Truyện ngắn Ẩm Ướt Những Cơn Mưa, theo lời
tác giả là truyện ngắn khai bút của Mai Ninh(1), đã
xác định một phong cách viết: hướng về những niềm đau
sâu khuất của con người. Từ truyện ngắn này, chớm nở
những mảnh puzzle Mai Ninh, những mẩu cô đơn mọc lên trong
trời đất: đó là những phận người, cùng yêu, cùng sống,
nhưng không thể "đột nhập" vào địa phận của nhau, vào
bề dầy tâm thức của nhau; như chàng tóc dài và chàng họa
sĩ, một cặp tình trai mở quán ăn có cái tên rất lạ "Vali
tham ăn"; như Lise và cô bạn, một cặp tình gái; như M., người
xưng tôi trong truyện, đan đậm những cô đơn và bí mật
gần gụi vóc dáng tác giả.
Mai Ninh dường như muốn khai mở phần đất cô đơn
trong hồn mình, hồn người, như một vùng bí mật, thẳm sâu,
đầy chông gai trở trắc, đầy huyết mạch thông lưu, nhưng
đồng thời cũng lại muốn rắc lên nó một lớp sương mù,
muốn vọng về nó như một tuyệt vọng.
Tất cả những nhân vật này gặp nhau, thử yêu thương,
thử tìm hiểu, thử tình bạn, thử tình yêu, nhưng rồi tất
cả đều chỉ là sống "thử". Những khối cô đơn ấy không
thể tan nhập vào nhau, dù họ có thay đổi cách kết hợp
cuộc sống, từ đồng tính trở sang lưỡng tính, để làm
vừa lòng một xã hội lắm điều, hay để làm vừa ý cái
"lương tâm xã hội" của mình.
Những cá nhân "mất hướng", "lệch trục sống" ấy,
dù có muốn tìm một hướng mới, "chính trục" hơn, cũng là
ảo vọng, họ chỉ tìm được những kết hợp tạm thời,
chờ lần chia tay sắp tới. Từ Mai Ninh, người đọc tiếp
nhận những nỗi đau sống hợp âm trong một tấu khúc đớn
đau, rồi tất cả lịm dần, chìm đi, tắt ngấm như những
nỗi chết của tâm hồn. Nỗi đau riêng của những mối tình
trai, tình gái đã thăng hoa thành nỗi đau chung của tình người.
Truyện ngắn Hợp Âm Trong Vùng Sân Khuất(2) là
một khúc tứ tấu cho nỗi cô đơn đó. Bốn thân phận chia
nhau một khoảng sân: Một ông già, một cô gái, một cậu
thanh niên, một gã trung niên. Gã trung niên chủ quán, cỡ 40
tuổi, người gốc Ý, ưa huýt sáo bản Come back to Sorrento buổi
chiều; ông già tối nào cũng nghe bản Concerto thứ 26 của
Mozart. Cậu thanh niên chừng 20 tuổi, hình như người Bắc
Âu, hình như học Beaux Arts, có biệt danh B.A, ưa bạn trai và
nhạc Jazz và cô gái rơi xuống như một fausse note: nhân vật
xưng tôi, sống một mình, nàng ưa giọng Barbara, Brel, Beattles,
Baez...
Họ chia nhau một cái sân, cùng tấu với nhau một
đoản khúc. Dạo đầu là sự lạ lẫm, gắt gỏng, trống
đánh xuôi, kèn thổi ngược. Nhưng khi họ đã quen với những
giờ giấc và tập tính trái khoáy của nhau, đã "hợp âm"
rồi, thì bắt đầu khuất biệt. Chủ quán Sorrento, về Ý
tang mẹ. Anh chàng đẹp trai BA thưa dần khách trai và ít xuống
lầu. Ít lâu sau BA chết. Hợp Âm Trong Vùng Sân Khuất
giao hưởng âm thanh, màu sắc và mùi hương của những mẩu
đời cô đơn và lạc lõng này.
