Thụy Khuê

Phê bình văn học thế kỷ XX

 

Chương 3

 

Thi học Aristote

 

Aristote sinh năm 384 trước Tây lịch[1] tại Stagire[2], miền nam Macédoine[3] gần núi Athos. Mẹ: Phestias. Cha, Nicomaque, là bạn và thầy thuốc của vua Macédoine. Năm 367, Aristote rời Stagire đi Athènes. Từ 365 đến 347 ông là môn sinh của Platon tại Hàn Lâm Viện và trở thành học trò nổi tiếng nhất của Platon. Aristote có giọng nói nhỏ nhẹ, chân yếu và mắt nhỏ, luôn luôn ăn mặc kiểu cách, đeo vòng và cạo râu nhẵn nhụi.

Năm 347, Platon qua đời. Aristote rời Athènes. Vì không đợi thày từ trần mà đi trước, nên Platon có lời oán trách, coi Aristote như "con cừu non, vừa sinh ra, đã tìm đường chống mẹ". Aristote sang Atarnée[4], phò Hermias và ở lại 3 năm (từ 346 đến 343). Khoảng 345, ông cưới Pythias, cháu gái (?) Hermias, sinh hai con, một gái, một trai; và nàng hầu Herpyllis cũng sinh một trai đặt tên là Nicomaque.

Năm 343, Aristote rời Atarnée cùng với môn sinh Théophraste về Lesbos[5] tức Mytilène quê của Théophraste. Năm sau, ông trở lại Macédoine, được vua Philippe II vời làm thầy dạy Alexandre, lúc đó 14 tuổi. Ông vận động Philippe II xây dựng lại Stagire, quê hương ông đã bị nhà vua tàn phá, và chính Aristote thiết lập luật lệ cho dân chúng. 

Năm 338, Philippe II đại thắng quân Athènes và quân Thèbes tại trận Chéronée[6]. Athènes mất chủ quyền. Hai năm sau, 336, Philippe II bị ám sát. Alexandre lên ngôi, sau trở thành đại đế[7]. Năm 335, xét thấy đã làm xong bổn phận với vua mới, Aristote tiến cử cháu mình là Callisthène với Alexandre -một người trực tính hay chỉ trích và coi thường mệnh lệnh của nhà vua- rồi về Athènes mở Ecole du Lycée, dạy học trong 13 năm (335-323).

Năm 327, Callisthène tham dự vào một cuộc đảo chính, bị Alexandre bắt giam trong cũi sắt bêu một thời gian, để cho bẩn thỉu và dòi bọ xâu xé, rồi ném cho sư tử.

Tháng 6 năm 323, Alexandre chết.  Làn sóng chống Macédoine nổi dậy ở Athènes.

Mùa hè năm 323, Aristote bị buộc tội "nghịch đạo". Ông lui về ở ẩn tại Calchis, quê mẹ. Théophraste thay thầy làm hiệu trưởng Ecole du Lycée.

323/322 Aristote qua đời tại Calchis.

 

*

 

Aristote dạy học bằng cách nói chuyện với học trò trên một chủ đề đã định, cùng lúc dạy họ phương pháp hùng biện (rhétorique). Những lời đối thoại của ông đối với môn sinh được truyền lại như những lời Tử nói, Tử viết.

Theo Diogène Laërce[8], toàn bộ tác phẩm của Aristote, gồm bốn trăm bốn mươi lăm ngàn hai trăm bẩy mươi dòng. Chủ thuyết giảng dạy của ông dựa trên căn bản:

Triết học gồm hai phần: lý thuyết và thực hành. Phần thực hành lại chia đôi: đạo đức và chính trị. Phần lý thuyết cũng chia hai: vật lý và luận lý với hai mục đích: thuyết phục và tìm sự thực. Dùng chứng biện (dialectique) và hùng biện (rhétorique) như lợi khí để thuyết phục và dùng sự phân tíchtriết học để khám phá sự thực. Aristote đưa ra những Thông cứ (Les Topiques d'Aristote)[9] tức những luận điểm đi sát vấn đề và những khảo luận về phương pháp luận, thực sự là những kho kiến luận lợi hại giúp người đọc rút ra những lập luận vững chắc để thuyết phục bất cứ vấn đề gì[10].

