Thụy Khuê
Nguyễn Viện với Rồng và rắn
Lời sấm này có thể gẫm ngay vào trận chiến
Iracq bây giờ, hoặc cuộc chiến Việt Nam ngày trước, nó mô tả những sắc thái
của một "dân tộc vĩ đại" mà lòng tham vọng trở thành căn cứ phát xuất các
cuộc oanh tạc con người. Những tiếng "sấm" trên đây, rơi vãi trên dọc
đại lộ kinh hoàng Pleiku - Phú Bổn, cuối tháng tư, Cao nguyên, triệt thoái.
Một cuộc chạy đua với tử thần, mà đủ loại ma, quỷ, xen lẫn với loài người,
trà trộn giọng thánh kinh vang lên, như vừa muốn mô tả cảnh tượng hỗn loạn,
lại muốn hăm dọa chúng sinh trước ngày tận thế: "Cơn
thịnh nộ của một đấng toàn hảo đang giáng xuống. Trong bóng tối, cả người
tỉnh thức và ngủ mê đều bị co giật. Mọi cơn mơ sẽ trở nên trống rỗng vì linh
hồn bị tách lìa khỏi thân xác đã không tìm được lối quay về." (trang 25) *
Người đàn bà đó có bốn đứa con. Ngày chia tay, người chồng ra Bắc; người đàn bà đó không nỡ để chồng đi một mình, đã "chia" cho chồng một đứa: thằng lớn nhất, 12 tuổi. Sau khi từ giã chồng và con trai, người đàn bà ấy đã "gom ba đứa còn lại, ngủ chung một giường, ủ trong mình và khóc lặng lẽ." (trang 20). Và như thế người mẹ ấy đã ngậm tăm để sống, để nuôi con và nuôi sự bí mật của đời mình trong suốt hai mươi năm trời. Cho đến ngày 30 tháng tư. Ba mươi tháng tư, đối với bà là ngày thiêng liêng đoàn tụ, ngày bà chờ đợi như mục đích cuối của đời mình. Và để đến được ngày lịch sử này, người mẹ ấy đã trải qua nhiều bất hạnh. "Mậu thân 1968, giữa những tiếng pháo của đêm xuân đã lẫn những tiếng súng của cuộc nổi dậy tổng tiến công. Khi những đứa con tôi còn ngơ ngác và sợ hãi thì trong lòng tôi âm thầm hoan hỉ. Tôi vẫn chờ đợi với một nỗi niềm giấu kín, sự chiến thắng từ bên kia núi sẽ mang chồng con tôi về. [...] Nhưng những ngày hi vọng ấy tắt sớm và tệ hại hơn, tai vạ chiến tranh đã đổ xuống ngay căn nhà tôi ở, một cây xà đập ngang lưng và tôi nhận lấy thêm một bất hạnh. Tôi trở thành kẻ bại liệt vĩnh viễn." (trang 16-17) Ngồi trên xe lăn, người mẹ già, liệt này theo con, xuyên qua thân cây, xác lá, xác người, di tản từ Pleiku, Phú Bổn trên đại lộ kinh hoàng của súng đạn, máu mê và nước mắt. Trên con lộ đầy tử thi ấy, trong trạng thái nửa mơ, nửa tỉnh, người đàn bà bất hạnh đã mục kích: "Tôi thấy những người bị bỏ lại đã chết và cả những người còn sống thoi thóp. Tôi thấy những giọt nước mắt và nghe những lời kêu gào xé ruột. Một người mẹ vất con lại bên đường với lời cấu xin tha thứ. Ðàn kiến bò lên thân xác đứa bé rúc rỉa. [...] Tôi lại co giật. Tôi thấy ở không xa lắm, một người lính đang lả xuống vì kiệt sức. Anh ta chạy một mình. Bỗng nhiên bên cạnh anh ta xuất hiện hai cái bóng mờ. Có lẽ đó là mẹ và em gái anh ta. Hai cái bóng mờ ấy cố nâng đỡ và dìu anh đi tới. Nhưng anh ta vẫn đổ xuống vì anh ta đã kiệt quệ. Cho đến khi hai bóng mờ tan đi cùng với hư ảo của tình yêu thì thân xác anh ta cũng thối rữa và thấm dần vào lòng đất." (trang 30-31) Những hình ảnh vừa thực, vừa ảo, chồng chất lên nhau, trong ký ức của