Thụy Khuê Sóng từ trường II
Tiếng Kèn của Nhật Tiến
Từ khi đọc Những Vì Sao Lạc,
Thềm
Hoang của Nhận Tiến đến nay đã trên hai mươi năm. Mới
đây (1), tôi tình cờ tìm được Tiếng Kèn trong một
hàng sách. Tiếng Kèn, tác phẩm thứ hai mươi của Nhật
Tiến là tập truyện ngắn viết tại trại tỵ nạn Songkhla,
Thái Lan, và những ngày đầu tiên trên đất Mỹ (1980-1981).
Song những sách xuất bản bên Mỹ tới tay người đọc bên
Pháp là cả một hành trình, tuỳ theo hên xui, may rủi, có
khi một vài tháng, đôi lúc vài năm, rất có thể không
bao giờ.
Tiếng Kèn kể lại đời sống
tầm thường của người dân miền Nam, sau ngày đổi chủ.
Nhưng từ những tầm thường đó, xới lên, bốc lên bao nhiêu
hơi hướm bất thường, trụ lại những hồ hỡi xót xa, lây
lất những thế đứng trật đường của những con người
gọi là vừa-được-giải-phóng. Mười một mẩu đời tầm
thường, đôi khi tuyệt vọng, đôi khi tan tác, đôi khi cười
ra nước mắt, nhưng đã nói lên biết bao sự thực không tên
tuổi, phô bày những lộ trình không lối thoát của con người.
Rồi chất phi lý trào tiếu, tiết ra từ
những kiếp người đã một thời là anh hùng dân tộc (Chuyến
Tàu Ngày Cuối Năm). Cái cười ở đây là cái cười chết
yểu, chưa ra khỏi miệng đã tắt ngấm. Không đóng khố,
tất cả bi kịch của con người, của chế độ trần truồng
hiện ra.
Dù có những đoạn có thể là còn
chưa thực nhuần nhuyễn, còn có thể được viết kỹ hơn,
đối với một ngòi bút như Nhật Tiến, nhưng Tiếng Kèn
vẫn là một tác phẩm giá trị, nói lên sự thực của một
thời kỳ và sự thống khổ của con người trong thời kỳ
ấy: Thời kỳ đất nước vừa hợp nhất nhưng ranh giới
lại rõ nhất. Tiếng Kèn xóa ranh giới tinh thần giữa
hai miền Nam Bắc, giữa những kiếp người: Người lính cộng
hòa trốn trại cải tạo "gặp" người lính nhân dân đào
ngũ từ chiến trường Campuchia; người vợ đại úy ngụy
cùng đường, cho các con ăn nồi cháo thịt bỏ thuốc độc
trong Nam "gặp" cô gái đào mả, ăn cắp áo người chết, đem
bán chợ trời ngoài Bắc. Tất cả xáo trộn trong môi trường
cười khóc của kẻ thắng, người thua. Tất cả đều mất
dĩ vãng, cho nên không có hiện tại, nói gì đến tương lai!
Tất cả đều lang thang như tiếng kèn của gã mù, lạc lõng,
không có người nghe, trổi lên rồi âm thầm rớt xuống trong
đêm như những giọt sương tuyệt vọng.
*
Tiếng Kèn là một tác phẩm chứng nhân không khí buổi giao thời dưới ngòi bút một nhà văn đích thực. Hình ảnh lão mù trong Tiếng Kèn phản ảnh một cách khôi hài đớn đau hiện tượng xóa bỏ con người trong "giải phóng". Tập truyện mở ra trước chân dung gã mù thổi kèn trong ngõ hẻm. Nhật Tiến viết:
Trên đây là trích đoạn mở đầu truyện
ngắn Tiếng Kèn. Cuộc phiêu lưu của gã mù cứ thế tiếp
tục, mặc dù bà con bênh gã nhưng gã cũng ngoan ngoãn theo công
an về trụ sở khóm. Rồi những biện bạch nhăn nhở của
gã mù để gỡ cái tội thổi nhạc "đồi trụy" của mình,
đại loại: "Hì hì, thưa đồng chí, em
mù, em đâu có nợ máu gì!". Hoặc hắn xuống nước nữa:
"Trăm lạy các đồng chí, cháu là nghệ sĩ, cháu có biết
chính trị chính em gì đâu."
