Thụy Khuê

Phê bình văn học thế kỷ XX

 

Chương 2

 

Đôi hàng về tiến trình ngôn ngữ học

 

Tiền thân của Ngôn ngữ học (Linguistique) là Văn phạm (Grammaire) do người Hy Lạp khai trương và người Pháp tiếp nối.

Thế kỷ 17, các nhà tu dòng Dương thân (Janséniste) ở Port Royal[1] soạn hai cuốn sách cơ bản:

1- Grammaire générale et raisonnée (Văn phạm tổng quát và có suy luận)[2], tìm cách giải thích (kèm theo những kiến giải lịch sử) và cho thí dụ về sự thành lập một tiếng và cách xây dựng (construction) và ngữ điệu (tournure) của một câu.

2- Logique ou Art de penser (Luận lý hay Nghệ thuật suy tưởng)[3], áp dụng luận lý học Descartes vào việc phân tích ngôn ngữ.

Hai cuốn sách nền tảng này thường được gọi ngắn gọn là Grammaire de Port Royal (Văn Phạm Port Royal) và Logique de Port Royal (Luận lý Port Royal).

Về khoa văn phạm này, Ferdinand de Saussure[4], cha đẻ nền ngữ học hiện đại cho rằng nó chỉ "xây dựng trên luận lý, nhưng hoàn toàn thiếu vắng cái nhìn khoa học và không chú ý gì đến tính chất của tiếng nói; chỉ đưa ra những quy luật phân biệt thế nào là (viết) đúng, thế nào là (viết) sai; do đó nó chỉ là một kỷ luật có tính nguyên tắc, rất xa với sự quan sát thuần túy, vì vậy quan điểm của nó thực sự hẹp hòi"[5].

Thế kỷ 18, theo Saussure, người ta bắt đầu nói đến ngành bác ngữ học. Từ thời cổ đại, tại Alexandrie đã có trường phái bác ngữ học, nhưng ngành này chỉ được định danh trở lại từ năm 1777[6] như một khoa học khảo sát văn bản, lịch sử văn chương, phong tục và chế độ... dựa trên phương pháp phê bình. Bác ngữ học, nếu có chú ý đến ngữ học, cũng chỉ là để so sánh văn bản trong các thời kỳ khác nhau, xác định ngôn ngữ đặc biệt của mỗi nhà văn và giải nghiã những mô thức trong các văn bản cổ xưa hoặc tối nghiã. Công trình của Friedrich Wilhelm Ritschi (1806-1876) viết về Plaute có thể coi là  nghiên cứu ngữ học và Ritschi cũng là một trong những người đầu tiên nghiên cứu tiếng La tinh cổ. Nhưng về phương diện này, bác ngữ học cũng chỉ chuyên tâm đến văn bản mà bỏ qua tiếng nói; và hầu như chỉ nghiên cứu mảng ngữ tự cổ La Hy. Nói chung, bác ngữ học thế kỷ 18-19 chỉ quan tâm đến chữ viết mà bỏ qua lời nói.

Giai đoạn thứ ba, theo Saussure, bắt đầu khi người ta thấy có thể so sánh các ngôn ngữ với nhau. Và đó là nguồn gốc của nền bác ngữ học so sánhvăn phạm so sánh.

Năm 1816, trong tác phẩm tựa đề Système de la conjugaison du sanscrit (Phép chia động từ trong tiếng phạn)[7], Franz Bopp[8] nghiên cứu mối liên hệ giữa tiếng phạn với tiếng Nhật Nhĩ Man[9], tiếng Hy Lạp và tiếng La Tinh. Bopp không phải là người đầu tiên khám phá ra tiếng phạn là tổ tiên của một số thổ ngữ ở châu Âu và châu Á, nhưng ông nhận ra rằng những tương quan giữa các ngôn ngữ có họ hàng với nhau có thể là chất liệu cho một nền khoa học riêng. So sánh tiếng này với tiếng kia, giải nghiã hình thức tiếng nói của dân tộc này bằng hình thức tiếng nói của dân tộc khác, là điều trước ông, chưa ai tìm ra.

