
Le
dévoilement - Vén Màn, ngỏ thấy một khoảng trời thơ
mà chất mãnh liệt nằm trong cái dịu dàng. Trước những
hình ảnh có thể là thơ mộng, Hélène Péras vén màn vào những
đau thương không hiểu được của thế giới vô minh, vô định.
Bài thơ tựa đề Việt Nam, làm năm 1993 trong tập thơ này,
đã giao hưởng những khía cạnh dịu dàng, tha thiết mà trào
máu ấy.
Việt Nam, Hélène Péras đã đến từ
khi bà bắt đầu tìm hiểu tiếng Việt gần mười năm nay,
chuyến đi Việt Nam năm 1993 âm ỷ từ lâu, đã làm bà xao
động, và có lẽ từ đó mà có quyết định dịch thơ Hàn
Mặc Tử chăng? Le Hameaux des Roseaux, Ðây Thôn Vĩ Dạ,
là một công phu, một cố gắng trong năm năm trời, với 60
bài thơ chọn lọc trong các tập Lệ Thanh thi tập, Gái Quê,
Ðau Thương, Xuân Như Ý và Thượng Thanh Khí. Bài
Ðây Thôn Vĩ Dạ, thường được xếp vào phần Hương Thơm
trong
tập Ðau Thương, được dịch giả xếp vào
Thượng
Thanh Khí (3).
Hélène Péras không chỉ có dịch mà
bà đã nghiên cứu về Hàn Mặc Tử, về thơ mới một cách
sâu sắc, tận tình. Cuối tập thơ là một tiểu sử Hàn Mặc
Tử, vừa chính xác, vừa kỹ càng. Hélène Péras đọc và viết
tiếng Việt thành thạo, nhưng khi nói bà còn gặp khó khăn
với những cách phát âm, e rằng người nghe khó tiếp nhận,
cho nên bà nghĩ có lẽ tốt hơn hết, bà nói tiếng Pháp, rồi
chúng tôi chuyển sang tiếng Việt.
*
Thụy Khuê: Thưa chị, lý do gì
đã khiến chị tìm đến thơ Hàn Mặc Tử và không là
một thi sĩ khác của Việt Nam?
Hélène Péras: Tại sao tôi lại
đến với thơ Hàn Mặc Tử? Mọi sự xẩy ra như sau: Khi tôi
bắt đầu tiếp cận tiếng Việt, tôi học với chị Vũ Thị
Bích, bạn tôi, chị Bích đưa tôi đọc vài mẩu thơ của
Hàn Mặc Tử và tôi cảm thơ ông từ đấy. Lúc ấy, tiếng
Việt của tôi vẫn còn thô sơ, cho nên tôi phải học thêm,
đào sâu thêm, và dần dần tiến thêm, tôi đọc được thơ
Hàn Mặc Tử, sau đó tôi có ý định dịch và in tập thơ
này, với sự cộng tác của chị Vũ Thị Bích, bởi vì, nếu
không có chị thì chắc tôi đã không hoàn tất được tác
phẩm này.
TK: Chị và chị Vũ Thị Bích
đã làm việc như thế nào?
HP: Ðây là một công việc dàn
trải trên năm năm. Như tôi vừa nói lúc nẫy, bước đầu
là tự tôi, phải đọc và hiểu thơ Hàn Mặc Tử, nhưng dĩ
nhiên, với khả năng tiếng Việt còn non yếu, tôi phải nhờ
chị Bích giúp, nhất là khi tôi dịch mà vấp phải những
từ Hán Việt, hoặc những từ không có trong từ điển, chị
Bích đã giúp tôi tránh dịch phản nghĩa, điều đó rất quan
trọng. Và trong việc chọn lựa 60 bài thơ, chúng tôi cùng
chọn với nhau. Tại sao lại 60, mà không 70 hay 50? Là bởi
tôi có tham vọng in cuốn thơ này vào năm 2000, năm giỗ thứ
60 của Hàn Mặc Tử. Lục tuần là một con số quan trọng
trong tuổi thọ, tuổi đời đối với người Việt. Năm đó
lại là năm Canh Thìn, và cả một chu kỳ vừa chấm dứt để
bắt đầu một kỷ nguyên mới. Do đó, trong thâm tâm tôi muốn
tặng tác phẩm này cho Hàn Mặc Tử ở sinh nhật lục tuần
ngày ông ra đi, cho nên số 60 là sự lựa chọn có ý nghĩa
huyền bí.
TK: Tại sao chị lại chọn thể
thơ tự do trong khi thơ Hàn Mặc Tử có vần điệu?
