Thụy Khuê
Sóng từ trường II
Nguyễn Huy Tưởng (1912-1960),
một quan niệm về lòng
yêu nước
Trong số những nhà văn nổi tiếng,
theo cách mạng từ đầu và trung thành đến cuối(1), dường
như chỉ có một mình Nguyễn Huy Tưởng bạt ngã những đòi
hỏi chính trị nhất thời, để tạo một sự nghiệp văn
học xa lánh tuyên truyền, đặt nhân cách người trí thức
và giá trị nghệ thuật, tư tưởng lên trên tất cả, trong
văn cũng như trong đời.
Phải chăng vì thế mà ngày nay, khi
đọc lại mảng văn học cách mạng, chỉ toàn bộ tác phẩm
của Nguyễn Huy Tưởng còn trụ vững, qua lối nhìn lịch sử
chân phác, lành mạnh và quân bình: Ðối với ông, lịch sử
không là một sản phẩm quảng bá chiến tranh, cũng không là
bộ máy phân biệt chính tà, lịch sử chỉ là sự chuyển
biến nhân sinh trong những điều kiện đặc dị mà từ đó
nhà văn có thể triển khai những băn khoăn sâu sắc về thân
phận con người, thân phận nghệ thuật. Ở tầm mức đó,
sử quan của Nguyễn Huy Tưởng thoát khỏi lăng nhãn "bạo
lực cách mạng" khắc nghiệt đã kiềm chế văn chương và
phong tỏa trí thức thời đại ông.
Nguyễn Huy Tưởng đi tìm cổ điển.
Ở tiểu thuyết lịch sử, văn ông âm hưởng biền ngẫu,
nghiêm đài. Cố ý cổ điển hóa văn phong trong cách chỉnh
lời, chuốt ý làm toát ra không khí cổ sử, đối thoại gắn
bó với triều nghi, với tâm uất giai nhân trong nội cảnh
vàng son, kích thế uy hùng của những chiến thắng Vân Ðồn,
Vạn Kiếp, Bạch Ðằng...
Phải đó là tham vọng tái trúc không
gian và tâm thức quá khứ qua ngôn ngữ xưa? Và đồng thời
tân trang hóa tiểu thuyết lịch sử: Ðưa ra những chủ đề,
những biện thức về bản thân con người trực diện với
hoàn cảnh lịch sử, với sáng tác nghệ thuật; hoặc về
ý nghĩa của lòng yêu nước, về mối tương quan giữa nghệ
thuật và quần chúng, về sự đe dọa của áp lực thần quyền,
áp lực thị dân trên số phận sáng tác...
Như dự báo và đề phòng một tương
lai sáng cho cách mạng và tối cho văn học trong đó thơ văn
chỉ là những sản phẩm tiền chế vội vàng để phục vụ
những đơn đặt hàng nhất thời về lòng yêu nước, tác
phẩm của Nguyễn Huy Tưởng (phần lớn viết trước 45 và
còn được viết đi viết lại nhiều lần trong suốt thời
kỳ kháng chiến) không đi cùng chiều với đảng lệnh văn
hóa, mà phản ánh nỗi băn khoăn, lao lung trường kỳ của
một nhà văn có tư tưởng biệt lập và biệt cách, muốn
viết nên những tác phẩm cổ điển, gắn bó với lương thức
con người.
Âm ỷ những trăn trở về trách nhiệm
trí thức trước thời cuộc, về lòng ái quốc và chiến tranh,
về sự giằng co giữa tinh thần phản chiến nhân bản và
cường độ yêu nước cực đoan chủ chiến, chảy trong máu
người dân mất nước, tác phẩm của Nguyễn Huy Tưởng, nếu
đôi chỗ tình yêu nước có chiếm ưu thế thì nỗi kinh hoàng
của con người trước cảnh chém giết cũng dữ dội không
cùng.
Ở thời điểm mà sự phỉ báng và
tiêu diệt đối lập là quốc sách, Nguyễn Huy Tưởng là người
cộng sản đầu tiên và duy nhất, dám công khai đề cập đến
vấn đề đối lập trong tác phẩm văn học. Tinh thần chủ
hòa, muốn thương thuyết của "những người ở lại"
trong thành, được nêu lên trong "Sống Mãi Với Thủ Ðô".
Những người không theo cách mạng, đối lập với kháng
chiến, được coi như những thực thể khác, những lựa chọn
khác, cần được tìm hiểu và trân trọng: Tinh thần dân chủ
trong ông, âm thầm mà quyết liệt, thật sự chưa bao giờ
vắng mặt, cúi đầu.