Bên cạnh Bopp, xuất hiện những nhà ngữ học nổi tiếng: Jacob Grimn[10] xây dựng nền móng nghiên cứu tiếng Nhật Nhĩ Man với cuốn Deutsche grammatik (Văn phạm Nhật Nhĩ Man) in năm 1822; August Friedrich Pott (1802-1887) nghiên cứu ngữ nguyên (étymologie), tức là tìm nguồn gốc của chữ, đã đem lại những kết quả đáng kể cho ngôn ngữ học; Adalbert Kuhn nghiên cứu ngữ học và thần thoại so sánh; ngoài ra còn có những nhà Ấn độ học như Theodor Benfey và Theodor Aufrecht, vv...

Trong trường phái so sánh có ba người đặc biệt góp phần rất lớn vào vấn đề nghiên cứu so sánh là Muller[11] quảng bá phương pháp so sánh trong những buổi diễn thuyết; Curtius[12], một trong những người đầu tiên bắc cầu văn phạm so sánh với bác ngữ học cổ điển; và Schleicher[13], người đầu tiên hệ thống hoá kết quả của những nghiên cứu chi tiết; tác phẩm Yếu lược văn phạm so sánh những tiếng Ấn-Nhật nhĩ man của ông, in năm 1861, hữu ích trong một thời gian dài, phản ánh toàn bộ diện mạo trường phái so sánh và cũng là giai đoạn đầu tiên của nền ngữ học Ấn-Âu.

Nhưng trường phái so sánh, vẫn theo phê bình của Saussure, tuy có công khai quang một mảnh đất mầu mỡ mới, nhưng vẫn chưa thành lập được một nền ngữ học có tính khoa học. Vì  giới hạn trong biên giới nghiên cứu ngôn ngữ Ấn-Âu, văn phạm so sánh không tự hỏi những đối chiếu ấy có ăn nhập gì với nhau và những điều họ khám phá ra có nghiã lý gì? Bởi chúng hoàn toàn chỉ có tính so sánh mà không mang tính lịch sử.

 

Chỉ từ khoảng 1870, người ta mới bắt đầu đặt câu hỏi: vậy những tính cách thiết yếu của đời sống các ngôn ngữ là gì? Và từ đó người ta mới nhận thấy rằng những điểm tương đồng liên kết các ngôn ngữ lại với nhau chỉ là một trong những cục diện của hiện tượng ngữ học, rằng sự so sánh chỉ là một phương tiện, một phương pháp, để tái thiết những sự kiện đã xẩy ra. 

Ngữ học đúng nghiã chỉ phát sinh từ sự nghiên cứu những thứ tiếng có nguồn gốc La tinh[14] do Diez mở đầu với cuốn Văn phạm những ngôn ngữ gốc La tinh[15], soạn từ 1836-1843, tác phẩm chủ yếu đã đưa ngữ học trở về với mục tiêu đích thực của nó.

Sở dĩ những nhà nghiên cứu ngữ học Romane và ngữ học Nhật Nhĩ Man đạt được kết quả khả quan vì họ có lợi thế hơn những nhà nghiên cứu ngữ học Ấn-Âu, nhờ chỗ biết rõ tiếng La tinh và những tiếng phát xuất từ tiếng La tinh và các cách nói của từng miền. Tóm lại, việc nghiên cứu ngôn ngữ Romane (Ý, Pháp, Tây ban Nha, Bồ Đào Nha...) và Nhật Nhĩ Man (Đức, Anh, Hoà Lan, Bắc Âu...) của các trường phái ngữ học thế kỷ 19, đã đưa đến những thành tựu đáng kể và đắc dụng hơn việc việc nghiên cứu ngôn ngữ Ấn-Âu của các trường phái so sánh thế kỷ 18.

