Thụy Khuê

Phê bình văn học thế kỷ XX

Trường phái phê bình ý thức

 

 

Phê bình ý thức, phát xuất từ Thụy Sĩ, có thể coi là sự gặp gỡ giữa phê bình Đức và phê bình Pháp, cũng là trung gian giữa hai dòng phê bình lớn: dòng ngữ học, phát triển nửa đầu thế kỷ và dòng ký hiệu học, phát triển nửa sau thế kỷ XX.

Nếu các nhà Hình thức Nga chuyên chú vào việc khảo sát văn bản, gạt ra ngoài những yếu tố khác như lịch sử, xã hội, tác giả, và các nhà Bác ngữ học Đức đưa ra một cái nhìn toàn bộ về văn học sử và văn chương Âu Châu, thì các nhà Ý thức ở Genève, chú ý đến quan hệ nội tâm giữa người đọc và người viết.

Thập niên 50-60, khi ảnh hưởng của trường phái hình thức Nga và bác ngữ học Đức chưa đến được một cách rộng rãi với độc giả Âu châu, nói chung và người đọc ở Pháp nói riêng (phải đến khoảng thập niên 70, sách của họ mới được dịch sang tiếng Pháp), thì một trường phái khác, xuất hiện ở Thụy Sĩ, đã giữ vai trò chủ chốt trong việc hiện đại hóa phê bình, đó là trường phái Ý thức, còn gọi là trường phái Genève. Chủ trương chống lại lối phê bình thực nghiệm (critique positiviste), và phê bình ấn tượng (critique impressionniste) thịnh hành trong thế kỷ XIX và vẫn còn giữ địa vị quan trọng trong đời sống văn học Âu Châu những năm 50, phê bình ý thức lần đầu tiên nêu cao vai trò của người đọc. Phê bình -cho tới nay, dù dưới hình thức cổ điển (dựa vào tiểu sử, thực nghiệm, ấn tượng) hay hiện đại (qua lối phân tích văn bản của hai trường phái Nga và Đức, như chúng ta đã biết)- vẫn còn tách rời hai địa hạt: một bên là nhà phê bình và một bên là nhà văn. Nhà phê bình đứng ngoài, đọc và đánh giá tác phẩm.

Trường phái ý thức đạp đổ biên giới giữa độc giả và tác giả, giữa người viết và người phê bình, để tìm đến mối liên lạc bên trong giữa tác phẩm văn học và người đọc, muốn mổ xẻ hành động đọc, tìm hiểu cái gì xẩy ra, khi một người cầm cuốn sách đọc. Phê bình ý thức, theo Georges Poulet là sự đồng quy của hai ý thức: ý thức người viết ý thức người đọc. Do đó, khuynh hướng phê bình ý thức thường được đồng hoá với khuynh hướng phê bình mới ở Pháp.

Những thành viên của trường phái ý thức không chỉ là người Thụy Sĩ, và họ cũng không tự nhận là một trường phái: Đó là một số giáo sư đại học rất thân nhau, đồng ý với nhau trên một số định hướng về phê bình, rồi quy tụ lại thành một nhóm, gồm: Marcel Raymond, Jean Rousset, Albert Béguin, Georges Poulet, và Jean Starobinski.

 

 

Marcel Raymond (1897-1981) được coi là đại diện sáng lập, ông là người Thụy Sĩ, giảng dậy ở đại học Genève. Kinh nghiệm thời sinh viên ở Sorbonne, đưa ông tới những nhận thức cay đắng như sau: Đại học Sorbonne làm tôi thất vọng. Nhất là cách dạy văn chương Pháp. Là những nạn nhân của đại học Sorbonne mới, chúng tôi được cung cấp những dữ kiện, những câu chữ hơi hướng thời xưa, hoặc những bài giảng văn chẳng bổ ích gì.