Spaghetti đi, đem theo hương chanh, hương cam, hương
bưởi về Sorrento gập ghềnh và thơ mộng. Bắc Âu phóng đãng
đem về cõi chết nỗi bí mật trong nếp sống Beaux Arts tự
do buông thả của mình, còn lại cô gái và ông già tóc trắng
với những vết thương của những "cảnh
sống âm thầm trượt qua nhau" (trang 51), không bắt
được nhau, và cũng không nhập được vào dòng sống.
Mười truyện ngắn, mỗi truyện như cời thêm vào
vết thương thắm đỏ, khơi rách mãi ra. Mỗi nhân vật của
Mai Ninh vừa là đơn âm của nỗi buồn, vừa là hợp âm của
những đợt sóng đời xô đẩy. Họ là những vết hư
ảo của cuộc đời, tình cờ gặp nhau, chạm nhau, trong một
không gian mù sương bất định. Những buổi hẹn định trước,
thường lỗi hẹn, người được chờ thường không đến,
như Luân, trong truyện ngắn Ðêm Rượu Ðợi, chờ đợi bóng
mình. Mà cũng lại như có một khoảng cách vô hình và vô
tình nào đó luôn luôn sẵn sàng ngăn trở người gần lại
với người, cũng lại như có một phép màu nào khác làm những
nhân tố, chẳng hẹn, chẳng định trước, xích lại gần
nhau:
"Không ngờ, giữa không gian hư
ảo sương mù nửa đêm, trên cõi sông nước, đá cổ mơ hồ
này tôi lại đứng bên nàng, thật gần, cơ hồ chạm cả
vào vuông khăn trắng cứ chực bay theo làn gió nổi đưa từ
biển. Tôi định nói một câu gì thật nhẹ, lại thôi. Nàng
lặng yên, quay người xuống cầu, tà áo lụa cuốn theo bước
chân thăn thoắt. Thoáng chốc bóng tím như biến như hiện
chấp chới giữa các ngõ ngách đường đi lẩn khuất. Tôi
có thể đi nhanh để bắt kịp nàng nhưng tôi chậm lại, bỗng
thấy nàng như con bướm đêm trở về giữa gạch đá ẩm
đục của biển đầm để tìm một nhụy hoa đã mất"
(Biển Ðầm, trang 87)
Những nhân vật của Mai Ninh, ít nhiều đều là những
cánh bướm đêm, như Mélisa, như Luân, như G, như M, như N,
họ vần vũ trong một không gian nhục cảm thiên nhiên nửa
hư, nửa thực:
"Thành phố này mọc từ biển
lên núi, vừa nhấp nhô khép mình ẩn náu lại chĩa đứng
sỗ sàng. Biển xanh dưới chân chừng hoang mang, cứ chực men
lên, hớp lấy những màu tường hồng đủ gam đậm nhạt"
(Vách Mận Trắng, trang 116)
Hình như Mai Ninh đang cầm bút lông vẽ một bức tranh
chuyển động bằng lời khiến người đọc có thể hình dung
một Sorrento, hay một Le Mont Saint Michel... mọc lên từ biển.
Những thành phố này có những giác quan dị lạ:
"Có những trưa nằm im, chim chóc
ngủ. Tôi leo lên thành cửa sổ rộng, ngồi đó, chông chênh
ngó nắng. Tháp chuông nhà thờ trắng trinh vượt rời những
lớp nhà gợn hồng lên xuống. Biển bình an hút tôi về chân
trời, giao tuyến của thực và ảo. Mênh mông đấy nhưng vẫn
là hình ảnh một khoảnh khắc. Trời vừa kéo sang xuân, cây
cối lửng lơ màu tươi non. Mái ngói đỏ cũng nhòa đi trong
ánh sáng. Chỉ có vách núi mang mãi một sắc thẫm sâu, nặng
chùng của đá. Hàng mận mọc cao trước núi đã báo mầm
thức giấc cùng tôi, bồn chồn.
Váng vất chưa qua bỗng đâu cơn
gió quạt tới bất ngờ. Khi tôi quay trở lại căn nhà, những
nụ hoa mận mọng búp mà tôi nổi hứng phác chơi trên tấm
bố trước khi đi bỗng nhiên bị nở tung bềnh bệch."