Cuối thế kỷ XIX, Whitney (1827-1894) nhà ngữ học Mỹ, tác giả cuốn Cuộc sống của ngôn ngữ (1875) kích động một khuynh hướng mới: Tân văn phạm[16] mà những người đầu xướng đều là Đức: K. Brugmann, H. Osthoff, W. Braune, E. Sievers, H. Paul, thuộc nhóm Nhật nhĩ man học; Leskien, nhà Slave học[17]. Tân văn phạm cho rằng trường phái so sánh chỉ trình bầy  những trạng thái ngôn ngữ khác nhau mà không giải thích và tìm nguyên nhân.

Saussure, ở tuổi 21, viết cuốn Lược trình hệ thống nguyên thủy những nguyên âm Ấn-Âu (Mémoire sur le système primitif des voyelles indo-européennes) 1878, được coi là một thành tựu của trường phái này. Nhờ những nhà Tân văn phạm, người ta không còn coi tiếng nói như một cơ quan tự phát mà là một sản phẩm của trí tuệ cộng đồng của những nhóm ngôn ngữ.

 

 

Ngữ học Saussure

 

Saussure xác định: Chất liệu chính của ngữ học là tất cả những cách biểu hiện của ngôn ngữ loài người, từ những dân tộc bán khai đến những quốc gia văn minh, từ thời cổ đại, cổ điển đến lúc suy tàn, và trong mỗi thời kỳ của mỗi tiếng nói, còn phải kể đến, không chỉ ngôn ngữ đúng, "ngôn ngữ đẹp" mà còn phải khảo sát tất cả các cách phát biểu, tức là không chỉ có  lời nói mà cả các văn bản viết, chính những văn bản này sẽ cho biết những phương ngữ (idiome) tức là những lối nói của từng địa phương, đã dùng trong quá khứ hoặc trong những vùng xa.

Tóm lại, nhà ngữ học có ba nhiệm vụ:

1- Mô tả lịch sử tất cả những tiếng nói[18] có thể biết được, nghiã là mô tả lịch sử những tộc ngữ (familles de langues) và nếu có thể, tái thiết những tiếng nói gốc của mỗi tộc ngữ.

2- Tìm tác dụng thường trực và phổ quát của mỗi thứ tiếng, để đưa ra những quy luật chung, bao trùm lên những trường hợp riêng.

3- Giới hạn và xác định công việc nghiên cứu của mình.

Ngôn ngữ học, vì vậy, không những chỉ có ích cho sử học, bác ngữ học, và tất cả những ai phải tiếp cận với vấn đề ngôn ngữ. Hiển nhiên, nó cũng không chỉ là đối tượng của một số người, bởi nó có khả năng đóng góp vào kiến thức đại cương của mọi người, vì ngôn ngữ là yếu tố quan trọng nhất trong đời sống.

Saussure là người đầu tiên xác định ngôn ngữ như một tổ chức có hệ thống. Louis Hjelmslev[19] là người duy nhất nối tiếp và hoàn tất nền ngữ học Saussure, tạo ra Giải luận học  (Glossématique) đào sâu những lập thuyết cơ bản của Saussure, đặc biệt hai chủ đề chính:

- Tiếng nói là hình thức không phải là bản chất.

- Âm và ý không thể tách rời.

Claude Lévi-Strauss (1908-2009), cha đẻ nhân chủng học cấu trúc ở Pháp, sẽ liên kết cấu trúc ngôn ngữ với cấu trúc gia đình và cấu trúc xã hội con người.

Ở đây, chúng tôi chỉ xin nhắc lại một số quan điểm lưỡng phân ngữ học của Saussure đã trở thành ngọn đuốc soi sáng cho ngữ học và phê bình văn học trong thế kỷ XX.

 

* Saussure chia ngôn ngữ học làm hai phần:

1- Ngữ định học (Linguistique synchronique)[20] còn gọi là Ngữ học mô tả (Linguistique descritive) hay Ngữ tĩnh học (Linguistique statique): Khảo sát ngôn ngữ trong một giai đoạn ổn định[21].