HP: Ðơn giản thôi: Bởi vì việc
chuyển ngữ sang thơ Pháp có vần sẽ đưa đến rất nhiều
phản nghĩa. Hơn nữa, cũng không thể chuyển từ một ngôn
ngữ đơn tiết như tiếng Việt, với những câu thơ bẩy chữ,
tám chữ, sang một câu thơ tiếng Pháp đều đặn, mà chữ
Pháp như ta đã biết, thường đa tiết, làm như thế sẽ không
tránh khỏi việc phá vỡ ý và lời thơ. Tôi nghĩ rằng trong
việc dịch, chúng ta phải rất khiêm nhượng, cố gắng nói
lên bằng giọng người dịch, cái tiếng của nhà thơ, chứ
không được áp đặt một cách giả tạo những vần điệu
không ăn nhập gì với ngôn ngữ thơ của tác giả.
Trong câu chuyện ngoài lề, Hélène Péras
đã nói nhiều về trường thơ loạn, về Chế Lan Viên, Yến
Lan, Bích Khê, như thể một dịch giả, ngoài việc tìm hiểu
nhà thơ mà mình dịch, còn phải đi xa, đi càng xa càng hay,
về những bối cảnh xung quanh nhà thơ, về thời đại của
tác giả và về những người cùng thời với tác giả. Những
nhận thức đó của Hélène Péras dẫn chúng tôi đến câu
hỏi: |
TK: Chị nghĩ gì về "Trường
thơ loạn", về những người bạn của Hàn Mặc Tử như Chế
Lan Viên, Yến Lan, Bích Khê... mà chị rất biết về họ?
HP: Thời kỳ ấy, như mọi người
đã biết, là một thời kỳ lịch sử đầy xao động, khó
khăn và những biến cố lịch sử kinh hoàng của thế giới
đang ngấm ngầm chuẩn bị. Tôi rất xúc động nhìn thấy,
giữa những xáo động ấy, có một nhóm người Việt trẻ
tuổi, sau này trở thành nhóm nhà thơ trẻ Bình Ðịnh, xoay
quanh Hàn Mặc Tử; họ trao đổi với nhau, đưa ra những tranh
luận sôi nổi về thi ca, những người viết trẻ này rất
quý mến nhau, họ say mê thể loại Thơ mới vừa ra đời ít
lâu trước đó, nhưng phải nói là nhờ họ mà phong trào Thơ
mới được mở rộng: những cấm kỵ, những niêm luật khắt
khe của thơ đường luật đã tan vỡ để nhường chỗ cho
một cách diễn đạt mới, một trữ tình cuồng nhiệt và
thành thực, và tôi nghĩ rằng những điều đó rất đáng
được chú ý. Trong số những người ấy phải kể Chế Lan
Viên, Yến Lan, sau nữa là Bích Khê và Quách Tấn, bạn thân
của Hàn Mặc Tử. Tuy Quách Tấn là một nhà thơ cổ điển,
nhưng ông vẫn giữ mối liên lạc chặt chẽ với nhóm này.
Hiện tượng những nhà thơ trẻ này cần được nghiên cứu
một cách cẩn trọng, nhất là người ta tìm thấy trong ngôn
ngữ thơ của Hàn Mặc Tử, những điểm mà người ta lại
thấy trong cách diễn tả của những người khác. Ví dụ có
những điểm tương đồng trong thơ Hàn Mặc Tử và Bích Khê,
Hàn Mặc Tử và Yến Lan. Tôi nghĩ rằng đây có một hiện
tượng mà người ta gọi là liên văn bản - l'intertextualité
rất thú vị.
TK: Trong thơ Hàn Mặc Tử, chị
có thấy một liên hệ tương quan nào đó giữa Hàn Mặc Tử
và những thi sĩ lớn của Pháp, như Baudelaire chẳng hạn?
HP: Tôi nghĩ rằng phải cân nhắc
kỹ khi trả lời câu hỏi này. Dĩ nhiên là có dấu ấn của
việc đọc những nhà thơ lớn của Pháp, những nhà thơ lãng
mạn, hậu lãng mạn và tượng trưng. Nhưng nếu có những
dấu vết ấy thì nó đã được tiêu hóa nhuần nhuyễn, được
hội nhập sâu xa, trong tinh thần và cảm xúc thi ca Việt Nam.
