Thụy Khuê

 Ngày lễ Độc Lập

Tên tuổi Nguyễn Hữu Đang đã gắn liền với hai chữ tranh đấu: tranh đấu giành độc lập cho tổ quốc, và tranh đấu cho tự do và dân chủ. về hành trình dài và cam go này, nhà cách mạng lão thành sẽ dành riêng cho thính giả RFI hai chương trình đặc biệt. Chương trình hôm nay nói về ngày mùng 2 tháng 9 năm 1945, ngày lễ Độc Lập mà ông được cụ Hồ giao phó cho trọng trách Trưởng ban tổ chức. Trong chương trình chủ nhật tới, mùng 10 tháng 9/1995, ông Nguyễn Hữu Đang sẽ nói về phong trào Nhân Văn Giai Phẩm.

Thụy Khuê: Thưa ông Nguyễn Hữu Đang, 50 năm sau ngày mùng 2 tháng 9 năm 1945, có lẽ hiện nay không ai có thẩm quyền hơn ông để nói về ý ,nghĩa của ngày lễ này vì chính ông đã là trưởng ban tổ chức ngày lễ Độc lập mùng 2 tháng 9.

Nguyễn Hữu Đang: Thưa bà, khi tôi được chủ tịch Hồ Chí Minh trao nhiệm vụ tổ chức ngày này, lúc bấy giờ chủ tịch cũng như Trung ương đảng đề ra chỉ là một ngày lễ để chính phủ lâm thời ra mắt quốc dân, đồng thời đọc một bản tuyên ngôn độc lập đối với dân trong nước và đối với cả thế giới. Sau đó, tôi cùng với ban tổ chức trao đổi ý kiến, muốn nâng cao giá trị ngày lễ đó lên cho nên chúng tôi đã đặt tên nó là Ngày Độc Lập để nói lên ý nghĩa trọng đại của ngày hôm đó trong lịch sử Việt Nam. Ngày Độc lập đó có bốn tính chất như thế này: Một là tính chiến đấu của nó, hai là tính khẩn trương của nó, bà là tính nhân dân của nó, thứ tư là tính độc đáo của nó. Tính chiến đấu của nó là do tình thế nghiêm trọng của nước Việt Nam lúc bấy giờ. Từ năm 1943, chính phủ lâm thời kháng chiến của Pháp thành lập ở Alger, tướng de Gaulle đứng đầu chính phủ, lập tức nghĩ ngay đến việc thu hồi lại thuộc địa đã mất, quyết tâm lấy lại Đông Dương bằng vũ lực. Chính phủ de Gaulle, khi đưa lực lượng vũ trang sang chuẩn bị lấy lại Đông Dương, phất cao ngọn cờ gọi là chính nghĩa của mình, đánh bọn giặc cỏ phiến loạn. Điều đó làm cho nhân dân Pháp hiểu nhầm cách mạng Việt Nam. Chúng tôi không được sự ủng hộ của nhân dân thế giới và nhân dân Pháp, cho nên vấn đề là phải chính thưc hóa nhà nước mới, chính thức hóa chính phủ lâm thời để thế giời trông vào, biết rằng chính nghĩa là thuộc về chúng tôi chứ không thuộc về thực dân Pháp. Chính thức hóa một nhà nước mới và một chính phủ được nhân dân ủng hộ. Tất cả hai điều đó, chúng tôi long trọng công bố trước nhân dân trong nước cả thế giới. Ngoài những khó khăn do phe thực dân gây ra còn có một cái khó khăn cực lớn của Trung quốc, chính phủ Tưởng giới Thách. Ngày mùng 9 tháng 8, chính phủ Trung quốc tuyên bố sẽ đưa quân vào Đông Dương để giải giáp quân Nhật theo quyết định của Hội nghịa Postdam tháng 7 năm 1945. Tiếp theo, ngày 27 tháng 8, quân Tàu Tưởng thuộc quyền chỉ huy của tướng Lư Hán, vượt biên giới Hoa Việt vào nước ta. Theo chân họ có các tổ chức Việt Nam Quốc dân đảng của Vũ Hồng Khanh, Nguyễn Tường Tam và Việt Nam Cách mạng đồng chí hội của Nguyễn Hải Thần. Quân của Lư Hán cùng với hai đảng chống Việt Minh, chống từ trước chứ không phải về sau đâu, không dự vào mặt trận đoàn kết, mặt trận đánh Pháp bao giờ cả, hai đảng ấy chống Việt Minh đến cùng, nguyện cuộc tấn công của phe thực dân Pháp đã là một mối đe dọa lớn với nền độc lập của chúng ta rồi, thêm vấn đề Trung quốc vào đấy lại còn nguy hiểm hơn nữa. Tính chất khẩn trương là như thế. Tính chiến đấu đã nói rồi. Còn tính nhân dân thì cũng gọn thôi vì sau khi chúng tôi đang thông cáo, nhân dân ủng hộ, tham gia rất tích cực, người góp của, người góp công. Tất cả việc chúng tôi làm đều không có phương tiện của nhà nước, mà toàn là phương tiện của nhân dân đem đến cả. Đấy là tính nhân dân. Tính thứ tư là tính độc đáo thì chúng tôi tổ chức một buổi mít-tinh huy động thành phố Hà Nội, huy động tất cả mọi người, không trừ mùột ai cả, coi như thành phố thiết quân luật, nhân dân đi mít-tinh, đi từ nửa đêm, cơm nắm muối vừng, đi từ sáng sớm cho đến tối đêm mới trở về nhà. Đó là một tính độc đáo mà sau này không ai làm như vậy cả.