2- Ngữ biến học (Linguistique diachronique) còn gọi là Ngữ học so sánh hay Ngữ học đối chiếu (Linguistique comparative) hay Ngữ động học (Linguistique évolutive): Khảo sát sự biến đổi của ngôn ngữ qua các thời đại.

Và bản thân sự khảo sát ngôn ngữ cũng chia làm hai phần:

 1- Ngôn ngữ chức năng (Linguistique fonctionnelle), tìm hiểu tác dụng của ngôn ngữ.

 2- Ngôn ngữ cấu trúc (Linguistique structurale), tìm hiểu cấu trúc của ngôn ngữ.  

Bốn nguyên tắc trên trở thành nền tảng của nghiên cứu văn học hiện đại.  

 

* Phân biệt tiếng nói với lời nói:

Nói là một hành động để giao tiếp, Saussure phân biệt:

Lời nói (la parole) là hành động cá nhân, diễn tả tư tưởng ý chí và trí thông minh của người nói trong quy ước ngôn ngữ mà y lựa chọn.

Tiếng nói (la langue) là hành động cộng đồng. Tiếng nói là một hệ thống ký hiệu[22] để diễn tả tư tưởng, nó có thể so sánh với chữ viết (một hệ thống ký hiệu khác), với hệ thống mẫu tự của người câm và điếc, và với các loại dấu hiệu khác... nhưng nó quan trọng hơn cả.

Nhiệm vụ của nhà ngữ học là phải xác định xem cái gì đã khiến cho tiếng nói trở thành một hệ thống đặc biệt trong toàn bộ các hệ thống dấu hiệu khác nhau của đời sống con người. Tiếng nói hiện diện trong cộng đồng như một tổng thể các dấu vết của mỗi khối óc cá nhân góp lại, dự trữ như một bộ từ điển được in ra nhiều bản cho mỗi cá nhân một cuốn để dùng.

 

* Phân biệt tiếng nóichữ viết:

Chữ viết (l'écriture) dùng để ghi tiếng nói. Nhưng tiếng nói (la langue) và chữ viết (l'écriture) là hai hệ thống ký hiệu khác nhau. Có hai loại chữ viết:

 - Hệ thống biểu hình (Système idéographique), dùng một thứ ký hiệu (có thể là hình vẽ) để biểu dương sự vật (như chữ Hán).

  - Hệ thống biểu âm (Système phonétique), dùng ký hiệu để ghi lại cái âm phát ra từ một tiếng (như chữ Pháp, chữ quốc ngữ, vv...).

 

* Phân biệt người nóingười nghe:

Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp, Saussure phân biệt hai tác nhân chính trong sự hình thành ngôn ngữ: người nóingười nghe. Ngôn ngữ chỉ hiện diện và tồn tại khi có hai thực thể: người nóingười nghe.

Áp dụng vào văn chương, quy ước này sẽ trở thành: tác phẩm chỉ hiện hữu khi có người viếtngười  đọc. Vai trò của người đọc, trở thành bất khả trong văn học: Một văn bản viết, nếu chưa có người đọc, chưa phải là cuốn sách. Nó chỉ trở thành sách khi có người đọc.

 

* Mổ xẻ động tác nói nghe:

Để mô tả hành trình cơ bản của tiếng nói, Saussure vẽ một vòng bầu dục kín nối hai đầu A (người nói) và B (người nghe):

Nếu tiếng nói khởi hành từ A: A là kẻ đã tích lũy trong đầu một số dữ kiện của ý thức, hay  khái niệm (concept); nói khác đi: A có một số ý muốn nói ra; vậy A phải liên kết những khái niệm đã có trong đầu này với những hình tượng có âm hưởng (images acoustiques) tương ứng, để phát biểu, nói khác đi: A phải tìm tiếng, hay lời để nói; "khâu" này, tức là khâu liên kết ý với lời ở trong óc A, hoàn toàn thuộc địa hạt tâm linh.