Hình ảnh gã mù đột nhập chúng ta không gõ cửa: cái cặp môi dày tụp ấy, cái lý luận cù nhầy ấy, nụ cười cầu tài ấy... Rồi đến những bản nhạc tiền chiến, "đồi trụy" như Thiên Thai, Xuất Quân, Bến Cũ... hắn thổi. Ngay cả đến miếng bánh mì hắn ăn chung với con chó, nhân vật duy nhất thông cảm và chia xẻ tâm sự với hắn trong những đêm tối âm u giữa thanh thiên bạch nhật triền miên của hắn. Tất cả báo hiệu và bắc cầu mối tương quan chênh vênh giữa sáng và tối. Giữa thua và được, giữa "ngụy" và "ta". Tất cả phản ánh cái bi - hài của những kẻ bị phải quên dĩ vãng, bị phải đánh mất dĩ vãng, bị phải gột rửa trong phút chốc tất cả những gì tàng trữ trong đầu từ nhỏ, và bị phải tiếp thu cái mới, lập tức và toàn diện: Cái bi hài của những kẻ bị được "giải phóng", nằm gọn trong vài câu nói lém lỉnh, liến thoắng của gã mù để gỡ tội thổi kèn:
Sự chao đảo từ bi sang hài, từ hài sang bi rất chớp nhoáng. Và cũng chỉ trong khoảnh khắc ngôn ngữ, thoát thai những biến độ trong thân phận con người: Từ một gã trai tráng, khỏe mạnh, lực lưỡng, gã bị chiến tranh cướp hai con mắt thành kẻ tàn tật mù lòa. Gã bị tước những bài hát trong ký ức thành kẻ không được quyền có trí nhớ... rồi hắn lại bị tự học những bài ca mới... Hiện tượng tẩy xóa cứ tiệm tiến như thế trong con người gã, cho đến lúc gã không còn dĩ vãng. Và đến khi gã đã hoàn toàn trắng tinh, hoàn toàn "sạch", thành một con người mới, với bộ óc mới, không còn "đồi trụy", hắn trở về ngõ hẻm cũ để trình làng bộ mặt mới toanh, tiếng kèn tự cải tạo của mình, thì:
Như vậy, tiếng kèn của gã mù hai lần tắt ngấm, trong hai cảnh huống đối lập nhau. Tiếng kèn ấy dạo lên tiếng kêu của con người trước hai bờ phân cực không sao cứu vãn được. Gã mù tiến không được và lui cũng không xong. Gã tịt ngẫng. Không phải đi cải tạo, gã là kẻ đã ký giấy bán đứt dĩ vãng của mình, đoạn tuyệt với tư tưởng, với kỷ niệm, để hướng về tương lai, hướng về những hứa hẹn có-thể-ngày-mai sẽ sáng. Nhưng bi kịch của gã mù là hắn đã trót ký tờ giấy xóa quá khứ, mà hắn chưa hề biết tương lai là một thực thể như thế nào, có tin được không? Tương lai, rồi sẽ có đấy, rồi sẽ đến đấy, nhưng tương lai chưa bao giờ là một cái gì có thể nuôi sống con người, dù chỉ trong những giấc mơ, bởi vì chưa ai biết tương lai mình nó sẽ như thế nào. Gã mù đâu có ngờ cái tương lai gần nhất là lũ trẻ lại phỉ phui gã, gã đâu có ngờ cái tương lai tức thời là bị ăn đá, ăn đòn trong ngõ hẻm? Khi người ta đoạn tuyệt với quá khứ, thì người ta không còn điểm tựa để sống trong hiện tại, và như thế khó có thể có một tương lai. Tiếng Kèn thổi lên, xoáy sâu vào những bờ vực không lối thoát của những con người bị tước đoạt quá khứ, của những người đi tước đoạt quá khứ. Cả hai đều tuyệt vọng như nhau, vì không thể có hy vọng sản xuất ra tương lai, nếu con người phủ nhận quá khứ của mình. Paris 1987, 1998
Chú thích:
© 1987-1998 Thụy Khuê
|