người phụ nữ có chồng đi tập kết trong suốt hai mươi năm, đã tạo nên khí quyển sống của bà: Một cuộc sống vừa đợi chờ, vừa phóng tới trước mặt tìm ngày đoàn tụ, y hệt như lúc này, bà đang di chuyển trên vai hai đứa con gái thay phiên nhau cõng mẹ. Bà đi mà không có chân, bà được bỏ lên xe jeep, xe tăng, lăn đi, trườn tới, để tìm đến ngày hạnh phúc chờ đợi. Bao nhiêu vất vả, nhọc nhằn, máu và nước mắt ấy, chỉ để đổi lấy một ngày trong mộng: ba mươi tháng tư. Ba mươi tháng tư có đến, nhưng hạnh phúc thì
không. Người chồng đã có vợ con ngoài Bắc, không vào. Chỉ có Lân, đứa con
mà bà đã "chia" cho chồng ngày trước, trở về trong đám bộ đội từ Bắc vào
Nam. Ngày Lân trở về thì cũng là ngày Châu, đứa em lớn lên trong Nam, bị
bắt. Tất nhiên Thời của những tiên tri giả chưa phải là một tác phẩm thành công, còn có những nhược điểm kỹ thuật như giọng kể của bà mẹ, nhiều lúc không phải là giọng của một người đàn bà đã trải qua những thăng trầm khốn khổ mà lại là giọng của chính tác giả. Những chân dung nhân vật nhiều khi mờ nhạt, tác giả quá chú tâm đến triết lý, nên đôi khi đưa ra những nhận xét triết lý không đúng chỗ, hoặc từ miệng nhân vật hay trong lời trần thuật, làm loãng đối thoại, làm trơ mạch kể. Nếu để triết lý gián tiếp tiềm ẩn trong bối cảnh, trong không khí câu truyện, trong bản chất đối thoại, trong trạng thái lặng chìm, có lẽ thành công hơn là để nhân vật nói những lời triết lý một cách trực tiếp, sôi nổi. Mặc dầu với những nhược điểm trên đây, Thời của những tiên tri giả vẫn là một tiểu thuyết đáng đọc, nó xác định một cái nhìn mới, một cái nhìn không giới tuyến về chiến tranh Việt Nam, một cái nhìn trung thực và ân tình giữa những người hai bên giới tuyến.
Trong Ðâm sừng vào bóng tối, tác
giả viết về tình yêu, đam mê và nhục dục. Cả ba gắn bó với nhau, tạo nên
một toàn bộ khốc liệt và mù quáng, như con tê giác lao đi, đâm sừng vào bóng
tối. Trong ba yếu tố tình yêu, đam mê và nhục dục, dường như đam mê và nhục
dục là hai cánh sừng, còn bản thân tê giác mang nặng thể xác của tình yêu.
Ðâm sừng vào bóng tối là bản giao
hưởng tình yêu giữa một người đàn ông đứng tuổi và một người con gái đáng
tuổi con mình, bản nhạc có thể gây sốc cho người nghe bởi tính chất sống
sượng của nó, nhưng tác phẩm đã nói lên được khía cạnh mâu thuẫn của đam
mê: đạo đức lẫn vô luân, thiên đường lẫn địa ngục, u mê lẫn sáng suốt, tuyệt
vời lẫn tuyệt vọng trong tình yêu và thân xác. Chủ trương tự do tuyệt đối
trong cuộc tình dẫn đến chủ trương tự do tuyệt đối của con người. Nhưng người
ta có thể đặt vấn đề với tác giả: con người có thể tự do tuyệt đối hay không?
Hay là tất cả tự do đều chỉ có nghĩa khi nó đi đôi với trách nhiệm, bởi tự
do và trách nhiệm là hai giá trị song hành, có cái này thì phải có cái kia.
Tự do mà không trách nhiệm thì trở thành vô luân, vô luật. Trách nhiệm mà
không có tự do thì không còn là trách nhiệm mà trở thành nô lệ. Trách nhiệm
ở đây không đòi hỏi chuyện cấm đoán vì cấm đoán đối với đam mê là vô ích.