Tác phẩm của Aristote chia làm hai phần:

Loạt sách khảo luận, được gọi là công truyền (exotérique) bao gồm: biện chứng pháp, vạn vật học, hay khoa học, tương đối dễ đọc, dành cho quần chúng ngoại đạo, có thể từ từ bước vào những tiếp cận chính xác và nghiêm chỉnh về một hiện tượng.

Loạt sách khảo luận bí truyền (ésotérique), dành riêng cho môn sinh, là những người có thể hiểu được lời giảng của thầy đến nơi đến chốn.

Theo Aulu-Gelle[11], lớp sáng, dành cho giáo trình bí truyền và lớp chiều dành cho giáo trình công truyền.

Aristote chỉ cho in những sách công truyền, phần lớn dưới dạng đối thoại, nhưng tất cả đều bị thất lạc. Riêng phần giáo trình bí truyền, được giữ dưới dạng ghi chép, chú giải (notes).

Khi ông mất, toàn bộ gia tài đồ sộ này về tay đệ nhật môn sinh Théophraste (372-287), nhưng người học trò trung thành này cũng không in được các bài giảng của thầy. Khi Théophraste từ trần, tất cả tư liệu được cất giấu trong một cái hầm để tránh sự săn lùng bản thảo của vua Pergame[12]; và chỉ được khai quật lại vào đầu thế kỷ thứ I (hay cuối thế kỷ II) trong tình trạng hết sức tồi tệ. Từ đó người ta mới bắt đầu chép lại sách của Aristote, nhưng số lượng quá nhiều, làm không xuể, nhà xuất bản nản chí, và cuối cùng chỉ chép lại phần bí truyền, phải bỏ phần công truyền, vì thấy không sâu sắc, do đó phần này bị mất hẳn.   

Sylla (138-78), vị thống lãnh La Mã đã chủ lệnh xuất bản, chăm sóc kỹ càng bộ sách khảo luận của Aristote, nhờ vậy mà những khảo luận lớn của Aristote được tồn tại đến ngày nay như Luận lý toàn thư (Orgagnon), Chính trị học (La Politique), Vạn vật học (L'histoire des animaux), vv...

 

*

 

Tác phẩm Poétique được truyền đến bây giờ trong một tình trạng thiếu sót và lộn xộn, thuộc địa hạt bí truyền. Dường như chưa bao giờ tác giả dàn dựng lại, bởi nó còn ở dạng những mảnh vụn, với những câu tỉnh lược, những lời bàn rộng, những liệt kê khó đoán, những chỗ mâu thuẫn, có chỗ cú pháp dị kỳ, có lẽ Aristote chưa hề đọc lại...

Bỏ qua khổ nạn của những nhà dịch thuật và chú giải Aristote, chúng ta đi thẳng vào những điểm chính mà Aristote, người thày đầu tiên của thi học đã để lại cho hậu thế, đặc biệt trong lãnh vực ngữ học và phê bình văn học.

Được viết với chủ đích đưa ra những khuôn vàng thước ngọc cho nhà văn nhà thơ dựa vào để sáng tác một bi tráng kịch, một anh hùng ca, tương tự như cuốn Rhétorique (Thuật hùng biện) Aristote đề nghị những luật vàng để viết một bài diễn thuyết; Thi học còn đóng một vai trò khác: điều tra nguồn cội nghệ thuật và trình bày những nền móng cơ bản để khảo sát cấu trúc thơ văn.

 

Nghệ thuật bắt nguồn từ sự bắt chước, trình bày và trình diễn

 

Trong Thi học, Aristote coi Mimèsis như nguồn cội của các ngành nghệ thuật, tuy nhiên ông không định nghĩa rõ ràng thế nào là Mimèsis.

Chữ Mimèsis, dường như được dùng lần đầu bởi những người theo trường phái Pythagore (thế kỷ VI trước Tây lịch), để chỉ âm nhạcvũ điệu, và nó còn có liên hệ từ nguyên với chữ  mimoi, chỉ nghệ thuật tuồng câm. Vậy từ nguyên thuỷ, Mimèsis đã gắn bó với nghệ thuật trình diễn[13].

Dịch giả Pháp chia làm hai trường phái: một phái dịch là Imitation (bắt chước), một phái dịch là Représentation (trình bày, trình diễn). Trong Thi học, Aristote dùng cả ba nghiã: bắt chước, trình bày và trình diễn nhưng đặt trọng tâm trên sự bắt chước. Erich Auerbach, nhà phê bình lớn của Đức trong thế kỷ XX, dùng Mimèsis làm tên bộ sách phê bình đồ sộ của ông với tiểu đề: Sự trình bầy thực tế trong văn chương Tây phương.

