Thụy Khuê Phê bình văn học thế kỷ XX
Chương 4
Phê bình văn học Nga
1- Trường phái Hình thức
Đến đầu thế kỷ XX, phê bình văn học vẫn còn dựa trên nền triết học duy sử, tức là khảo sát tiểu sử và tâm lý nhà văn, rồi dùng tác phẩm để chứng minh cho tiểu sử và tâm lý tác giả, đặt nhà văn vào những khung hiện thực, lãng mạn... có sẵn, với những kiến giải mơ hồ; ví dụ: tác giả này viết cuốn sách này trong một hoàn cảnh như thế nào và từ đó rút ra kết luận: tác phẩm "nói lên" những sự kiện này, biến cố kia trong đời sống của mình, cách phê bình Nguyễn Du và truyện Kiều trong rất nhiều tác giả của ta là như thế.
Nhờ những bước tiến trong ngữ học, phê bình nhận ra sự bất cập của mình và buộc phải tìm những hướng đi mới. Từ sự tìm tòi này, nẩy sinh những khuynh hướng cách tân phê bình trong thế kỷ XX, mà trường phái hình thức Nga giữ vai trò tiên phong, loại bỏ những yếu tố "phụ cận" như tiểu sử, tâm lý, thời đại... để đi vào "thực chất" của vấn đề là chữ và nghiã. Đồng thời, ngữ học cấu trúc thay thế văn phạm cổ truyền, trở thành một trong những lợi khí cột trụ của nghiên cứu văn học.
Những khám phá của trường phái hình thức Nga bị chôn vùi trong gần 40 năm, nhưng khi thế giới đào ra, những thành quả ấy chẳng những không lỗi thời mà vẫn còn giữ nguyên giá trị cơ bản cho việc khảo sát văn chương nghệ thuật. Trường phái Hình thức Nga quy tụ một số nhà ngữ học, trong vòng 10 năm (từ 1915-1925), đã xây dựng những viên gạch đầu tiên cho nền phê bình hiện đại: Boris Eichenbaum (1886-1959), Iouri Tynianov (1894-1943), Roman Jakobson (1895-1983), Viktor Chklovski (1893- 1984) và Boris Tomachevski (1890-1957).
Theo Roman Jakobson, mùa đông 1914-1915, dưới sự bảo trợ của viện hàn lâm khoa học Nga, một số sinh viên dựng nên "Câu lạc bộ ngôn ngữ học Mạc Tư Khoa" với mục đích "thúc đẩy sự phát triển ngành ngữ học và thi học (poétique)" còn phôi thai lúc bấy giờ. Năm sau, 1916, một nhóm nghiên cứu sinh ở Pétrograd (Saint- Pétresbourg), tổ chức in tuyển tập đầu tiên về lý thuyết ngôn ngữ thi ca, và đầu năm 1917, "Hội nghiên cứu ngôn ngữ thơ" ra đời -gọi tắt là Opoïaz- cộng tác chặt chẽ với Câu lạc bộ ngôn ngữ học Mạc Tư Khoa. Hai nhóm này, cổ động việc nghiên cứu thi học, chủ trương cách tân toàn diện ngành phê bình và nghiên cứu văn học Nga, hoạt động đến năm 1930, thì bị chính quyền Xô Viết khủng bố: 1932, Trung ương đảng ra nghị quyết giải tán tất cả các tổ chức văn nghệ, nhưng hoạt động cách tân đã bị dập tắt từ trước, một số chạy ra nước ngoài. Jakobson sang Tiệp Khắc từ 1920, tiếp tục công việc nghiên cứu trong "Câu lạc bộ ngôn ngữ học Praha", do nhóm nghiên cứu Nga-Tiệp thành lập từ 1926, theo tinh thần Câu lạc bộ Mạc Tư Khoa. Một số khác ở lại trong nước, có người bị lưu đầy, tác phẩm bị phủ nhận như trường hợp Bakhtine. Phải đến giữa thế kỷ XX, Hoa Kỳ và Âu Châu mới biết đến những công trình nghiên cứu của trường phái hình thức Nga, nhờ hai ấn bản: Victor Erlich in cuốn Russian Formalism[1] và Tzvetan Todorov thu thập các bài viết chính của trường phái hình thức dịch sang tiếng Pháp với tựa đề Théorie de la littérature[2]. Hai cuốn sách này sẽ là nền tảng cho sự phát triển trường phái hình thức Nga trên thế giới. Đồng thời, tác phẩm của Propp và Jakobson, được Lévi-Strauss giới thiệu, và đến năm 1963, cuốn Essais de linguistique générale (Luận về ngôn ngữ học đại cương), tác phẩm đầu tiên của Jakobson được dịch sang tiếng Pháp.