Tiếp theo đó: óc A truyền cho cơ quan phát âm lệnh "nói" cái hình tượng (tức là âm, tiếng hay lời) ấy ra: khâu này thuộc điạ hạt sinh lý.

Khâu thứ ba: những làn sóng truyền âm thanh từ miệng A đến tai B: một hiện tượng hoàn toàn vật lý.

Tại B, tiến trình ngược lại: hình tượng (âm, lời) mà tai B nhận được sẽ được chuyển lên óc, là một tiến trình sinh lý. Óc B phải nối kết cái hình tượng (âm, lời) vừa nhận được ấy, với cái khái niệm (ý) tương ứng, nói khác đi: óc B phải giải nghiã cái âm vừa nhận được từ A thành ý: một hiện tượng tâm linh.

Và nếu B trả lời A, thì mạch nói lại truyền đi theo con đường cũ...

Sự khảo sát vận trình này cho phép ta phân biệt ba yếu tố chính trong tiếng nói: 1- phần tâm linh (tức là tìm khái niệmhình tượng, hay là tìm ý và tìm lời); 2- phần vật lý (sóng phát âm) và 3- phần sinh lý (việc phát âm và việc nghe).

Một cách cụ thể hơn: Nếu muốn tìm một tiếng để chỉ cái cây, thì trước tiên ta phải có khái niệm về cây trong đầu, rồi mới phối hợp khái niệm cây với cái hình tượng có âm hưởng (tức là âm thanh phát ra tiếng cây), và truyền cái âm cây ấy đến tai người nghe.

Saussure gọi sự phối hợp khái niệm với hình tượngký hiệu (signe) gọi cái khái niệm (concept) là ý hay nghiã (signifié) và cái hình tượng có âm hưởng (image acoustique) là tiếng hay âm (signifiant).

Trong ngôn ngữ thông thường, người ta trùng hợp ký hiệu với hình tượng.

Tóm lại, theo Saussure, ký hiệu ngôn ngữ không nối kết một sự vật (une chose) với tên gọi của nó (son nom) mà nối kết một khái niệm (un concept) với một hình tượng có âm hưởng (image ascoustique).

Hình tượng này (tức là tiếng nói) không chỉ là một âm thanh cụ thể, thuộc phạm vi vật chất, mà nó còn mang dấu ấn tâm linh, gánh cảm thức của con người. Bởi vậy, không cần mở môi, động lưỡi, phát âm, ta cũng vẫn "nói chuyện" được với chính mình và ta vẫn "đọc" thầm được bài thơ. Vì mỗi tiếng là một hình tượng có âm hưởng.

Ký hiệu ngôn ngữ chính là sự kết hợp âm thanh với ý tưởng, trong một chuyển động có tính cách vật lý, sinh lý và tâm linh.

Tư tưởng, tự bản chất, là một mớ hỗn độn, khi muốn nói ra, nó bắt buộc phải rõ ràng, chính xác, bằng cách tự biến đổi sao cho cái tư tưởng- âm thanh (tức là tiếng nói) ấy trở thành: một ý ngụ trong một âm, hay một âm trở thành ký hiệu của một ý.

Vì vậy, tiếng nói có thể ví như một tờ giấy mà mặt trái là âm và mặt phải là ý, hai thực thể không thể tách rời. Ngữ học nghiên cứu vùng đất mà hai thực thể âmý hòa trộn với nhau để tạo ra một sản phẩm là tiếng nói.

Kết luận: trong tiếng nói không thể tách rời âmý. Âm và ý là những thành tố cơ bản của tiếng nói, có sự gắn bó hữu cơ, như tâm linh và thể xác con người.

Sự khám phá này, sẽ là căn bản cho việc khảo sát thơ và sự sáng tạo các hình ảnh trong thơ.

 

* Nhưng trong cách phát biểu, giọng điệu của lời nói cũng đóng một vai trò quan trọng: ví dụ cùng một tiếng đánh, nhưng chúng mang ý nghiã khác nhau trong cách phát âm, trong cách đặt câu, trong cá tính của người phát biểu, trong bối cảnh vây quanh phát biểu...