 

T.K.: Thưa ông, ông đã làm sao để có thể tổ chức một ngày lễ lớn như thế?

N.H.Đ.: Vấn đề là chúng tôi bắt đầu việc tổ chức như thế nào. Hồ chủ tịch, khi giao như thế  thì chỉ còn có 4 ngày nữa thôi. Bốn ngày mà làm việc lớn như thế, không phải là tổ chức ở Hà Nội đâu, mà tổ chức trong cả nước, thì bốn ngày làm sao đủ để làm được, nhất là lúc bấy giờ chúng tôi không có bộ máy gì cả. Ông cụ giao cho tôi một mình, về rồi tôi tập hợp một số anh em, phương tiện thì chỉ có hai bàn tay trắng, một đồng xu không có, một ki-lô gỗ, ki-lô xi măng cũng không có thì làm thế nào bây giờ trong hoàn cảnh khó khăn quá như vậy. Tôi có nói là còn ít ngày nên khó quá thì cụ lại bảo có khó mới giao cho chú chứ. Qua câu đó tôi biết là khó cũng phải làm, mà làm ngay. Tôi hiểu không thể hoãn, không thể chậm được. Khi giao việc như thế, lúc bấy giờ cũng đã 10 giờ đêm rồi, tôi lập tức trở về bộ Tuyên truyền. Ở thời điểm đó chưa thành lập chính phủ có phân công bộ nọ bộ kia, lúc bấy giờ tôi tạm thời đảm nhiệm thứ trưởng bộ Tuyên truyền. Tôi chạy về bộ Tuyên truyền, gọi dây nói cho các tờ báo, tôi đọc ngay lập tức cho họ một thông cáo tôi viết vội, kêu gọi quốc dân ai có nhiệt tình với nền độc lập đến tham gia việc tổ chức ngày hôm nay. Nhân dân hưởng ứng rất mạnh mẽ. Tôi giao cho anh Trần Kim Xuyến là Đổng lý văn phòng bộ, liên lạc với các anh bạn ở trong ba tổ chức là hội Truyền bá quốc ngữ, hội Văn hóa cứu quốc và Hướng đạo sinh để thành lập ban tổ chức ngay tối hôm đó. Trước hết là chọn địa điểm. Địa điểm thì chọn ở đâu bây giờ? Đưa ra bãi đá bóng thì khôn long trọng. Có một khu rộng rãi bây giờ gọi là quảng trường, ngày xưa tiếng Pháp gọi là rond point, chẳng nhẽ lại bảo là mời đến cái rond point phủ Toàn quyền à? Nghe nó vô duyên và kệch cỡm thế nào đó. Chúng tôi cũng lợi dụng việc chính phủ Trần Trọng Kim đã đặt tên chỗ đó là Vườn hoa Ba Đình, chúng tôi bảo thế thi được, mời nhân dân đến Vườn hoa Ba Đình biểu tình. Số người hôm đó trên nửa triệu người.