Vượt trên cách dạy văn chương, lịch sử hời hợt ở các giảng đàn, Raymond muốn tìm đến lịch sử đích thực của tư tưởng từ trong lòng văn bản; tìm đến những băn khoăn siêu hình của con người, thể hiện trong tác phẩm văn học. Tác phẩm chủ yếu đầu tiên của Marcel Raymond là cuốn De Baudelaire au surréalisme (Từ Baudelaire đến Siêu thực) in năm 1933. Đây là một trong những cuốn sách quan trọng nhất về phê bình, ra đời trước thế chiến. Dùng lối phân tích từ chi tiết đến tổng thể, gần giống phương pháp của Léo Spitzer, Marcel Raymond lần dở từng đoạn, từng phần, để thâm nhập vào cấu trúc bên trong của tác phẩm. Cuốn sách viết về một phần ba thế kỷ thơ, đưa ra những vấn đề mấu chốt trong sự phát triển thi ca qua các thời đại, từ lãng mạn, tượng trưng, đến tân tượng trưng, siêu thực. Marcel Raymond cho rằng: Điều quan trọng nhất là phải sáng tạo ra một đường lối (phê bình) ngược chiều với lối phê bình giáo khoa giáo điều, đừng chú trọng vào tiểu sử tác giả, và phải giảm thiểu tối đa phần lịch sử. Phải tìm ra "thực chất của mỗi nhà thơ, của mỗi bài thơ", bằng phong cách riêng của mình, không bắt chước hay nhái lại người khác. Khi bàn về Rousseau, Raymond cho rằng"Ý thức về mình nơi Rousseau là ý thức của người đọc".

 

Sau này, khi mổ xẻ khái niệm "ý thức người đọc" của Marcel Raymond, Georges Poulet cho rằng: "Ý thức của người đọc, tất nhiên cũng là ý thức của người đọc-kiểu mẫu (liseur-type) tức là nhà phê bình, có cái nét đặc thù là nó phải hoà đồng với một ý thức khác (ý thức của người viết). Người phê bình là người dám tự biến đổi để trở nên một người khác: hắn chấp nhận sống một kinh nghiệm tinh thần khác với mình (...) Vậy hành động đọc quan trọng hơn những gì thoạt thấy: Nó dẫn ta, không những đến một thế giới khác, mà còn đưa ta vào một bản ngã, một hữu thể khác. Đọc hay phê bình, là hy sinh tất cả những thói quen, những khát vọng, những tín điều của mình. Trước tiên phải lột trần, dốc sạch (mình) cho trống, (tựa như việc Descartes khuyếnh đại cái nghi ngờ) nhưng không phải để trực giác sự tồn tại của mình như trong khái niệm Cogito của Descartes (tôi suy tưởng vậy tôi tồn tại), mà ngược lại là để trực giác sự hiện hữu của tư tưởng người khác. (Poulet, La conscience critique, Corti, xuất bản lần thứ ba, 1986, trang 103-104). Chúng ta có thể coi đó là một trong những định nghĩa sâu xa, về hành động đọc. Vẫn viết về Marcel Raymond, Georges Poulet cho rằng: bằng cách lý giải văn bản từ chi tiết đến tổng thể, Marcel Raymond tạo ra cái gọi là phê bình hợp tác (critique participatrice), thiết lập mối tương quan giữa tác phẩm và người đọc. Marcel Raymond được coi là chủ soái của trường phái phê bình ý thức; chịu ảnh hưởng những nhà bác ngữ học Đức, ông tìm về nguồn cội tư tưởng của một tác phẩm, của một trường phái văn chương, và đào sâu mối tương quan giữa nhà văn, ngôn ngữ, và thời đại đã phát sinh ra ra tác phẩm trong toàn bộ những nét đặc trưng của nó, đặc biệt đến vấn đề tác phẩm đã tiếp nhận những ảnh hưởng nào và chính nó đã gây ảnh hưởng ra sao đối với những người cùng thời hoặc thế hệ đi sau.

 

Chúng ta có thể dựa vào cuốn La conscience critique (Ý thức phê bình) của Georges Poulet, (José Corti, Paris, in lần đầu 1971), để có cái nhìn tổng quát về những nhà phê bình được ông xếp vào khuynh hướng ý thức, đồng thời biết rõ phương pháp luận của trường phái này.