Chắc chắn là qua những tiếp xúc với các nhà thơ Pháp, có
sự giàu thêm, phóng khoáng hơn, tự do hơn, về cách diễn
tả những trữ tình và cảm xúc, nhưng ở Hàn Mặc Tử không
bao giờ có sự bắt chước hay sao chép dưới bất cứ hình
thức nào, mà ảnh hưởng này đã tan ra, biến vào thơ ông,
để trở thành một nghệ thuật hoàn toàn Việt Nam.
Lúc nãy chị có nhắc đến Baudelaire,
tất nhiên là có dấu vết Baudelaire, ngoài ra, chính Hàn
Mặc Tử cũng đã giải thích điều đó trong một bài viết
về quan niệm thơ của ông. Trong bài này, Hàn vừa công nhận
món nợ với Baudelaire, lại vừa giữ khoảng cách với Baudelaire,
mà theo ông tự nhận xét, thì những đam mê của mình nghiêng
về tinh thần, còn ở Baudelaire, những đam mê nghiêng về thể
xác. Dĩ nhiên là ở Hàn Mặc Tử cũng có những đam mê thể
xác, rất mãnh liệt nữa, nhưng chúng luôn luôn hướng thượng,
về phía đạo. Chúng ta đừng quên Hàn Mặc Tử là nhà thơ
công giáo, và điều này là cốt yếu trong tác phẩm của ông,
nhất là trong phần cuối, ông đã nuôi dưỡng nguồn thơ của
mình, không những qua thi ca mà còn qua cả thánh kinh, phúc âm,
qua các lễ thức thánh giáo nữa.
*
Câu chuyện đến
đây đã dài, Hélène Péras muốn từ giã thính giả bằng hai
bản dịch thơ mà chị đã lựa:
Gái quê
Xuân trẻ, xuân non, xuân lịch sự
Tôi đều nhận thấy trên môi em
Làn môi mong mỏng tươi như máu
Ðã khiến môi tôi mấp máy thèm
Từ lúc tóc
em bỏ trái đào
Tới chừng
cặp má đỏ au au
Tôi đều nhận
thấy trong con mắt
Một vẻ ngây
thơ và ước ao
Lớn lên em đã biết làm duyên
Mỗi lúc gặp tôi che nón nghiêng
Nghe nói ba em chưa chịu nhận
Cau trầu của khách láng giềng bên.
Hàn Mặc Tử |
|
|
La jeune fille du village
Le printemps jeune, tendre, sage,
Je le reconnais sur tes lèvres,
Tes lèvres fines, éclatantes de vie
Qui font frémir les miennes de désir
Depuis le
temps où tu laissais les mèches de tes cheveux
Frôler
tes joues vermeilles
J'ai toujours
vu dans tes yeux
L'innocence
et l'espoir
En grandissant tu as appris le charme
Chaque fois que tu me rencontres tu te caches
en inclinant ton chapeau
On dit que ton père ne consent pas encore
À recevoir de l'étranger voisin l'arec et le
bétel.
Hélène Péras dịch |
Ðây thôn Vĩ Dạ
Sao anh không về chơi thôn Vĩ
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt qua xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền
Gió
theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?
Mơ khách đường xa, khách đường
xa...
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?
Hàn Mặc Tử |
|
|
Voici le Hameau des Roseaux
Pourquoi ne pas retourner au Hameau de Roseaux
Voir le soleil levant sur les rangs d'aréquiers
Un jardin tout luisant comme de jade vert
Le visage parfait au travers des bambous.
Le
vent suit le chemin du vent, les nuages la route des nuages,
Tristesse
de l'eau qui coule, frémissement des mais en fleurs,
À
qui est cette barque à l'amarre là-bas aux rives de la lune
Et
pourra-t-elle à temps la transporter ce soir?
Rêve le voyageur sur la route lointaine, lointaine...
Ta robe est par trop blanche, je ne la discerne
pas
Ici les êtres sont voilés de brume et de fumée
Qui connait la profondeur d'un tel amour?
Hélène Péras dịch |
Thụy Khuê thực hiện,
phát thanh trên đài RFI ngày 27/04/2002
Chú thích:
(1) tập thơ song ngữ Pháp Việt do Hélène Péras và Vũ Thị
Bích dịch, nhà xuất bản Arfuyen, Paris 2001.
(2)Chú thích của Hélène Péras: Người xuất bản Gérard
Pfister cũng là nhà thơ, đã viết lời bạt ở bìa sau.
(3) Chú thích của Hélène Péras:
Trần Thanh Ðịch, trong
Lời
nói đầu tập Ðau Thương (1993), khẳng định trên
cơ sở bản gốc: " Ðây Thôn Vĩ Dạ:
Bài này Hàn Mặc Tử đặt vào tập Thượng Thanh Khí".