 

T.K.: Xin ông nói về vai trò của cụ Hồ. Giả sử nếu không có cụ Hồ thì Cách mạng tháng tám có thể thành công được hay không, thưa ông?

N.H.Đ.: Vai trò của Hồ chủ tịch rất quan trọng; Cụ có thành lập Mặt trận Việt Minh thì mới có Cách mạng tháng tám. Nếu đảng cộng sản đứng ra vận động cuộc Cách mạng tháng tám, tôi tin là không được kết quả như là Mặt trận Việt Minh, đó là một mặt trận gồm nhiều thành phần, nhiều tầng lớp tham gia cho nên phát triển mạnh, được nhân dân ta hưởng ứng hơn chứ còn nếu đảng cộng sản đứng ra thì vẫn bị hạn chế đấy. Cho nên Hồ chủ tịch đã sáng suốt thứ nhất là chủ trương Mặt trận dân tộc để thu hút quần chúng, thứ hai là cụ đã nhằm được đúng thời cơ, chiến tranh thế giới tạo ra, đưa đến đảo chính Nhật, rồi đưa đến Nhật đầu hàng, đấy là một thời cơ vô cùng quý giá. Nếu không có thời cơ đó thí Cách mạng tháng tám cũng không làm gì được, dù có thiên binh vạn mã cũng không làm trò gì được. Đảng cộng sản lúc bấy giờ có 5000 người chứ ăn thua gì đâu. Quần chúng tự khắc người ta nổi lên thành ra một làn sóng cách mạng đưa đến kết quả như vậy.

 

T.K.: Tại sao từ một khí thế của ngọn sóng toàn quốc kháng chiến những năm 45-46 lại đi đến chỗ đổ vỡ, bắt bớ, và thủ tiêu những đảng phái đối lập những năm sau đó?

N.H.Đ.: Phải nói như thế này là những cuộc đấu tranh của nước nào cũng vậy, khi nó rộng rãi quá, ban đầu nó đoàn kết, về sau nó phân hóa. Nó có những mâu thuẫn vì trong xã hội các tầng lớp có phải nhất trí quyền lợi với nhau đâu; không nhất trí về quyền lợi, có khi còn không nhất trí về quan điểm với nhau nữa, đến lúc phân hóa thì do mâu thuẫn quan điểm, mâu thuẫn quyền lợi thì phải đấu tranh với nhau. Điều này chúng ta còn lạ gì nữa, về chính trị thì một mất một còn chứ còn có dung hòa gì được nữa, có phải là việc gia đình đâu. cả hai đảng, chắc bà cũng nghĩ đến, là Quốc dân đảng và Cách mạng đồng minh hội không hề hợp tác với Mặt trận Việt Minh, lúc khởi nghĩa cướp chính quyền không hợp tác gì cả, nhưng sau khi đã có chính quyền rồi thì hai đảng đó dựa vào quân đội Tàu trở về nước, ý định là tranh quyền, cướp nước cho nên là hai bên đấu nhau. Nhưng rồi cuối cùng quân đội Tàu cũng thấy rằng không thể lật đổ chính quyền Việt Minh được, phản giàn xếp. Chúng tôi cũng rất mềm dẻo và đoàn kết với họ thành lập một chính phủ liên hiệp đấy. Thành lập chính phủ liên hiệp rồi vẫn không hết mâu thuẫn cho nên sau cũng đi đến đổ vỡ thôi.

 

T.K.: Ông vừa nói đến những đảng phái đối lập, nhưng đối với nội bộ đảng cộng sản cũng có những đổ vỡ. Tại sao từ một khí thế đoàn kết năm 45, 10 năm sau đó dẫn đến cuộc Cải cách ruộng đất và những vụ thanh trừng khác?