Ở thời điểm mà giai cấp thợ thuyền
được độc tôn ngang hàng với lãnh tụ (không biết thật
tình hay giả mạo), Nguyễn Huy Tưởng xét lại ý thức lao
động, mối tương quan giữa nghệ thuật và thợ thuyền, nghệ
thuật và bạo lực. Nguyễn Huy Tưởng tra khảo trách nhiệm
của lao động vô sản trong các phá phách đền đài, miếu
mạo. Ðặt câu hỏi: Ở đâu bắt đầu và ở đâu chấm dứt
trách nhiệm của bạo lực cách mạng? (Kịch Vũ Như Tô)
Chảy thầm trong nội tâm mỗi tác
phẩm là lòng ái quốc mãnh liệt, chìm dưới chiều sâu của
những điều không nói, tẩm trong bản chất của con người
gắn bó với thân phận, tình nghĩa với người xung quanh, xót
thương kẻ không cùng giới tuyến. Phế truất quan niệm tuyệt
đối hóa và một chiều hóa lòng yêu nước. Yêu nước không
là sở hữu của riêng ai. Nó cũng không phải là thứ ngôn
ngữ tuyên truyền, đầy mặc cảm và phi nghệ thuật. Nội
dung lòng yêu nước, nơi Nguyễn Huy Tưởng, thuần phác và
bình đẳng với mọi người, cả những người không yêu
nước. Nó thể hiện ý niệm tự do lựa chọn, hội
nhập với tình yêu sự sống, và là một giá trị nhân bản,
không thể dập vùi, thổi phồng hay sa thải, theo đòi hỏi
chủ quan của chính trị lịch sử.
Tiểu thuyết lịch sử Ðêm
Hội Long Trì
Truyền thống viết tiểu thuyết lịch
sử ở nước ta kể như bắt đầu từ Hoàng Lê Nhất Thống
Chí. Ngô Thì Chí trình bầy cục diện lịch sử dưới
dạng chất liệu sống, với những chi tiết ngoại sử để
cung cấp cho người đọc những thông tin về sinh hoạt triều
đình, về xã hội, về ngôn ngữ Việt Nam thời Lê Mạt. Những
người đi sau như Phan Trần Chúc, Nguyễn Triệu Luật, Lan Khai...
thường dựa trên cơ sở Hoàng Lê Nhất Thống Chí để
dựng tạo tác phẩm của mình.
Nguyễn Huy Tưởng không theo hướng
ấy, ông sáng biến một không khí lịch sử riêng, không
có tính cách phóng tác theo Hoàng Lê Nhất Thống Chí
như Bà Chúa Chè, Trịnh Khải, Loạn Kiêu Binh... của
Nguyễn Triệu Luật, cũng không lãng mạn hóa lịch sử như
Lan Khai. Nguyễn Huy Tưởng dựa vào một dữ kiện lịch sử
có thật, đôi khi chỉ được ghi lại vài dòng trong chính
sử, rồi ông nghiên cứu về xã hội, phong tục, ngôn ngữ
thời đại và hư cấu thêm tình tiết, để tạo nên một
bối cảnh khá chính xác, có sức hấp dẫn của tiểu thuyết,
với văn phong bi tráng, gọi hồn nước. Ông vừa tận
dụng tích cách ngụy tín (mauvaise foi, chữ của Sartre) hay là
tính cách thông đồng giữa ngườì viết và người đọc
(biết rằng bịa nhưng vẫn tin) trong tiểu thuyết, lại vừa
chiếm hữu lòng tin đích thực của độc giả qua những dữ
kiện lịch sử có thật, để đưa ra những chủ đề suy tưởng
về tâm thức và hành động của con người bị quy định
trong hoàn cảnh lịch sử. Tiểu thuyết của ông vừa sát lại
vừa xa lịch sử.
Tuy lấy Thăng Long - Ðông Ðô - Hà
Nội làm bối cảnh cho tiểu thuyết của mình, Nguyễn Huy Tưởng
có phải chỉ gắn bó với đất kinh kỳ hay không?
Không. Thăng Long chỉ là cái cớ, là
phương tiện dựng truyện. Tác giả đã vượt Thăng Long, vượt
thế chính trị của Thăng Long để đến với địa linh, địa
hình đất nước.
Nguyễn Huy Tưởng dùng Hà Nội như
một tựa điểm để thoát ly Hà Nội, để tiến về Chi Lăng,
Vạn Kiếp, Vân Ðồn, tiến vào lòng người ở những ngã
ba lịch sử. Kịch Vũ Như Tô và hai tiểu thuyết Ðêm
Hội Long Trì và An Tư, đều lấy bối cảnh Thăng
Long, nhưng khi đọc xong, chúng ta không biết thêm gì thêm về
Thăng Long, mà lại thấy mở ra bao nhiêu câu hỏi về đất
nước, nghệ thuật và con người.