(Vách Mận Trắng, trang 121)
Nhân vật xưng tôi, trong đoạn văn trên đây có thể
là một người, cũng có thể là một con mèo hay bất cứ một
vật thể nào khác "chông chênh ngó nắng". Và những vật thể
như cây mận, chưa chắc đã là mận thật hay chỉ là mận
trong tranh. Mai Ninh lồng không gian thực vào tranh, rồi nhấc
chúng từ tranh ra như một sinh vật sống. Ở chỗ đó, người
viết đã phù ảo hóa những vật thể quanh mình, làm tĩnh
cái động, làm động cái tĩnh để tạo thành một thế giới
Mai Ninh đẹp, lạ, liêu trai và bí mật.
*
Mây Một Ngày là một chuyện hóa thân. Hai nhân
vật nữ, cùng ẩn một bóng tên: Mây và Vân, sống một ngày
trọn vẹn với nhau trong xác và hồn, giữa mơ và thật. Có
thể gọi là fantasme, gọi là liêu trai. Gọi là gì cũng được
nhưng trước hết là một phân thân: "Mây
bây giờ đẫm mùi quen thuộc, mùi của chính tôi(3) của kem
thoa da và nước hoa táo xanh tôi ưa thích." (Mây Một
Ngày, trang 15)
Sự phân thân này dẫn đến một hóa thân toàn bích:
"Tôi,
trong quần jean và áo thun ngắn, khác Mây, với bộ bà ba vàng
nhạt. Tôi vắt chanh vào hai tô phở, Mây lùa đũa vài ba lần,
liếc gã đàn ông mắt dài làm tôi đâm bực, giục ăn đi.
Mây bỗng đẩy ngay bát phở qua bên, giọng gọn lỏn. Không
ngon bằng phở bà Lùn. Tôi bật cười. Sao không bằng. Mây
chẳng đáp, cúi xuống mân mê cọng giá trắng muốt. Ðột
nhiên nàng nói to. Phở bà Lùn năm trăm một tô, mẹ bảo Vân
gửi cho Mây một ngàn, Mây ăn năm trăm, còn để dành cho cu
Tuấn. Rồi tự dưng Mây trợn mắt giận dữ. Mấy người
nói láo, lường gạt, ta biết nó chết, nó chết lâu rồi
phải không? Người đàn ông răng vàng không cười nữa..."
(Mây Một Ngày, trang 16)
Ðó là không khí Mai Ninh, một vùng thực ảo chắp
nối, một vùng sống chết kết hợp. Chú ý đến những cử
chỉ của Tôi và Mây: rõ ràng có hai "người": một người
mặc quần jean, áo thun khác với một người mặc bộ
bà ba nhạt. Nhưng nếu đã là hai người thực, thì tại sao
lại phải có chữ "khác" ở đây? Chính cái chữ "khác" ấy,
đã nói lên tính chất "chối", tính chất "lừa", lừa mình
(tác giả) và lừa người khác (độc giả), về thực chất
của không khí Mai Ninh: Một mà hai, hai mà một. Những động
tác nối tiếp sau đó là của một người mặc dù với hai
chủ thể:
"Tôi vắt chanh vào hai tô phở,
Mây lùa đũa vài ba lần... Mây bỗng đẩy ngay bát phở qua
bên ... Mấy người nói láo, ta biết nó chết..."
Có một chủ thể chính đang ngồi trước bát phở,
nhưng động tác và suy nghĩ của người này lại bị chi phối
bởi một "chủ thể" khác, như một thứ "lệnh" phát ra từ
tâm linh, từ ý thức hay tâm thức của cái thể xác kia. Ðồng
thời, hợp âm của cái linh và cái xác kia lại cùng bừng
tỉnh một lúc để nhận thấy "mình" tức là "nó" đã chết
rồi, chết lâu rồi.
Sự "ngộ" này cho thấy ít nhất có hai "mơ" chùng
chập. Một kẻ xé hai: cô đơn nói chuyện với cô đơn, sống
nói chuyện với chết. Tạo nên một cách "vọng" mới: vọng
hồn, vọng xác. Một thế đồng thiếp trong tâm hồn, có thể
xẩy ra cho bất cứ ai mà không để lại dấu vết "hiện hữu".