Về cái tên "Trường phái Hình thức"
Chữ Hình thức, rút ra từ cụm từ phương pháp hình thức (méthode formelle) mà Câu lạc bộ Mạc Tư Khoa xác định là một cố gắng để khoa học hóa việc nghiên cứu văn học. Những người chống lại trường phái này gọi họ một cách mỉa mai là những nhà hình thức. Về sau cái tên "trường phái hình thức" được cả hai bên chống và theo chấp nhận. Vậy cần phải hiểu: "phương pháp hình thức" là gì? Trong bài tổng quan về phương pháp này mang tên Lý thuyết của "phương pháp hình thức[3], Boris Eichenbaum giải nghiã ngay ở dòng đầu: "Cái gọi là "phương pháp hình thức" không phải là hệ quả của việc thiết lập một hệ thống "phương pháp luận" đặc biệt, mà là những cố gắng để tạo ra một khoa học cụ thể và độc lập. Nguời ta thường gán cho khái niệm "phương pháp" những chiều kích quá đáng, đâm ra tối nghĩa. Đối với chúng tôi, những "nhà hình thức", chúng tôi không coi "phương pháp" là vấn đề chủ chốt trong nghiên cứu văn học. Vấn đề chủ chốt ở đây là văn chương, văn chương như một đối tượng khảo sát"[4].
Eichenbaum viết tiếp: "Những chữ "phương pháp hình thức" liên hệ chặt chẽ với khuynh hướng này, phải được hiểu đó là tên gọi quy ước, có tính cách lịch trình, và không nên dựa vào chúng để tìm một định nghiã chính xác. Vấn đề nòng cốt mà trường phái hình thức đưa ra, không phải là một lý thuyết về mỹ học, cũng không phải là một phương pháp luận, tiêu biểu cho một hệ thống khoa học nhất định. Chúng tôi chỉ muốn sáng tạo ra một khoa học văn chương độc lập, mà đối tượng là những giá trị đích thực của chất liệu văn chương"[5]. Roman Jakobson, khoanh vòng và xác định đối tượng của "khoa học văn chương" một cách chặt chẽ hơn: "Đối tượng của khoa học văn chương không phải là văn chương mà là tính văn chương (la littérarité), tức là, cái, làm cho một tác phẩm trở thành tác phẩm văn chương"[6]. Nền "khoa học văn chương" này không dựa vào những yếu tố truyền thống như triết học, tâm lý, sử học, xã hội học... mà dựa vào ngữ học. Eichenbaum viết: "Trong khi những nhà nghiên cứu truyền thống hướng về văn học sử hay xã hội sử, những nhà hình thức hướng về ngữ học, coi nó như một khoa thi học, tuy nhiên (trong khi làm việc), họ vẫn có thể dựa trên những nguyên tắc khác, với những mục đích khác"[7]. Như vậy, trường phái Hình thức đã tuyên bố đoạn tuyệt với phương pháp nghiên cứu văn học theo con đường xã hội và lịch sử, và chọn con đường ngữ học để phân tích văn bản, và chỉ chuyên chú đến chữ nghĩa trong văn bản mà thôi. Nguyên tắc này sẽ mở đầu cho nền phê bình văn học hiện đại. Và nền thi học hay thi pháp học (poétique) do Aristote chủ xướng, dường như đã bị lãng quên trong nhiều thế kỷ, nay mạnh mẽ xuất hiện trở lại trong ngôn từ.