N.H.Đ.: Có thể hiểu việc đó như thế này: Ngay trong cương lĩnh của đảng Cộng sản Đông Dương cũng ghi rõ là làm cách mạng để tiến tới cách mạng xã hội chủ nghĩa. Cho nên 10 năm sau, nhất định nước Việt Nam phải tiến lên chủ nghĩa xã hội và muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội thì phải tiến hành đấu tranh giai cấp, phải xóa bỏ  địa vị, quyền lợi của hai giai cấp bóc lột là giai cấp địa chủ và giai cấp tư sản. Trước kia đoàn kết Mặt trận giải phóng dân tộc, giờ đây phải đấu tranh giai cấp để tiến tới chủ nghĩa xã hội. trong đấu tranh giai cấp như thế thì quyết liệt lắm, có ảnh hưởng chủ nghĩa Stalin và chủ nghĩa Mao Trạch Đông là quá tả, rất ác liệt, cuối cùng Việt Nam cũng tiến hành đấu tranh giai cấp như thế. Diện gọi là đoàn kết cũng thu hẹp lại, xã hội tiến lên cần phải như thế, đây là tôi nói quan điểm của đảng cộng sản, cho nên có những cuộc cải cách ruộng đất. Sau này những đảng khác được thành lập cũng phải trên cơ sở phục tùng đảng cộng sản thì mới tồn tại được. Nếu không phục tùng đảng cộng sản thì không thể tồn tại được. Tiến lên đấu tranh giai cấp, tiến lên chủ nghĩa xã hội thì phải tăng cường chuyên chính, phải độc quyền lãnh đạo. Ai vi phạm những điều này sẽ bị xử trí rất nghiêm khắc.

 

T.K.: Trách nhiệm của cụ Hồ trong các công việc ấy, cụ Hồ có biết hay là người dưới lạm quyền?

N.H.Đ.: Cái việc mà người ta cứ nói là việc nọ việc kia là người dưới làm chứ cụ Hồ không biết, cụ Hồ không thực tiễn làm, đó là một cách nói không đúng sự thật. Người ta thấy việc gì mà có dư luận kêu ca, thắc mắc thì không muốn để cái kêu ca thắc mắc đó hướng vào vị lãnh tụ mà người ta suy tôn tuyệt đối, có thể nói là người ta thần thánh hóa cụ Hồ, có lý do như thế nhưng thực chất thì cụ Hồ không là người bị vô hiệu hóa trong bộ máy lãnh đạo của đảng và của dân tộc cả. Cụ Hồ lúc nào cũng là người có đầy đủ quyền hành, lúc nào cụ cũng sáng suốt, linh lợi, lúc nào cụ cũng có uy tín với dân và cũng có quyền đối với các đồng chí trong đảng, đối với những người lãnh đạo khác. Chắc bà cũng biết rằng những vị lãnh đạo khác của đảng, đối với cụ Hồ là học trò chứ không phải như ở các đảng cộng sản khác đâu. Cho nên uy tín của cụ Hồ, quyền hành của cụ Hồ bao giờ cũng rất vững, cụ Hồ biết hết cả, và việc đó cụ Hồ cũng đồng tình làm. Có thể nói tóm một câu là cho đến mấy năm sau cùng vì cụ yếu cụ ít chăm nom công việc, cụ khoán cho Bộ chính trị, cụ ít can thiệp trực tiếp, chứ còn trước đó thì bất cứ việc gì cũng là trong phạm vi chỉ đạo của cụ cả. Hay cũng ở cụ, dở cũng ở cụ. Cụ phải gánh trách nhiệm đó, điều đó rõ ràng; Có khi nào một lãnh tụ tối cao đối với dân tộc, lãnh tụ tối cao của đảng  mà lại không có trách nhiệm về việc nọ, việc kia, điều đó không đúng. Chế độ gọi là báo cáo thỉnh thị rất chặt chẽ trong nội bộ đảng cộng sản và trong bộ máy chuyên chính của nhà nước cũng thế, nghiêm ngặt lắm.

 

T.K.: Xin cảm ơn ông Nguyễn Hữu Đang.

 

 Thụy Khuê

RFI ngày 3-9-1995

 

© Copyright Thụy Khuê 1995