 

Điểm đầu tiên, Aristote xác định: nghệ thuật bắt nguồn từ sự bắt chước.

Từ tuổi thơ ấu, con người đã biếtthích bắt chước. Khả năng bắt chước phân biệt con người với muôn loài và nhờ đó mà ngôn ngữ nẩy sinh. Toàn bộ nghệ thuật thi ca, từ nguồn cội, dường như có hai nguyên do tự nhiên:

1- Bắt chước, là khuynh hướng tự nhiên đầu tiên của con người, từ tuổi thơ.

Theo Aristote, anh hùng ca, bi ca, hài ca, tụng ca, và nghệ thuật trình diễn của những nhạc công[14] đều là bắt chước. Nhưng họ bắt chước theo ba cách khác nhau:

Một là, dùng các phương tiện khác nhau. Hai là, nhắm các đối tượng khác nhau. Ba là,  dùng những lối bắt chước khác nhau[15].

Ví dụ: họa sĩ dùng mầu và nét để vẽ (bắt chước) đối tượng. Diễn viên dùng tiếng nói và cử chỉ để bắt chước đối tượng. Nhạc công dùng âm giai và nhịp điệu để bắt chước đối tượng. Vũ công dùng vũ điệu để bắt chước tình tình, cảm xúc và hành động của đối tượng.

 

2- Trình bày là khuynh hướng tự nhiên thứ nhì. Ví dụ: Đối với những đối tượng quá phũ phàng như xác chết, chúng ta thích xem những hình ảnh, hình tượng (image) trình bày lại đối tượng ấy, hơn là nhìn bằng mắt thật. Bởi những hình ảnh, hình tượng này không những mang lại những kiến thức đầy đủ về đối tượng, mà còn là một toàn thể hoàn tất về đối tượng. Nói khác đi, chúng ta thích nhìn tranh họa sĩ vẽ cảnh chiến tranh hơn là nhìn cảnh thực những xác người. Chúng ta thích đọc tiểu thuyết, xem phim chiến tranh hơn là nhìn thấy tận mắt cảnh đẫm máu sa trường. Nguyên tắc Mimèsis là sự chuyển thể thực tế sang các mô hình nghệ thuật của Aristote sẽ trở thành biểu thức bao trùm lên tất cả mọi định nghĩa các loại hình nghệ thuật.

 

Vậy bắt chướctrình bày là hai động tác căn bản của sáng tác:

Anh hùng ca (épopée) là bắt chước những mẫu người cao cả. Bi tráng kịch (tragédie) là bắt chước những hành động cao cả và kịch (comédie) là bắt chước những mẫu người tầm thường. Nhưng muốn đạt đến nghệ thuật thì điều kiện hiển nhiên là tất cả những hình thái "bắt chước" này đều phải là một toàn thể hoàn chỉnh và có tầm vóc phổ quát[16].

Theo Aristote, sự khác biệt giữa một sử gia và một nhà thơ, không phải là sử gia viết văn xuôi và thi sĩ làm thơ, mà là sử gia viết những gì đã xẩy ra còn nhà thơ viết những gì mà ta chờ đợi. Vì vậy, thi ca chứa đựng triết lý và cao cả hơn sử học, vì nhà thơ nói cái chung, cái phổ quát còn sử gia nói cái riêng[17].

 

 

Tạo kinh ngạc

 

Chủ đích bắt chước trong nghệ thuật, không chỉ là mô tả một tình huống, một hành động cho tới cùng, tới hết, để hình thành một toàn thể hoàn chỉnh; nhưng còn phải tạo ra những diễn biến thế nào để kích thích sự sợ hãi và sự thương cảm của khán, thính và độc giả. Tác giả bi kịch phải đạt đến một trình độ nghệ thuật nào đó, khiến cho, ta chỉ cần nghe tuồng Oedipe không thôi, chưa xem trình diễn, mà đã đẫm cảm, đã nổi da gà. Những cảm giác này chỉ có thể xuất hiện khi diễn biến xẩy ra trái với chờ đợi của chúng ta, và nếu nó lại đến một cách tự nhiên hoạc tình cờ mà lại như cố ý, thì sự kinh ngạc càng lớn: Ví dụ trường hợp bức tượng của Mitys ở Argos giết kẻ là thủ phạm cái chết của Mitys bằng cách rơi xuống kẻ đó  đúng lúc y đang coi hát[18].