Sách Tang Thương Ngẫu Lục của Phạm
Ðình Hổ và Nguyễn Án viết về đêm Hội Long Trì:
"Ðúng hôm rằm, Chúa ngự
ra chơi Bắc cung. Cung này có cái ao gọi là Long Trì, rộng
độ nửa dặm, giồng nhiều hoa: hoa sen, hoa súng v.v... Bên
bờ ao đắp đất, chồng đá làm núi, chỗ cao chỗ thấp,
dàn đặt mặt trước mặt sau, trông đường nào cũng có thế
đẹp. Bên phải để riêng một chỗ ngồi dành cho việc đàn
hát. Trên bờ ao có giồng mấy trăm gốc phù dung, treo đèn
ở trên, ánh soi xuống nước, lấp lánh như muôn vàn ngôi
sao (2).
Ðêm Hội Long Trì dựng trên bối
cảnh lịch sử kể trên vào cuối thế kỷ XVIII, dưới thời
Tĩnh Ðô Vương Trịnh Sâm (1739-1782). Chúa say mê Tuyên phi,
dung túng Ðặng Lân (Cậu Trời), em ruột Ðặng Thị Huệ.
Ðể làm vừa lòng người đẹp, chúa đem Quỳnh Hoa Quận Chúa,
người con gái yêu kiều và yếu đuối của mình gả cho "Cậu
Trời" vô lại.
Theo sát với bối cảnh lịch
sử, Nguyễn Huy Tưởng đưa Long Trì vào tiểu thuyết bằng
những hàng: "Hồ Long Trì đã thành một
nơi bồng lai mộng ảo, cách biệt với phàm trần. Hồ rộng
hơn nửa dặm, thả rất nhiều sen ấu. Bên hồ, có đắp những
ngọn giả sơn rất to, bằng đất hoặc bằng đá. Trong hang,
trong hốc, hoặc trên đỉnh, hoặc dưới chân, hoặc trước
hoặc sau, ẩn ẩn, hiện hiện, có những chàng Tương Như hay
những gã Tiêu lang ngồi hòa nhạc ăn mặc ra vẻ tiên phong
đạo cốt. Núi vọng ra những tiếng bổng tiếng chìm, tiếng
ti, tiếng trúc, nghe lả lướt du dương. Bên hồ, trên cành
hàng mấy trăm gốc phù dung, dương liễu có treo muôn thứ
đèn lồng bằng gấm vóc. Những đèn ấy đều do chúa Tĩnh
Ðô sai cung nữ chế ra, tinh khéo tuyệt vời, mỗi chiếc đáng
giá mấy lạng bạc. Xa trông như muôn vàn sao lốm đốm sáng."
(Nguyễn Huy Tưởng Tác Phẩm Chọn Lọc, NXB Hội Nhà Văn,
1994, trang 7 và 8)
Ðêm Hội Long Trì mở cửa
vào phủ chúa, một Tĩnh Ðô uy nghi, bách biến, chao đảo giữa
thần quyền và nữ sắc.
Ở đây, nữ quyền bị diệt, nó hiện
hồn dưới dạng nữ sắc. Dưới dạng này, nó có khả năng
hủy hoại những quyền lực tuyệt đối. Nữ sắc bành trướng
trong môi trường xa xỉ quốc gia, dưới những lộng hành của
loạn thần và bất lực của những người ngay thẳng. Nếu
chủ đề thứ nhất của Ðêm Hội Long Trì hướng về
sự chuyên quyền của sắc đẹp, thì chủ đề thứ hai hướng
về trách nhiệm của kẻ sĩ, võ cũng như văn. Ở thời buổi
nhiễu nhương, cái học từ chương, ngâm vịnh của bọn Bảo
Kim, có tác dụng gì cho đất nước? So với thực lực võ
tài của Nguyễn Mại? Vị trí yếu hèn của người trí thức,
vấn đề nhập thế của kẻ sĩ? Nỗi hoang mang trước những
câu hỏi có thể đặt ra cho một chàng trai 27 tuổi (thời
Nguyễn Huy Tưởng viết Ðêm Hội Long Trì, Vũ Như
Tô và An Tư), những năm 39-40 khi gót giầy thực dân
đã đặc chặt bốn bề?
*
Sự đối chất giữa Tuyên phi Ðặng
Thị Huệ và Quận chúa Quỳnh Hoa, như hai bản diện sáng tối,
thiện ác của nữ quyền, dập dình thắng bại bất phân.
Nếu cái thiện sớm bị bại vong (cái chết của Quỳnh
Hoa) thì cái ác cũng chỉ kéo dài thêm cuộc sống bầy
nhầy, chờ lên máy chém (loạn Kiêu Binh).