Đến đây, cần phải phân biệt hai khái niệm thi học khác nhau: thi học của những nhà Hình thức Nga và thi học của những nhà Ký hiệu học sau này như Eco, Barthes. Umberto Eco giải thích: "Phải hiểu thi học như thế nào? Trào lưu đi từ những nhà hình thức Nga đến những nhà cấu trúc học ở Praha và ở Pháp, đều coi thi học là việc nghiên cứu tác phẩm văn chương, duy nhất dưới góc độ cấu trúc ngữ học nội tại. Còn chúng tôi (tức là những nhà ký hiệu học), chúng tôi dùng chữ thi học trong nghĩa gần với cổ điển hơn: không phải là một hệ thống quy luật gắt gao (như thi pháp học) mà là kế hoạch thao tác mà nghệ sĩ lựa chọn mỗi lần sáng tác, nó có thể tiềm ẩn hoặc lộ rõ trong tác phẩm"[8]. Tóm lại, các nhà Hình thức và các nhà cấu trúc coi thi học là khoa học khảo sát văn bản thuần tuý dưới góc độ ngữ nghiã, còn những nhà Ký hiệu học coi thi học là sự tìm hiểu quá trình thao tác của nghệ sĩ, tiềm ẩn hoặc lộ rõ trong tác phẩm, nói khác đi, là toàn bộ hệ thống dấu hiệu (bao gồm bối cảnh, cách cấu tạo, cách viết, giọng điệu...) mà tác giả lựa chọn cho mỗi tác phẩm. Quan điểm của các nhà ký hiệu gần gũi quan điểm của trường phái bác ngữ học Đức.
Chúng ta vừa giải thích xong chữ phương pháp, còn lại chữ hình thức[9]. Hình thức là gì? Tại sao những người chống trường phái Hình thức lại gọi những người trong nhóm này là "các nhà Hình thức" và tại sao chính họ cũng lại tự nhận mình là những "nhà Hình thức"? Là bởi vì hai bên có hai quan niệm về hình thức khác nhau:
Phái chống, dựa trên quan niệm cổ điển: phân biệt ranh giới giữa nội dung và hình thức. Trong khi những nhà Hình thức Nga dựa trên quan niệm mới: hình thức và nội dung là một toàn thể không thể tách rời, như định thức của Saussure: âm và ý không thể tách rời[10]. Paul Valéry, khi khảo sát thơ, cũng đi đến kết quả tương tự. Tóm lại, những nhà Hình thức gạt bỏ quan niệm cổ điển về mối tương quan nội dung-hình thức, trong đó hình thức được coi như cái vỏ, cái bình, chứa nội dung là chất lỏng. Quan niệm này, vẫn còn rất sống động cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, thường tìm thấy trong cách nói của các nhà tượng trưng, đại loại như: qua phần hình thức, người ta thấy có chuyên chở một nội dung thế này... Hoặc ca tụng một vài loại "hình thức" nào đó đã tách biệt hẳn với "nội dung" v.v... Vì thế, những người chống trường phái hình thức, gọi những thành viên của trường phái này là các nhà hình thức với ý mỉa mai: họ chỉ biết có hình thức (bề ngoài) mà không biết đến nội dung.
Còn những nhà Hình thức cũng nhận mình là trường phái hình thức vì đối với họ, hình thức chính là nội dung và ngược lại. Eichenbaum khẳng định: "Khái niệm hình thức từ nay, đã có một ý nghiã mới, nó không còn là cái vỏ, là cái bình đựng nội dung nữa mà là một toàn bộ năng động và cụ thể có nội dung của nó, mà không cần một quan hệ hỗ tương kiểu bình và nước"[11].
Kết luận: Trường phái Hình thức đưa ra hai cách tân quan trọng: - Đoạn tuyệt với lối phê bình dựa trên tiểu sử tác giả, để phê bình văn bản, khảo sát tính văn chương trong văn bản. - Hình thức và nội dung của một tác phẩm là một toàn thể gắn liền, không tách rời ra được.
Con đường nghiên cứu của trường phái Hình thức
Boris Eichenbaum tóm tắt những nét phát triển chính của trường phái Hình thức trong vòng 10 năm từ 1915 đến 1925 như sau:
1- Từ việc đối chiếu giản lược ban đầu giữa ngôn ngữ hàng ngày và ngôn ngữ thơ, chúng tôi tìm cách phân biệt những chức năng khác nhau trong ngôn ngữ hàng ngày (L. Yakoubinski), định phạm vi của ngôn ngữ thơ và ngôn ngữ biểu cảm (R. Jakobson). Tiếp theo đó, chúng tôi nghiên cứu diễn văn (tức là những phát biểu miệng) mà theo ý chúng tôi là thứ ngôn ngữ hàng ngày gần với văn chương nhất, nhưng lại có những chức năng khác. Việc nghiên cứu này dẫn đến việc tìm hiểu những phép tu từ trong thi học.