Yếu tố gây kinh ngạc của Aristote, sẽ là một trong những giá trị nền tảng của tác phẩm nghệ thuật, và sẽ được áp dụng triệt để trong phim, truyện trinh thám.

 

 

Ẩn dụ là một trong những thủ pháp chính của nghệ thuật

 

Để tạo "ấn tượng" sâu xa trong lòng người xem người đọc, ngoài thủ pháp gây kinh ngạc, còn có thủ pháp thư nhì: dùng ẩn dụ.  

Ðịnh nghĩa xa xôi và sâu xa nhất về ẩn dụ, vẫn đến từ Aristote: "Ẩn dụ là sự chuyển đạt cho một vật cái tên để chỉ vật khác, cách chuyển đạt này có thể đi từ loại sang thể loại, từ thể loại sang loại, từ thể loại sang thể loại, hoặc theo mối tương quan tương đồng"[19].

Aristote giải thích như sau: Khi nói, từ loại sang thể loại có nghiã là tôi nói: "đây thuyền tôi dừng lại" vì ở đây thả neo cũng là dừng lại.

Hoạc từ thể loại sang loại, như câu: "Ulysse đã hoàn tất mười ngàn công trạng" thì mười ngàn ở đây có nghiã là nhiều lắm.

Hoặc từ thể loại sang thể loại, như câu: "sự sắt đá đã hủy hoại đời nó" và câu "nó đã cắt đứt sự bền gan sắt đá", là bởi vì trong cả hai câu trên, chữ hủy hoại trong câu thứ nhất cũng có nghiã là cắt đứt, và chữ cắt đứt trong câu thứ hai cũng có nghiã là hủy hoại, và cả hai trưòng hợp đều có nghiã là lấy đi.

Hoặc mối tương quan giữa tuổi già với cuộc đời cũng giống như mối tương quan của buổi chiều với một ngày, vì vậy, Empédocle[20] nói: "buổi chiều của cuộc đời" hay "hoàng hôn của cuộc đời".

Trên đây, Aristote đã định nghiã ẩn dụ trong nghiã rộng nhất. Có thể nói ẩn dụ thời Aristote đồng nghiã với tu từ. Sau này, người ta chia ra nhiều phép tu từ khác nhau:

Ẩn dụ (métaphore) là sự thay thế hai yếu tố giống nhau: như hoàng hôn với tuổi già.

Hoán dụ (métonymie) là sự thay thế, dựa trên những tương quan: nhân và quả; bình chứa và cái được chứa trong bình; ký hiệu và vật chỉ định; một phần và toàn thể, vv... như má hồng với người phụ nữ.

 Đề dụ (synecdocque) là tương quan nội tại giữa chữ và nghiã, ví dụ: trong chữ sắt đá đã ẩn nghiã cắt đứt...

Tóm lại, các loại ẩn dụ giúp ngôn ngữ thoát ra khỏi sự tầm thường, đem cái lạ vào ngôn ngữ, tạo hình ảnh và đồng thời đem đến cho ngôn ngữ một chiều sâu mới.

 

 

Lạ hoá ngôn ngữ

 

Aristote viết: "Giá trị của phát biểu nằm ở chỗ sáng sủa mà không bằng phẳng, vô vị. Cách phát biểu sáng sủa nhất là dùng các từ thông dụng, nhưng nó lại tầm thường, nhạt nhẽo, ví dụ như thơ của Cléophon hay Sthénélos[21]. Muốn thoát khỏi sự tầm thường nhạt nhẽo, để tiến đến cách diễn đạt cao quý, thì phải dùng các từ lạ (termes étranges). Bằng chữ "từ lạ" tôi muốn nói đến những từ hiếm, như một ẩn dụ, một chữ biến đổi, hay tất cả những gì thoát ra khỏi lối nói thông thường. Nhưng nếu một văn bản chỉ toàn những từ như vậy, sẽ bí hiểm, hoặc xí xa xí xố như tiếng ngoại quốc: Bí hiểm nếu nó chỉ có ẩn dụ, và xí xa xí xố nếu chỉ có những từ hiếm[22]. Vậy phải trộn cả hai yếu tố: những ẩn dụ, những lời hoa mỹ, hoặc những lối tu từ, giúp ta tránh khỏi sự tầm thường, nhạt nhẽo, trong khi những tiếng thông dụng hàng ngày giúp cho lời văn sáng sủa"[23].