Trong thời đại cực đoan của những
tranh giành đảng phái, những "tiêu diệt quân thù" bên ta bên
địch, thái độ ôn hòa, giọng văn nhân hậu của Nguyễn
Huy Tưởng làm dịu đi những mê chấp của con người thời
đại và được cảm nhận như một linh tri văn học.
Ðối với Tuyên phi, Tĩnh vương, tác
giả những bất ổn trong triều, Nguyễn Huy Tưởng chỉ nhẹ
nhàng: "Tĩnh vương chỉ vì say đắm Tuyên
phi mà làm toàn những điều bất chính." Viết về
Thoát Hoan (trong An Tư) và viết về người Pháp (trong
Sống Mãi Với Thủ Ðô) sau này, Nguyễn Huy Tưởng vẫn
giữ một giọng nhã hòa, đưa ra những chân dung hào hoa và
nhân bản của kẻ địch. Trái ngược với thái độ xung kích
của những người cùng thời, xắn váy quai cồng, mày tao chi
tớ, xỉa xói bất luận "thằng Tây", "thằng Mỹ" nào, sừng
sộ đắp lên "chúng" những máu mê, tình tội đôi khi nhiễm
chất hoang đường: Nguyễn Huy Tưởng đã vượt lên khuynh
hướng mị dân lụy đảng, bần cùng hóa ngôn ngữ và
giữ lại cho tiếng Việt, trong bối cảnh bần cố và điêu
ngoa, một tư cách, một tự trọng.
*
An Tư hay số phận người
phụ nữ trong sử, trong đời
Nguyễn Huy Tưởng, trong nhật ký, băn
khoăn đến vị trí của người phụ nữ trong kháng chiến
chống Pháp. Ông tra vấn: "Sao không thấy
người ta nói gì đến vai trò phụ nữ."
Nghiêng mình xuống An Tư, chẳng phải
vì vô tình, bởi cái tên An Tư hầu như vô danh trong sử sách,
cũng như những đóng góp của phụ nữ trong đời sống lịch
sử và xã hội, thường không tên, không ghi. Phải chăng Nguyễn
Huy Tưởng viết An Tư vì ông đã nhận thấy những bất công
trong ngôn ngữ lịch sử, ngôn ngữ văn học, trải nhiều đời,
cố tình đãng trí về những đóng góp của phụ nữ nói riêng
và những thành phần thấp cổ bé miệng nói chung, trong lịch
sử dân tộc?
Ở thời phong kiến, người phụ nữ,
ngay cả đến những người quyền quý nhất như quận
chúa Quỳnh Hoa, công chúa An Tư, cũng chỉ là vật đổi
trao, quyền sinh sát trong tay huynh phụ. Quỳnh Hoa và An Tư,
hai mẫu hàng nhỏ của một lịch sử toàn diện lớn lao: Từ
Lý Chiêu Hoàng đến Trần Huyền Trân, thế chính trị của
phụ nữ trong thời phong kiến có những nuốt phận xót xa,
oan khiên nghiệt khắc.
Nếu Ðêm Hội Long Trì đưa ra
khía cạnh tiêu cực, tàn phá, dẫn đến kiêu binh của nữ
sắc, thì trong An Tư, sắc đẹp có thể chuyển biến
cục diện chiến tranh, mang một nội lực cao sâu hữu hiệu
hơn ngàn binh đạo.
Công Chúa An Tư là em gái út Thượng
Hoàng Trần Thánh Tông, là cô ruột của vua Nhân Tông. Tháng
hai năm Ất Dậu (1285), triều đình đem An Tư dâng cho Thoát
Hoan làm kế hưu chiến, mong Thoát Hoan ham mê tửu sắc, trễ
nải việc quân, để Hưng Ðạo Vương có đủ thì giờ chuẩn
bị phản công.
Vào tư dinh Thoát Hoan, đem trinh tiết,
sinh mạng để ngăn chặn -dù chỉ nhất thời- sức tàn phá
của quân Mông Cổ. Công tác của nàng ra sao? Số phận của
nàng ra sao?
Việc này Ðại Việt Sử Ký Toàn
Thư chỉ ghi vắn tắt hai dòng: "Sai
người đưa công chúa An Tư, em gái út của Thánh Tông, đến
cho Thoát Hoan là muốn làm thư giãn nạn nước vậy."
An Nam Chí Lược của Lê Tắc chua thêm: "Trần
Thị theo Thoát Hoan về Trung Quốc và có hai con trai với Hoan."