Từ đó, Saussure đưa ra định thức: Tiếng nói nào cũng gồm thâu nội dung và cách diễn tả (Toute langue est à la fois expression et contenu).

Jakobson chép lại sự kiện một diễn viên Nga kể cho ông: Khi dự thi tuyển lựa tài tử, một đạo diễn bắt ông phải rút ra 40 tín hiệu khác nhau khi nói hai chữ chiều nay.   

Khám phá của Saussure giải thích sự quan trọng của cách phát âm; của giọng điệu trong cách viết của nhà văn; cách trình diễn của nghệ sĩ; cách bài bố của đạo diễn. 

 

* Lựa chọnkết hợp:

Theo Saussure, hành động ngôn ngữ dựa trên hai trục chính: lựa chọn trong những tiếng đồng chủng loại (paradigme) và kết hợp thành một cú (syntagme).

Ví dụ muốn nói câu: tôi đi học, thì việc đầu tiên là phải lựa chọn ba tiếng: tôi, đi và học, trong toàn bộ các tiếng đồng chủng loại như (tôi, ta...), (đi, chạy,...), (học, tập...).

Việc thứ nhì là kết hợp những tiếng đã được chọn theo một quy ước ngôn ngữ đã chọn (ở đây là cú pháp tiếng Việt), để làm thành câu tôi đi học, chứ không thể nói: học đi tôi hay học tôi đi...

Hai yếu tố căn bản này sẽ là nền tảng cho sự khảo sát ngôn ngữ thơ, một ngôn ngữ đảo ngược các quy ước, trật tự thông thường của lời nói và văn viết để tạo nên những lối nói, những hình ảnh đặc dị, khác thường.

 

* Định thức quan trọng sau cùng, Saussure cho rằng: tiếng nói là hình thức chứ không phải là bản chất (la langue n'est pas substance, mais forme). Câu này có nghiã gì?

Ví dụ: lingerie hay humour trong tiếng Pháp, không thể dịch ra tiếng Việt. Nếu dịch lingeriequần áo lót, thì chỉ đúng có một phần, bởi lingerie bao gồm tất cả những "vật dụng phụ tùng" mềm mại và âu yếm bao quanh thân thể người phụ nữ trong khuê phòng mà "người ngoài" không thể thấy, nó gói trọn nữ tính kín đáo của người đàn bà. Humour cũng không thể dịch là u mặc hay dỉ dỏm: U mặc có âm u gợi ý u ám, trái với bản chất của humour, và dí dỏm không nói lên được tính chất thâm thúy ẩn trong humour. Ngược lại, những tiếng ủa hay khan (như trà khan giọng tình) trong tiếng Việt, không thể dịch sang tiếng Pháp. Nhưng nếu tiếng nói là bản chất của thực thể mà nó diễn đạt, thì bất cứ tiếng nào trong tiếng Pháp cũng có thể dịch ra tiếng Việt và ngược lại.

Nhận xét này đưa đến kết luận: ký hiệu ngôn ngữ của một thứ tiếng chỉ là một hình thức diễn đạt thực thể, nó không bao trùm lên toàn bộ bản chất của thực thể, nói khác đi, nó không phải là một chất liệu tiềm ẩn mọi sắc thái của thực thể mà nó muốn diễn đạt.

 

Tóm lại những định thức cơ bản trong Giáo trình ngữ học đại cương của Saussure:

- Tiếng nói là hình thức chứ không phải chất liệu.

- Âm (signifiant) và ý (signifié) không thể tách rời.

- Tiếng nói nào cũng gồm thâu nội dung và cách diễn tả.

Áo dụng vào dịch thuật và nghiên cứu văn học sẽ đưa đến những kiến giải bất ngờ.