 

Tất cả những nguyên tắc Aristote dùng trong quy phạm giáo trình dạy học trò "sáng tác" anh hùng ca, bi tráng kịch và kịch, sẽ trở thành những nguyên tắc cho sáng tác nói chung, và các triết gia, các nhà ngữ học, nhà phê bình đời sau đều ít nhiều dựa vào, đào sâu và mở rộng thành những lý thuyết văn học.

Thụy Khuê
 


[1] Những năm tháng ghi trong chương này đều là trước Tây lịch.

[2] Nay là Stavro, thành phố thuộc Hy Lạp cổ đại, trên bờ biển Égée.

[3] Vùng đất lịch sử thuộc bán đảo Balkans, chủ yếu đồi núi, mở xuống các vịnh, lớn nhất là Vardar. Macédoine thuộc địa phận các nước Bulgarie, Hy Lạp và Yougoslavie ngày nay.

[4] Xứ Atarnée thuộc vùng tây bắc Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay.

[5] Lesbos hay Mytilène, đảo Hy Lạp trên biển Egée, gần Thổ Nhĩ Kỳ, cùng với Alcée và Sappho là ba kinh đô của thơ trữ tình (poésie lyrique, nguyên thuỷ là thơ được hát theo đàn lyre, tức ly cầm).

[6] Chéronée, thành phố gần Thèbes.

[7] Alexandre (356-323) tức Alexandre đại đế (336-323), vua Macédoine, bình định Hy lạp, chiếm Ai cập, xây hải cảng Alexandrie, chiếm Babylone, đánh Ba Tư, đốt Persépolis, đánh sang Ấn Độ. Quân đội kiệt quê, Alexandre trở về Babylone tổ chức lại định chế, nhưng chết ở Babylone.

[8] Diogène Laërce, nhà văn Hy Lạp thế kỷ III sau Tây lịch, viết về các trường phái triết học và chân dung văn học thời cổ đại, miêu tả và trích dẫn nhiều tác phẩm nay không còn dấu vết.

[9] Thông cứ (Topique) hay luận cứ thích đương là luận điểm đi sát vào vấn đề.

[10] Theo trích đoạn cuốn Vie d'Aristote (Đời Aristote) của Diogène Laërce, in trong bản dịch Poétique (Thi học) của Michel Magnien, Poche, 1990, trang 5-17.

[11] Aulu-Gelle là tiểu luận gia La tinh, thế kỷ II, sau Tây lịch.

[12] Pergame, thành phố ở Mysie, vùng Tiểu Á, bị Hy Lạp đô hộ. Từ 282 đến 133, Pergame là kinh đô của triều đại Attalides và là một trong những trung tâm văn hoá Hy lạp, nổi tiếng với Thư viện Pergame, gần 200.000 cuốn sách.

[13] Introduction, Poétique, do Michel Magnien dịch và chú giải, Livre de Poche, 1990, trang 30.

[14] Aristote muốn nói đến những người thổi sáo, đánh đàn cithare (thể hoàn chỉnh của đàn lyre), ta dịch là thất huyền hay lục huyền.

[15] Aristote, Poétique, Michel Magnien dịch và chú giải, Livre de Poche, 1990, trang 101-102.

[16] Aristote, Poétique, trang 114.

[17] Aristote, Poétique, trang 117.

[18] Truyện này không biết chép ở đâu, Plutarque cũng viết như thế, Poétique, trang 118.

[19] "La métaphore est le transport à une chose d'un nom qui en désigne une autre, transport ou du genre à l'espèce, ou de l'espèce au genre, ou de l'espèce à l'espèce ou d'après le rapport d'analogie" (Poétique, bản dịch của Michel Magnien, trang 139).

[20] Empédocle, triết gia Hy Lạp, thế kỷ V trước Tây lịch, gieo mình vào miệng núi lửa Etna.

[21] Hai người này chỉ thấy tên do Aristote nhắc đến.

[22] Từ hiếm (nom rare) đối với Aristote là những chữ nhà thơ tạo ra, hoặc những chữ được kéo dài hay rút gọn lại (trong các thứ tiếng đa âm). Đối với những tiếng độc âm như tiếng Việt, thủ pháp này tương đương với phép khuếch tán hoặc tỉnh lược.

[23] Poétique, bản dịch của Michel Magnien, trang 142.

 

© Copyright Thụy Khuê 2005, 2012