2- Trình bày các khái niệm chính trong văn chương: hình thức (trong nghiã mới), thủ pháp (procédé), và chức năng (fonction). 3- Đối chiếu âm tiết (rythme) với vần điệu (mètre). Xác định âm mới là yếu tố xây dựng câu thơ (chứ không phải vần). Thơ là hình thức đặc biệt của văn bản nói (thơ được viết ra để đọc, để ngâm), có cấu trúc ngữ học riêng, về mặt cú pháp, từ vựng và ngữ nghĩa.
4- Nếu chủ đề (của bài thơ) là một kiến trúc, thì chất liệu (matière, được dùng trong nghiã lời và chữ) là yếu tố tác động xây dựng kiến trúc.
5- Xác định bản chất của thủ pháp trên những chất liệu khác nhau. Phân biệt những thủ pháp (văn chương) khác nhau tùy theo chức năng. Tiến tới việc tìm hiểu sự tiến hoá của các hình thức văn chương tức là tới địa hạt nghiên cứu văn học sử hay biến ngữ học.
Tóm lại, lịch trình của trường phái hình thức có thể chia làm ba chặng chính: - Đối lập và phân biệt ngôn ngữ thơ và và ngôn ngữ hàng ngày. - Nghiên cứu âm thanh và vần điệu trong thơ. Thành lập một lý thuyết về thi ca. - Tìm hiểu thủ pháp thi ca. Nghiên cứu các thủ pháp khác trong văn chương: như thủ pháp truyện ngắn, thủ pháp cổ tích, thủ pháp tiểu thuyết, tiến đến nghiên cứu văn học sử.
1-Xác định giá trị tự thân của ngôn ngữ thơ
Yakoubinski là người đầu tiên đặt vần đề đối chiếu ngôn ngữ thơ và ngôn ngữ hàng ngày. Trong bài viết, tựa đề Âm thanh trong ngôn ngữ thơ[12], ông đề nghị: Những hiện tượng ngôn ngữ phải được xắp xếp theo chủ đích của nó: nói (hay viết) để làm gì? Nếu người nói chỉ muốn truyền đạt thông tin, thì lời nói đó thuộc địa hạt ngôn ngữ thực dụng, "tiêu dùng", phần hình thức hay âm thanh của nó, không có giá trị tự thân (autonome); vì lời nói chỉ là phương tiện để chuyển tải thông tin, cho nên "dùng xong" ta có thể "bỏ". Ở những hệ thống ngôn ngữ khác (như thơ) mục đích thực dụng mờ đi, nhưng "nói" hay "ngâm" xong, lời thơ vẫn còn "tồn tại", bởi chính câu thơ có giá trị tự thân của nó.
2- Âm, như một yếu tố chủ chốt xây dựng thơ Để làm nổi bật vai trò của âm trong thơ, Viktor Chklovski đưa ra khái niệm "siêu âm" (transmental-zaumnyj). Trong bài "Thi ca và ngôn ngữ siêu âm - De la poésie et de la langue transmentale, ông nhận thấy "nhiều khi người ta dùng chữ mà chẳng để ý đến nghĩa." "Siêu âm" là những âm thanh vô nghĩa nhưng vẫn được xử dụng (trong một giả dụ có nghiã), ví dụ những tiếng bi ba bi bô của trẻ con, (hay những í a, ối a, hò lơ, hò lờ... trong dân ca Việt Nam), hoặc ngôn ngữ của trường phái vị lai (nhóm futurisme, rất thân với nhóm hình thức), dám đi xa, thám hiểm vùng âm thanh "vô nghiã", mục đích của trưòng phái hình thức là chống lại trường phái tượng trưng, theo họ, chỉ khoanh tròn trong thế giới những âm thanh "có nghiã". Sự khảo sát này dẫn đến câu hỏi: trong thơ, chữ có nhất thiết là phải có nghiã hay không? Và từ đó, xác định âm (có nghĩa hoặc vô nghiã) như một yếu tố chủ động trong thơ.