Chỉ có một mình mình biết, một mình mình hay. Mai Ninh tạo
ra thế giới đó, một thế giới: Chỉ có mình mình biết.
Mình mình hay.
*
Ở một khía cạnh trần thế hơn, hầu như tất cả
những chất liệu biển, đá, mưa, nắng, cô đơn, nỗi buồn,
cái chết... kết hợp nhau trong chữ nghĩa để tạo thành những
nhân vật của Mai Ninh. Cái mà tác giả gọi là hợp âm, chính
là hợp âm của những chất liệu này: Chất liệu đầu tiên
là biển với hai thành tố nước và sóng, chúng chao đảo
trong toàn bộ truyện ngắn của Mai Ninh như một từ trường
nguyên thủy. Và chất liệu sau cùng là cái chết, cái chết
ở đây là lối mở, mở vào cái ảo, cái không biết, cái
vô cùng.
Biển và chết, tự khởi thủy đã là nguồn cội
của những giấc mơ. Bachelard có những dòng thật hay về biển
và chết: "Như thế, sự vĩnh biệt ở
bờ biển vừa là vĩnh biệt đau đớn nhất và cũng văn chương
nhất trong những vĩnh biệt. Chất thơ của nó khai thác cái
đáy sâu, xưa của hào hùng và mơ mộng. Nó đánh thức trong
ta những vang âm đau thương nhất. Tất cả khía cạnh tâm
hồn đêm tối của chúng ta được giải thích bằng huyền
thoại của cái chết, xây dựng như một cuộc khởi hành trên
nước. Ðối với người mơ mộng, khởi hành và cái chết
sẽ chuyển hóa không ngừng. Với một số trường hợp mộng
mơ khác, nước là một chuyển động mới mời gọi vào những
chuyến đi chưa thực hiện bao giờ. Cuộc khởi hành hữu hình
này kéo ta khỏi cuộc sống hữu hình trên trái đất. Cao thượng,
dị kỳ biết bao, câu thơ sau đây của Baudelaire, chứa đựng
một hình ảnh bất ngờ, như muốn đột nhập vào hồng tâm
của mỗi bí mật trong ta:
Hỡi thần chết! Thuyền trưởng
cố tri, giờ đã điểm! Hãy nhổ neo!"(4)
Thâm ngôn của Bachelard dường như được viết ra để
giải thích nhiều trạng thái phức tạp của tâm hồn liên
quan đến giấc mơ và biển cả.
Biển và cái chết đã là nền tảng cho bản giao hưởng
của Mai Ninh trong Mưa Ðá Âm Dương, tạo nên những nét
nhạc bấp bênh, bên bờ vực thẳm của tử thần, bên bờ
vực sâu của trời đất, trong cái vũ bão của sóng, gió và
mưa... Cuộc đi trẩy từ một vùng biển hữu hình nào đó,-sao
chẳng Normandie?- dữ dội, sóng luôn luôn gầm thét, thịnh
nộ, những cơn bão sóng, những cơn gió hú vọng về từ vực
sâu trầm khuất dưới đáy đại dương hay đến tự trời
như những cơn mưa tận thế.
"Phượng đứng chết rũ trên
mặt cát cuốn xoáy. Nước dâng lên ào ạt rồi rút đi tức
khắc thành luồng chảy xiết. Mưa như chưa bao giờ mưa thế,
như biển sắp cạn khô nên trời đất nổi cơn cứu độ.
Mưa táp tơi bời cùng gió. Phượng dang hai cánh tay, chiếc
poncho ròng nước phần phật tung bay. Cánh vẫy thành dơi, dơi
hoang từ núi khuất chỉ xuất hiện giữa ban ngày khi mặt
trời bị dìm chết trong mưa ủng xám. Phượng mở miệng đón
những hạt nước rớt từ trên không, nhỏ dòng từ đầu
mũi và cuốn chùm tóc vắt qua môi. Nước có vị mặn chát
của sự rã rời và của những ruộng muối trải dài trên
con đường nàng đã đi qua. Hai cánh dơi chao đi trong ngọn
gió bỗng chuyển chiều, vật xoài Phượng úp mặt vào lòng
cát." (Mưa Ðá Âm Dương, trang 106)
Ai đã từng đặt chân đến Le Mont Saint Michel, đến
thăm gió, sóng với những bí mật của vùng này sẽ thấu
được nỗi buồn trong Mưa Ðá Âm Dương. Không chắc gì Mai
Ninh đã có chủ đích viết về vùng biển này, hay về một
Sorrento u tịch và trắc trở khác, nhưng biển, nơi Mai Ninh,
như phát tự tâm, từ hồng tâm bí mật của con người. Từ
biển, phát xuất một từ trường, bào ảnh của một cuộc
đi, một cuộc tình dữ dội giữa đá và biển, giữa Phượng
và Kình, giữa âm và dương.