Nếu so sánh việc An Tư (mấy ai biết
An Tư là ai?) với dũng khí "lộng trời", bóp nát trái cam của
Hoài Văn Hầu Trần Quốc Toản ở hội nghị Bình Than, hay
khẩu khí thà làm quỷ nước Nam còn hơn làm vương đất
Bắc của Bảo Nghĩa Vương Trần Bình Trọng từng "lưu
danh muôn thuở", người ta mới thấy ngòi bút lịch sử đối
với đàn bà, hà tiện và phi nhân làm sao! Công lao "phá
cường địch, báo hoàng ân" của Hoài Văn Hầu, so với
việc An Tư hoãn binh Mông Cổ bằng sinh mệnh mình, thế nào
khinh? Thế nào trọng? Hãy chưa bàn đến. Chỉ tạm nhìn chất
nghiệp dư, tài tử và ước lệ trong truyền thống viết sử
và sự cảm nhận sử của người Việt: Thích nhớ những
điều ngoạn mục và nông cạn (bóp cam, bóp quít) mà quên
tìm hiểu những nội dung sâu xa: phận người bán mình trong
trại giặc.
Tính ham ngoạn mục này đôi khi dẫn
chúng ta đến những cả tin, tự hào dân tộc ngây thơ và
ấu trĩ: Quá bằng lòng với huyền thoại Hai Bà Trưng trầm
mình trên sông Hát, mà ít tìm hiểu về dữ kiện Hai Bà có
thể đã bị chặt đầu đem về Lạc Dương (theo Hậu Hán
Thư (3)). Mặc dù dữ kiện thứ hai này khốc liệt và uy hùng
hơn thoại thứ nhất, và có thể là bối cảnh cho những tìm
kiếm lịch sử: Thủ cấp Hai Bà chôn ở đâu? Có được người
Hán lập miếu thờ không? Hai Bà không phải là Quan Công nhưng
người Hán rất ngưỡng phục những anh hùng tráng khuất nghĩa
liệt. Biết đâu họ chẳng đã có đền thờ Hai Bà?
Trở lại với An Tư. An Tư và Huyền
Trân (con gái vua Nhân Tông), từ bà cô đến cháu, cách nhau
20 năm, cùng chung thảm mệnh: Huyền Trân bị triều đình gả
bán cho vua Chiêm Chế Mân (1306) để chuộc hai châu Ô Lý. Chuyện
Huyền Trân -dù nổi tiếng- nhưng cũng không lưu được "tiếng
thơm", mà chỉ là đối tượng của những câu ca dao mai mỉa,
thị kỳ và hạ tiện:
Tiếc thay cây quế giữa
đường
Ðể cho thằng Mán, thằng Mường
nó leo.
Ký ức lịch sử tàn phũ, không chút ngậm
ngùi, không dành cho thân phận những người phụ nữ "bán
mình cho tổ quốc" một giọt nước mắt đích thực.
Nguyễn Huy Tưởng xé lại vết thương,
hướng về những ngậm ngùi ấy, trang trải cho lịch sử món
nợ tinh thần đối với An Tư, đồng thời đem lại cho chiến
thắng Bạch Ðằng, Vân Ðồn, Vạn Kiếp những nỗi xót xa
về thân phận con người.
Ngoài An Tư, người ta còn tìm thấy
một Nhân Tông khoan độ, lượng từ, một Hưng Ðạo đa nghĩa,
phũ phàng mà tiết liệt, để việc nước lên trên nhân tình,
chọn đổi An Tư như một thế tận của chiến trường, sẵn
sàng chém đầu hàng trăm quân đào ngũ. Thoát khỏi tư thế
"thần thánh", đại vương chỉ là một cá nhân giữ nghiêm
lệnh bảo vệ tổ quốc, nhưng cô đơn và hoang mang ở mỗi
quyết định, mỗi thế cờ.
"Thoắt ở Vạn Kiếp, thoắt
ở Chí Linh, Phao Sơn, thoắt ở Huyền Ðình, ngựa của đại
vương bay khắp cánh đồng, đỉnh núi. Vậy mà đến đêm,
khi mọi người đã đi ngủ, đại vương vẫn còn một mình
suy tính bên ngọn đèn xanh, có khi suốt sáng..."
"Vương đau thương, tâm hồn cứng
cỏi ấy nhiều khi cũng có những mềm yếu của kẻ dung thường."
(Sđd trang 278 và 282)
Mà không riêng gì Hưng Ðạo, từ Nhân
Tông đến Thoát Hoan, kẻ thắng, người bại, đều có nỗi
xa xót riêng chung về chiến tranh, về đánh hay đừng: Chiến
tranh chỉ là cực điểm của ngõ cụt, của tai ương, của
tham vọng và tuyệt vọng.