Trách nhiệm ở đây có lẽ chỉ cần một chút hoài nghi, một chút ngần ngại. Nabokov
trong Lolita, có cái ngần ngại đó, và chính cái ngần ngại ấy đã tạo cho Lolita
một trường hợp "giảm khinh", một tác phẩm tuyệt vời. Hình như nhân vật chính,
Nam, trong Ðâm sừng vào bóng tối, không bị đong đưa, dù chỉ trong giây phút,
giữa hoài nghi và ngần ngại. Nam quá bình tâm, quá chắc trong vị trí của
mình. Và đó là câu hỏi đặt ra cho tác giả.
Rồng và rắn là tác phẩm thành công nhất của Nguyễn Viện. Ở đây tác giả đã thu gọn được bối cảnh chiến tranh, sự tàn phá con người trong chiến tranh và xã hội tàn nhẫn, vô ơn, sau chiến tranh, trong một truyện vừa. Vai chính trong truyện là X, một người bộ đội và có lẽ cũng là một công an; anh đã sống và bây giờ hồn anh vẫn sống. Anh đã xả thân, không phải cho lý tưởng, mà chỉ là sự làm hết mình của một người có trách nhiệm trước công tác được giao phó. Công tác của anh, trước kia là đánh nhau, bây giờ là theo dõi và ghi chép. Qua X, Nguyễn Viện đã tạo được một nhân vật bốn chiều: công an, bộ đội, sống và chết. Ở bốn chiều này, X có đủ phương tiện để nhận xét con người. Những nhận xét của anh thường vắn tắt, ngắn gọn như những lời tốc ký của một thám tử, nó cực ngắn, nó rút gọn đến tối thiểu những nhàm chán hàng ngày của cuộc sống để chỉ giữ phần cốt tủy. Trong khi "theo dõi" và ghi lại những diễn biến của người sống, X cũng không quên điểm lại quá khứ của đời mình. Hai diễn biến quá khứ và hiện tại cùng trôi trong dòng truyện, với lối cấu trúc song song, nhưng ở đây, người đọc, vì do song hành, nên so sánh được hai lớp tàn bạo của cuộc sống: người chết một lần hôm qua trong thời chiến, và chết lại một lần hôm nay, trong thời bình, như X. Gục trên mộ, X kể lể: "Tôi muốn ngủ. Hãy để tôi ngủ. Tôi cần ngủ. Ðừng đánh thức tôi bằng tiếng súng. Cũng đừng đánh thức tôi bằng tiếng kẻng. Hãy để tôi nằm một mình. Giữa mùa hè, những xác chết trương phình lên nhanh chóng. Bọn địch lấy xe ủi đất gom các xác chết vào chung một cái hố lớn, đổ vôi xuống rồi lấp đất lại. Cái hố chật chội đầy những mầu máu và mồ hôi. Thành phố thì chật những cánh quạ. Ðám xác chết bắt đầu cãi nhau. Xác nào cũng muốn chen lên cho đỡ ngạt. Một thằng quát lớn: Hãy trật tự. Theo thứ tự quân hàm mà nằm, tính từ dưới lên." (trang 310) X và đồng đội đang muốn được ngủ yên, bỗng nhiên bị dựng dậy bởi "tiếng kèn tập họp vang lên khắp nơi. Các xác chết hỏi nhau: Lại động binh nữa à?" (trang 312) Họ bị dựng dậy để đón một ông tướng ma mới, vừa nằm xuống. Ông ra lệnh chiến đấu. Hỏi: Chúng ta chiến đấu với ai? Trả lời: "Ðồ ngu, chiến đấu để bảo vệ chỗ nằm. Tin tình báo cho hay, bọn cò đất đã nhăm nhe dọ ý chào những miếng đất nghĩa trang. Chúng bán tất cả những gì có thể bán được, không bán được thì chúng cho thuê. Những miếng đất như đất của các anh hùng, danh nhân, thuộc loại béo bở nhất, bởi thế nguy cơ mất chỗ nằm của chúng ta đã đến gần. Tôi tuyên bố tình trạng chiến tranh." (trang 314)
Thụy Khuê
© Copyright Thuy Khue 2003
|