Thụy Khuê


 

[1] Tức Port-Royal-des-Champs, nữ tu viện xây năm 1204, nay còn dấu vết, ở thung lũng La Cheuveuse, thuộc thị xã Yvelines, phía nam gần Paris.

[2] Grammaire générale et raisonnée (Văn phạm tổng quát và có suy luận) hay Art de parler (Nghệ thuật nói) của Antoine Arnauld (1612-1694) và Claude Lancelot (1616-1695), in năm 1660.

[3] Logique ou Art de penser (Luận lý hay nghệ thuật suy tưởng) của Antoine Arnauld và Pierre Nicole (1625-1695), in năm 1662.

[4] Ferdinand de Saussure (1857-1913), nhà ngữ học Thụy Sĩ, sau khi học và trình luận án ở Leipzig năm 1880, ông dạy văn phạm so sánh ở Paris rồi Genève. Tại đây, từ 1907 đến 1911, ông đã có 3 loạt bài giảng, và sau khi ông mất, hai môn sinh của ông, Charles Bally và Albert Séchehaye thu thập và in thành tác phẩm Cours de linguistique générale (Giáo trình ngữ học đại cương), lần đầu năm 1916. Đây là cuốn sách cơ bản về ngữ học và Saussure được coi là cha đẻ của nền ngữ học hiện đại.

[5] Fredinand de Saussure, Cours de linguistique générale, Bibliothèque scientifique Payot, 1972, Paris, trang 13.

[6] Sách Giáo trình ngữ học đại cương ghi Friedrich August Wolf, năm 1777, đã mở đầu cho môn bác ngữ học này. Nhưng năm đó, Wolf mới 18 tuổi, chưa có công trình gì. Các học trò khác của Saussure, có người ghi: "F. A. Wolf, năm 1777, lúc còn là sinh viên, đã mong được gọi là nhà bác ngữ học". Thực ra, trong đơn xin vào đại học Gottingen, Wolf ghi tên học ban philologie nhưng ông khoa trưởng từ chối vì chưa có "ban" này, ông sửa lại theo tên truyền thống théologie (thần học). Nhưng Wolf cứng đầu, cứ tiếp tục tranh đấu và cuối cùng môn philologie được đưa vào danh sách của đại học. Saussure dựa vào chi tiết này để xác định sự hiện diện của môn bác ngữ học từ năm 1777, nhờ Wolf. (Cours de linguistique générale, chú thích số 23, trang 410).

[7] Phạn là tiếng Ần độ cổ, có nguồn gốc từ tiếng nói của người Aryens (Aryens trong tiếng phạn có nghiã là Quý tộc), giòng giống này nguồn gốc Ần-Âu, từ thế kỷ 18 trước Tây lịch, đã chinh phục vùng Iran và miền bắc Ấn Độ. Tiếng nói của họ là tổ tiên của tiếng phạn (sanscrit) và tiếng pali.

[8] Franz Bopp (1791-1867), nhà ngữ học Đức, tác giả cuốn Vergleichende Grammatik des Sanskrit, Send, Arménischen, Griechischen, Lateinischen, Altslavischen und Deutschen (Grammaire comparée des langues Indo-européennes- Văn phạm so sánh những tiếng Ấn-Âu) (1833-1852), tác phẩm này được coi là nguồn gốc của ngữ học so sánh.

[9] Nhật Nhĩ Man (Germanie) là vùng nước Đức xưa (chúng tôi dùng Nhật Nhĩ Man để phân biệt với Đức bây giờ). Tiếng Nhật Nhĩ Man là nguồn gốc của tiếng Anh, tiếng Đức, tiếng Hoà Lan, tiếng Frisesland (quần đảo ở Bắc hải thuộc Hoà Lan và Đức), và các tiếng Bắc Âu.

[10] Jacob Grimn (1785-1863), tác giả bộ sách đồ sộ Deutsche grammatik (Văn phạm Nhật Nhĩ Man), được coi là người xây dựng nền móng bác ngữ học Đức. Em ông, Wilhelm G. Grimn (1786- 1859) đã cùng anh sưu tầm truyện thần thoại Nhật Nhĩ Man in trong Contes d'enfants et du foyer (Truyện thần thoại của trẻ con và gia đình).