"Vua Thiệu Bảo 4 biết
chiến tranh tai hại, khốc liệt, không lợi gì cho kẻ dự
chiến, bên thắng cũng như bên bại, và ông vua giỏi không
phải là một người cùng binh độc vũ, tìm những thủ đoạn
oanh liệt trên chiến địa, mà là người biết mưu hạnh phúc
cho dân gian." (Sđd trang 241)
Nghĩ đến "biết
bao quỷ không đầu đang bơ vơ bên phần mộ tiên tổ! Những
người còn sống ngẩn ngơ trước bàn thờ giá lạnh, nhớ
đến kẻ thân yêu không bao giờ về nữa [...] Vua bỗng xúc
động trong lòng và cảm thấy một niềm thương vô biên, bao
trùm cả chúng sinh, cây cỏ." (Sđd, trang 249 và 250)
Hưng Ðạo Vương đưa ra một chân
lý luận chiến khác: "Thương dân không
cứ phải thương kẻ đương thời, còn phải thương đến
con cháu muôn đời sau nữa." (Sđd, trang 259)
Cùng một lòng yêu nước thương dân quặn
ruột, Nhân Tông cầu bình, Hưng Ðạo chủ chiến. Chiến tranh
và hòa bình, thế lưỡng cực ấy day dứt tâm linh, dày vò
bao nhiêu thế hệ? Vẫn còn là câu hỏi chẳng bao giờ có
lời giải đáp.
*
Vũ Như Tô
Người ta bước vào kịch Vũ Như Tô
(5) với những câu hỏi: Nhưng còn Cửu Trùng Ðài? Nhưng còn
Cửu Trùng Ðài? Ác mộng hay Nghệ thuật? Vũ Như Tô? Vũ Như
Tô là ai? Trí thức hay thị dân? Thầy hay thợ? Vũ là ai mà
dám đòi vua phải "kính sĩ mới đắc sĩ"?
Khác với những tác phẩm cổ điển
cùng thời, Vũ Như Tô vặn các dấu hỏi lạ lẫm, hỗn hào.
Mỗi biến xoán xẩy ra đều đáng nghi, đáng ngại. Không rõ
từ đâu đến? Ai là thủ phạm? Ai trách nhiệm?
Hoài nghi. Vô trách nhiệm. Ðổ vạ.
Mỗi nhân vật nhìn các sự kiện xẩy ra theo chủ quan của
mình.
Kịch Vũ Như Tô bầy ra loạn cảnh
chính trị và tâm linh của một thời bạo quyền chuyên chế:
Không biết ai làm chủ? Dân hay Quân? Thần hay Chúa? Thầy hay
Thợ?
"Ai xây một kiểu nhà mới
khả quan, thì lập tức kết vào tội lộng hành đem chém.
Thành thể ra không ai dám vượt ra khuôn sáo nghìn xưa [...]
nghề kiến trúc đọng lại một vũng ao tù."
Người có tài không được thi
thố đành phải tiến về mặt tiểu xảo. (Sđd, trang
399)
Cách đối đãi như thế thì nhân
tài nhiều sao được? (Sđd, trang 400)
Mà ai chịu luyện tập cho thành
tài? (Sđd, trang 400)
Thậm chí người ta nói kẻ có
tài đã không giúp cho gia đình, còn là một cái vạ nữa.
(Sđd, trang 400)
Ấy là thời Lê Tương Dực. Nhưng cũng
có thể là bất cứ thời nào mà người tài không được
thi thố, nhân tài bị bạc đãi, bị kiểm tra: Có tài
còn đem vạ vào thân.
Vũ Như Tô là kẻ vô tư, dám nói thẳng,
nói thật, nói toác ra như vậy trong một lộng trường nặng
mùi chặt chém.
*
Vũ là kẻ có tài. Vũ không muốn đem
tài của mình để phục vụ hôn quân, xây Cửu Trùng Ðài
cho bạo chúa dâm hoang, xa xỉ.
Vũ Như Tô chọn chết hơn là phụng
sự bạo quyền. Khi ấy thì Ðan Thiềm xuất hiện. Cung nhân
Ðan Thiềm khuyên Vũ Như Tô phải sống để sáng tạo tác
phẩm "để đời". Bạo quyền chỉ là phương tiện cung
cấp dữ liệu thực hiện kiến trúc ngàn năm, làm "rạng ngời"
tổ quốc. Vũ Như Tô nghe lời Ðan Thiềm, chịu khuất phục
Lê Tương Dực để xây Cửu Trùng Ðài. Kinh phí vô độ. Thợ
thuyền và quần chúng ta thán. Thừa dịp nháo nhương, Trịnh
Duy Sản xui thợ làm loạn, giết vua. Ðan Thiềm xui Vũ Như
Tô trốn để bảo toàn sinh mệnh.
Ðan Thiềm là ai? Nàng chính là bộ
óc, là quân sư, là kẻ sĩ nghĩ hộ Vũ Như Tô. Nàng đặt
vấn đề ưu tiên: Sống để sáng tác.