3- Viktor Chklovski, nghệ thuật như một thủ pháp Bài "Nghệ thuật như một thủ pháp"[13] của Chklovski, viết năm 1917, được coi như bản tuyên ngôn văn học của trường phái hình thức với chủ đích: Phản bác Potebnia, một cột trụ "cổ hủ", chủ trương cổ võ cho trường phái tượng trưng. Phản bác trường phái tượng trưng, tiêu biểu cho quan niệm nghệ thuật "lỗi thời", đã đưa ra khẩu hiệu: "Nghệ thuật là tư tưởng bằng hình ảnh", khẩu hiệu này đã ăn sâu vào đầu óc nhiều thế hệ thơ văn, mọi nơi, mọi thời. Potebnia tung ra những tuyên ngôn như: "Không thể có nghệ thuật, cũng như không thể có thơ mà không có hình ảnh". Những nhà tượng trưng đề cao công thức: thơ = hình ảnh, biện minh cho vai trò "chủ chốt" của "hình ảnh-biểu tượng" trong thơ của họ, đẩy những yếu tố khác như âm thanh, nhịp điệu, cú pháp, sang hàng thứ yếu. Chklovski viết: "Càng khảo sát kỹ thi ca trong một thời kỳ, ta càng thấy rằng những hình ảnh mà chúng ta tưởng là do nhà thơ này hay nhà thơ kia sáng tạo, kỳ thật, họ chỉ chép lại của những nhà thơ khác mà chẳng thay đổi gì cả".
Để định vị lại chỗ đứng của hình ảnh trong thơ, trước hết, Chklovski phân tích sự khác biệt giữa hình ảnh trong thơ và hình ảnh trong ngôn ngữ thông thường. Ý của ông như sau:
1- Không thể nói cứ tạo ra hình ảnh là đã có thơ, ví dụ trong tiếng Việt: Xuân lan, thu cúc là hình ảnh trong thơ, và anh chột, anh què, là những hình ảnh trong ngôn ngữ thông thường. Vậy anh chột, anh què cũng là hình ảnh, nhưng chúng chỉ là phương tiện diễn tả tư tưởng một cách thực tiễn. Khác với hình ảnh trong thơ, có chủ đích tạo cho người đọc, người nghe một cảm giác, một ấn tượng đặc biệt.
2- Hình ảnh cũng không phải là thủ pháp duy nhất trong thơ, nó chỉ là một trong những phép tu từ, tương đồng với những phép tu từ khác, như từ láy, so sánh, từ đối, nói lái, biểu tượng v.v... Tất cả những thủ pháp ấy có mục đích "biến" một vật bình thường thành một thực thể tạo (cho ta) một cảm giác mạnh.
3- Nghệ thuật lạ hoá: Chklovski cho rằng: "Nghệ thuật giúp ta cảm thấy cuộc đời là cuộc đời, cảm thấy hòn đá là hòn đá. Với nghệ thuật, chúng ta mới thấy hòn đá chứ không phải chúng ta nhận ra hòn đá. Cần phải nhấn mạnh ở những chữ mới thấy và nhận ra, tức là nhà thơ phải cho chúng ta cảm giác thấy hòn đá lần đầu tiên trong đời, chứ nếu cứ cung cấp một hòn đá thân quen mà chúng ta có thể nhận ra được, thì đó chưa phải là thơ. Tựu trung, tất cả những gì đã quen mắt, đã được nhận diện một lần rồi, đều không phải là nghệ thuật. Cho nên, nếu chỉ để ý đến hình ảnh không thôi, hoặc cứ theo công thức: thơ = hình ảnh, thì sẽ thấy bao nhiêu nhà thơ cứ chép đi chép lại những hình ảnh cũ mèm của những người khác, mà không làm ra được cái gì mới mẻ. Tóm lại, thủ pháp của nghệ thuật là sự lạ hoá những vật quen thuộc. Và đối với Chklovski Lạ hoá chính là thủ pháp mấu chốt của nghệ thuật. Tolstoï luôn luôn tìm cách lạ hoá những đồ vật, sự vật, lạ hoá những cảnh huống mà ông mô tả. Tức là ông luôn luôn tìm cách nhìn chúng dưới những góc độ khác người. Ông đã mô tả tất cả những trận đánh trong Chiến tranh và hoà bình bằng phương pháp lạ hoá này. Mà không chỉ có một mình Tolstoï dùng phương pháp lạ hoá, những nhà văn lớn như Gogol, Dostoïevski, cũng dùng những thủ pháp như thế, họ thường chiếu ống kính đến những chi tiết hầu như vô dụng và lạ hoá chúng lên, tạo ấn tượng tối đa cho người đọc. Cho nên nếu nói đến một thủ pháp văn chương, thì sự lạ hoá là thủ pháp chính.