[11] Max Muller (1823-1900), học trò Bopp, tác giả Lectures on the Science of Language (Lecon de langage- Bài học về khoa ngôn ngữ), 1861.

[12] Georg Curtius (1820-1885), thày Saussure, tác giả cuốn sách cơ bản Grundzuge der griechischen Etymologie (Principes d'étymologie grecque - Những nguyên tắc từ nguyên Hy Lạp), 1879, người đã có công làm cho những nhà bác ngữ học cổ điển chấp nhận ngữ học so sánh.

[13] August Schleicher (1821-1862), chuyên về văn phạm so sánh, người đầu tiên muốn tái thiết ngôn ngữ Ấn-Âu nguyên thủy, tác giả cuốn Compendium der vergleichenden Grammatik der indogermanischen Sprachen (Abrégé de grammaire comparée des langues indo-germaniques - Yếu lược văn phạm so sánh những tiếng Ấn-Nhật Nhĩ Man), 1861.

[14] Langues romanes là những tiếng có nguồn gốc từ tiếng La-tinh, gồm tiếng Pháp, Ý, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Lỗ Ma Ni (Roumainie), Sardaigne, Occitan (là những thổ âm ở miền Nam nước Pháp thời trung cổ, gồm các vùng Limousin, Auvergne, Gascogne, Laguedoc, Provence) và Catalan (tiếng romane nói ở các vùng Catalogne, quần đảo Baléares, và vùng Roussillon, cực nam nước Pháp).

[15] Friedrich Christian Diez (1794-1876), tác giả bộ sách Grammatik der romanischen Sprachen (Grammaire des langues romanes - Văn Phạm những tiếng gốc La tinh) viết từ 1836 đến 1843, là người xây dựng nền móng của ngành ngữ học Romane (các tiếng Pháp, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha...). Sausure coi ngữ học Romane và ngữ học Nhật Nhĩ Man (tiếng Anh, Đức, Hoà Lan...) là hai khu vực sắc bén của ngữ học.

[16] Tân văn phạm, tiếng Đức là Junggrammatiker; tiếng Pháp là Néogrammairiens.

[17] Tiếng Slave là nguồn gốc các tiếng Nga, Serbe, Croate, Lituanien, Tchèque, Polonais...

[18] Tiếng Đức chữ Sprache có nghĩa là tiếngngôn ngữ; tiếng Pháp phân biệt langue và langage. Trương Văn Chình và Nguyễn Hiến Lê dịch languetộc ngữ, chúng tôi dịch langue tiếng (như tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Việt) để phân biệt với langagengôn ngữ, bao trùm nhiều thứ tiếng, và dành chữ tộc ngữ để dịch famille de langues, chỉ một họ ngôn ngữ có chung một mẹ (nguồn).

[19] Louis Hjelmslev (1899- 1965), nhà ngữ học Đan Mạch.

[20] Chúng tôi dùng cách dịch của Trương Văn Chình và Nguyễn Hiến Lê: Lingustique synchroniqueNgữ định học Linguistique diachroniqueNgữ biến học, trong cuốn Khảo luận về ngữ pháp Việt Nam (trang 22).

[21] Khoảng thời gian này không nhất thiết là ngắn hay dài: Có khi chỉ trong vài năm, ngôn ngữ đã có những thay đổi đáng kể, có khi cả hàng chục có khi hàng trăm năm, ngôn ngữ vẫn không mấy thay đổi.

[22] Signe, tiếng Pháp, từ tiếng La tinh Signum, chỉ các hình thái diễn tả; chúng tôi dịch là Ký hiệu, trong phạm vi ngữ học và Dấu hiệu, khi muốn mở rộng đến các lãnh vực ngoài ngôn ngữ.

 

 

© Copyright Thụy Khuê 2005, 2012