Nhưng Ðan Thiềm chưa kịp tra vấn
phương tiện thực hiện tác phẩm. Nghệ thuật có thể
dựng xây trên xương máu con người hay không? Chắc chắn rằng
có. Cung A Phòng, Angkor, Vạn Lý Trường Thành, Tháp Chàm và
bao nhiêu kiệt tác kiến trúc trên thế giới chứng minh rằng
có. Nhưng cũng chính cái phương tiện đó lại có khả
năng quật ngã kẻ dụng nó: Tần diệt, Chàm suy và Chàm diệt.
Tác phẩm nghệ thuật cũng chỉ là
ảo ảnh, nó có thể vững như Kim Tự Tháp Ai Cập, Vạn Lý
Trường Thành, mà cũng có thể mong manh hư ảo như Cung A Phòng,
như Cửu Trùng Ðài... Nghệ thuật chỉ có giá đối với những
trái tim vị và vụ nghệ thuật. Ðối với những kẻ ngoại
đạo, nghệ thuật là chuyện vứt đi, bởi nó chưa bao giờ
thật sự nuôi sống con người. Nghệ thuật đến từ cái
chết. Nghệ thuật vừa là con đẻ, vừa là tác giả của
thần chết. Của những đọa đầy. Kẻ sĩ Ðan Thiềm chưa
nhìn thấy vũng lầy tha ma của nghệ thuật; nghệ thuật bốc
lên từ xác và hồn của nghệ sĩ sáng tạo, từ máu và nước
mắt của người thợ thực hành trình đồ sáng tạo. Nhưng
con người không thể sống không nghệ thuật, bởi con người
chưa bao giờ vượt qua cái chết.
Kẻ sĩ Ðan Thiềm, một phế
phận trong cung cấm, nàng "thức khi người
ngủ, khóc khi người cười, thương khi người ghét."
Nàng trọng tài, yêu nghệ thuật, muốn bảo toàn sinh mệnh
nghệ sĩ và tác phẩm nghệ thuật.
Nhưng kẻ sĩ không phải là nhân
dân (ở thời kỳ vô sản chuyên chế, thợ thuyền hay giai
cấp vô sản có thể đồng nghĩa với nhân dân), cũng không
phải là thế quyền. Kẻ sĩ và nghệ sĩ sống vật vờ
giữa một quyền lực chính thống (chính quyền) và một
quyền lực ngoại thống (quần chúng). Chính thống có
thể là kẻ đỡ đầu cho nghệ thuật, mà cũng có thể là
kẻ cưỡng hiếp nghệ thuật, còn ngoại thống thì không
hiểu nghệ thuật. "Dân chúng nông
nổi, dễ sinh tàn ác. Họ không hiểu công việc của ông"
Ðan Thiềm nói với Vũ Như Tô.
Vật vờ giữa hai khối nguy: Chính
quyền và quần chúng, hai lực đối chất, hai đao phủ của
nghệ thuật, Ðan Thiềm đồng bệnh với Nguyễn Huy Tưởng,
đồng bệnh với tất cả những người cầm bút trung thực
muốn bảo vệ sự sống còn của nghệ thuật và tư tưởng
trong một môi trường mà hai đao phủ đều ở thời điểm
sung sức, đều hung hăng kịch liệt xung đột lẫn nhau: Thời
điểm cách mạng. Bất cứ ở thời điểm cách mạng nào
từ xưa đến nay, nghệ thuật cũng là thí điểm: Ðốt
phá. Nghệ thuật bị mang ra pháp trường trước tiên, trước
vua, trước kẻ phản nghịch. Ðó là nghiệp dĩ của cách mạng:
Cách mạng luôn luôn mù quáng và mù chữ. Nước nào
kéo dài tình trạng cách mạng càng lâu, nghệ thuật càng bị
suy đồi, triệt hạ.
Ðan Thiềm muốn tránh cho nghệ sĩ
ngọn giáo cách mạng. Nàng thất bại.
*
Ðối với các cuộc cách mạng vô sản,
những người lao động được nâng lên hàng siêu nhân. Trong
thời kỳ đảng Lao Ðộng trị vì miền Bắc, chưa ai dám chất
vấn quần chúng thợ thuyền, đưa họ từ bệ thánh trở lại
vị trí làm người, với tất cả tính cách bất trắc, tráo
trở của một đám đông quần chúng ô hợp.
Kịch Vũ Như Tô, lật bầy tính cách
"tráo trở" của quần chúng lao động. Chính Vũ Như Tô là
kẻ nửa thầy nửa thợ. Khi thực hiện Cửu Trùng Ðài, Vũ
Như Tô đã liên kết với cánh bạn thợ, thành lập một sức
mạnh, giúp Vũ thực hiện công trình kiến trúc của mình.