Trường phái hình thức, đã tạo ra một khoa nghiên cứu và một lý thuyết văn học vững chắc. Mục đích của họ, không phải là nghiên cứu cái gọi là "hình thức", cũng không đưa ra một "phương pháp" đặc biệt, mà là xây dựng một đề án nghiên cứu những nét đặc thù của văn chương, tức là tính văn chương như Jakobson xác định. Khởi đi từ việc đối chiếu ngôn ngữ hàng ngày với ngôn ngữ thơ, phân biệt sự khác nhau giữa hai ngôn ngữ này, họ tìm thấy tính chất đặc biệt của nghệ thuật nằm trong việc sử dụng chất liệu, và chứng minh rằng mỗi ngành nghệ thuật có một thủ pháp riêng, tùy theo chức năng của nó, nhưng thủ pháp chung của nghệ thuật là sự lạ hoá. Từ việc nghiên cứu thủ pháp thi ca, sang việc nghiên cứu những thủ pháp khác của văn chương như truyện ngắn, tiểu thuyết, cổ tích... để tiến đến việc tìm hiểu và xác định một lịch sử đích thực của văn học. Trường phái Hình thức đã vạch vòng nghiên cứu văn chương cơ bản, mở những hướng mới cho phê bình. Thụy Khuê [1] Russian Formalism (Trường phái hình thức Nga), Mouton, 1955. [2] Théorie de la littérature (Lý thuyết văn chương), Seuil, 1965; Points, 2001. [3] Lý thuyết của "phương pháp hình thức" (La théorie de la "méthode formelle" viết năm 1925, in trong cuốn Lý thuyết văn chương. [4] Lý thuyết văn chương, Points, 2001, trang 29. [5] Lý thuyết văn chương, Points, 2001, trang 31. [6] La nouvelle poésie russe (Thơ Nga mới), Esquisse 1, Prague, 1921, trang 11. [7] Lý thuyết văn chương, Points, 2001, trang 36. [8] Umberto Eco, Opéra Aperta (L'oeuvre ouverte - Tác phẩm mở) bản dịch tiếng Pháp của Chantal Roux de Bézieux, Seuil, 1965, trang 10. [9] Forme, tiếng Pháp (từ tiếng La tinh Forma) là một từ có nhiều sắc thái khác nhau, thường được dịch sang tiếng Việt là Hình thức. Ví dụ, trong câu của Saussure: "tiếng nói là hình thức chứ không phải bản chất" (la langue n'est pas substance, mais forme), hình thức ở đây có nghiã: tiếng nói chỉ là một lối, một cách, một dạng thức diễn tả tư tưởng chứ không phải là bản chất của tư tưởng ấy. Trong cuốn Cấu trúc thơ (Văn Nghệ, 1995), chúng tôi dùng chữ của Đoàn Thêm dịch Forme là Thể, để diển tả quan điểm của Paul Valéry, coi thơ, nhạc, hoạ, là một Thể, tức là một toàn bộ hoàn chỉnh bao gồm hình thức và nội dung; trùng hợp với quan điểm của trường phái Hình thức Nga. [10] Lập luận của Saussure chúng tôi đã đề cập trong chương 2. [11] Lý thuyết văn chương, Points, 2001, trang 42. [12] Âm thanh trong ngôn ngữ thơ (Des sons du langage poétique) in trong "Tuyển tập lý thuyết ngôn ngữ thơ", cuốn 1, Pétrograd, 1916. [13] Nghệ thuật như một thủ pháp in trong Lý thuyết văn chương, trang 75-97.
© Copyright Thụy Khuê 2005, 2012
|