Như bước vào cõi nguyên khai, như đi thẳng từ truyền
thuyết, Phượng Hoàng được Kình Ngư đẩy vào "cuộc hành
trình đi tìm cửa nguồn khởi từ đêm ấy".
Cuộc chạy tìm này cũng là cuộc đuổi bắt giữa
con người và định mệnh. Ngư, kình cá chạy trốn định
mệnh của mình. Ðịnh mệnh ác nghiệt của một ngày, một
giờ, một phút, một giây đã chao đảo cuộc đời Ngư, đã
chia rẽ anh em Ngư, đã tuyệt tình Ngư-Phượng. Ngày ấy, hai
anh em Ngư còn trẻ, chạy chơi trên vùng biển núi hoang
dại. Thằng em dương nỏ bắn chim, người anh đứng trên đồi
chênh vênh ngắm nhìn trời nước và vực thẳm.
Một con phượng hoàng lướt qua, bay về phía người
anh, em giơ nỏ bắn "viên đạn đá nhọn
hoắt lao đi. Chỉ một giây thôi, một tiếng kêu thất thanh
rớt đi từ trên đồi, rút xuống vực, rồi tắt ngấm. Cùng
lúc ấy, con chim may mắn thoát đạn đập cánh hoảng hốt
bay vút lên ngọn cây." (Mưa Ðá Âm Dương, trang 113)
Người bắn chim là Ngư và con chim là Phượng.
Sự gặp gỡ xé thân, bất thần và xuất thần dữ
dội như mũi tên hòn đạn giữa Phượng và Ngư mở đầu
một cuộc tình, một cuộc tìm kiếm những vết thương, khởi
thủy những bí mật của cuộc đời. Sau sự trao thân đớn
đau "Phượng xõa tóc, hai cánh tả tơi
bay về phía mặt trời lóe sáng." (trang 113) và "Ngư
đột ngột bỏ đi, cơ thể cuộn dài như thân cá, duỗi theo
dòng nước rút ra biển" (trang 106).
Mưa Ðá Âm Dương là một thể nghiệm bút pháp
rất mới mà nhiều hình thức tư tưởng huyền thoại triết
lý Ðông Tây gặp gỡ trong một bài thơ hội họa dài: Hai
nhân vật chính, Phượng và Ngư là những ảo vật, luôn luôn
biến dạng, thoát thân, từ hình này sang hình khác, từ thân
này sang thân khác, lúc họ là chim, là cá, lúc họ là đá,
là sóng, lúc họ là cát, là biển, lúc họ là đêm, là ngày,
là núi cao, là vực thẳm.
Bản tình ca tha thiết của nhục thể, quằn quại,
chênh vênh quyến rũ mê hoặc đưa nhau vào cõi chết. Họ gặp
nhau trong hành động hủy diệt đầu tiên: Ngư cầm súng bắn
Phượng và hai kẻ cô đơn, thương nặng ấy tìm nhau trong
hủy diệt cuối cùng: sự nhập hồn giữa tình yêu và cái
chết.
Paris tháng 3/2001
Thụy Khuê
Chú thích:
1. in trên Hợp Lưu số 36, tháng 8 và 9 năm 1997
2. trong tuyển tập Hợp Âm Trong Vùng Sân Khuất, Thời
Mới, Toronto, Canada 2000.
3. tôi là Vân
4. L'eau et les rêves, Bachelard, Biblio Essais - Poche 1998,
trang 90