Vũ Như Tô xây dựng một đảng lao động, để kiến
tạo Cửu Trùng Ðài, đối chất với sức mạnh của bạo
quyền Lê Tương Dực. Trong khi làm việc, Vũ Như Tô cho họ
hưởng đặc quyền biệt lợi: Chia sẻ những ân huệ vua ban.
Nhưng khi có biến, trừ một người độc nhất (phó Cõi) trung
thành với Vũ, còn tất cả quay giáo, trở cờ, theo Trịnh
Duy Sản, giết vua, tham gia vào việc đốt "kiệt tác" Cửu
Trùng Ðài do chính họ xây dựng. Sự "tráo trở" của thợ
thuyền ở đây là tất yếu: Bạc như dân. Vấn đề không
phải là bôi nhọ quần chúng lao động mà là nhận diện con
người trong chiều sâu.
Sự tráo trở của thợ thuyền
không ở bản chất, bởi phần đông thợ thuyền thường chất
phác, mà ở trình độ: họ không biết cảm nhận tác phẩm
nghệ thuật. Không có lập trường. Cả tin. Dễ a dua: Thợ
thuyền tập trung dưới sự lãnh đạo của độc tài và dốt
nát là một sức mạnh đáng ngại.
Nguyễn Huy Tưởng kín đáo dự báo
những phá phách của dốt nát dưới thời "lao động" chuyên
chế.
*
Vũ Như Tô còn là nghệ sĩ. Nghệ sĩ
không vào khuôn. Không nhìn trên, nhìn dưới. Không thấy xung
quanh. Không thấy xa xỉ. Không thấy xác chết. Vũ vô trách
nhiệm. Vũ anarchiste. Vũ sống trong mơ. Vũ chỉ biết một điều
duy nhất: Ðam mê nghệ thuật. Ðừng lầm Vũ Như Tô với Ðan
Thiềm. Ðan Thiềm là kẻ sĩ. Vũ là nghệ sĩ. Ðừng kết tội
nghệ sĩ. Hãy thưởng thức tác phẩm của họ. Nghệ sĩ có
thể đốn mạt, có thể bị nguyền rủa. Nhưng kẻ sĩ thì
không. Khi một thể chế đòi hỏi nghệ sĩ phải vào khuôn
vào phép, ấy là xã hội đi trật đường rầy: Coi nghệ sĩ
như chấy rận. Ðem rây ra rây rận. Rận lọt.
Như Ðan Thiềm và Như Tô: Kẻ sĩ và
nghệ sĩ luôn luôn tri âm, tri kỷ. Kẻ sĩ bảo hiểm cho nghệ
sĩ. Cả hai tạo nên đời sống văn hóa tư tưởng của con
người.
Vắng mặt họ, cuộc đời thiếu những
giấc mơ.
Nhưng có ai biết rõ sống là cầu
mơ hay cầu thực?
Paris, tháng 4/1998
Chú thích:
(1) Tố Hữu, Nguyễn Ðình Thi, Nguyễn Huy Tưởng,...
(2) trích Chuyện Cũ Trong Vương Phủ của Kính Phủ
tức Nguyễn Án, bản dịch của Ðạm Nguyên (Tang Thương Ngẫu
Lục, NXB Institut de l'Asie du Sud Est, 1990, trang 29)
(3) xem Cuộc Khởi Nghĩa Hai Bà Trưng Dưới Mắt Sử Gia
của Bùi Quang Tung (Tạp chí Tự Do số 20-21, tháng 4/1985)
(4) Thiệu Bảo là tên vua Nhân Tông lúc còn sống. Nhân
Tông chỉ là miếu hiệu đặt sau khi vua mất.
(5) Theo Việt Sử Thông Giám Cương Mục: "Vũ Như
Tô, một người thợ ở Cẩm Giàng, xếp cây mía làm thành
kiểu mẫu cung điện lớn trăm nóc dâng lên nhà vua; nhà vua
bằng lòng phong cho Như Tô làm đô đốc đứng trông nom việc
dựng hơn một trăm nóc cung điện lớn có gác, lại khởi
công làm Cửu Trùng Ðài. Sửa sang xây dựng hết năm này qua
năm khác. Quân và dân phải đi làm việc bị bệnh dịch chết
mất khá nhiều... Nguyễn Hoàng Dụ đóng quân ở Bồ Ðề,
được tin Duy Sản bạo nghịch giết vua, bèn chém Vũ Như Tô
ở ngoài cửa thành. Lúc Như Tô bị giết, mọi người đều
chỉ trích, chê cười, có người nhổ nước bọt vào thây
của hắn."
© 1995-2001 Thụy Khuê