Dòng đầu tiên trong bài tựa cuốn Ý thức phê bình Georges Poulet xác định ý nghĩa việc đọc: "Hành động đọc (mà mọi tư tưởng phê bình đích thực quy tụ vào) tiềm ẩn sự trùng hợp giữa hai ý thức: ý thức của người viết và ý thức của người đọc" (La conscience critique, trang 9). Tiếp theo đó, Poulet nhắc đến mối tương quan giữa phê bình mới và tiểu thuyết mới: Người ta nói đến "phê bình mới" cũng như người nói đến "tiểu thuyết mới". Có tiểu thuyết mới của Michel Butor, Alain Robbe-Grillet, Nathalie Sarraute, Claude Simon thì cũng có phê bình mới của Gaston Bachelard, Marcel Raymond, Maurice Blanchot, Jean Rousset, Jean Pierre Richard và Jean Starobinski. Hai phong trào này quy tụ những cá tính khác nhau nhưng cùng quan tâm đến một số vấn đề tương đồng.

Riêng về phía những nhà phê bình mới, họ gặp nhau vì cùng khai thác những hiện tượng của ý thức: Mỗi người (phê bình) cố gắng sống lại và nghĩ lại những kinh nghiệm và những tư tưởng mà người khác (nhà văn) đã sống và đã nghĩ. Ngoài những tên tuổi "chính thức" trong nhóm, Poulet còn xếp vào "loại phê bình ý thức" những người như Bachelard, Blanchot, bởi họ cũng xử dụng ý thức như một chất liệu căn bản để phê bình, và như vậy, danh sách có thể rất dài... Cuốn sách của Poulet chia làm hai phần: Phần thứ nhì, ông dùng hiện tượng học để khảo sát Ý thức phê bình, và phần thứ nhất viết về những tên tuổi: Madame de Staël, Baudelaire, Proust, nhóm N.R.F (La Nouvelle Revue Critique, 1930, với: Albert Thibaudet, Jacques Rivière, Du Bos, Raymond Fernandez), Charles Du Bos, Marcel Raymond, Albert Béguin, Jean Rousset và Gaetan Picon, Georges Blin, Gaston Bachelard, Jean-Pierre Richard, Maurice Blanchot, Jean Starobinski, Jean-Paul Sartre và Roland Barthes.

 

Trước hết, Georges Poulet phân biệt cái mới với cái cũ: Cái cũ là gì? Đối với ông, cái cũ là lối phê bình thực chứng (positivisme) kiểu Sainte-Beuve (đã có ảnh hưởng lớn ở Âu Châu trong thế kỷ XIX) và phê bình ấn tượng (impressionnisme), xuất hiện cuối thế kỷ XIX. Ví dụ Sainte-Beuve viết: "Tôi cố gắng nhập vào những nhân vật mà tôi phản ảnh" hoặc "Tôi cố gắng đưa tâm hồn mình vào tâm hồn người khác; tôi lìa mình; tôi kề má họ, trang phục cho họ, cố gắng ngang hàng với họ" v.v... Theo Poulet, lối viết ấy cho thấy nhà phê bình cũng rất nhiệt tâm, muốn hoà đồng với nhân vật và tác giả đấy, nhưng lối hoà đồng này trơ quá, lộ quá, không thật. Nếu có một mối giao cảm thật sự bên trong giữa người phê bình và tác phẩm thì hay biết mấy, nhưng Sainte-Beuve chỉ nói miệng mà không làm, không có gì cho ta thấy đã có một mối giao cảm thực thụ ở bên trong giữa Sainte-Beuve và người viết (Sđd, trang 11-12).

Sau Sainte-Beuve nửa thế kỷ, từ 1880 đến 1914, xuất hiện lối phê bình ấn tượng (critique impressionniste) với những tên tuổi như Jules Lemaitre, Anatole France, Emile Faguet... Jules Lemaitre viết: "Trong lòng quê, ôm đất mẹ, dưới bầu trời âm u, bão táp, tôi vừa đọc lại một mạch sáu cuốn truyện của Pierre Loti. Khi lật xong trang chót, tôi cảm thấy lòng mình ngây ngất, tràn đầy hồi tưởng dịu dàng buồn bã về muôn vàn tình cảm sâu xa, lòng nặng một mối xúc động mơ hồ nhưng toàn diện." Đọc những dòng này, chúng ta thấy ngay tác giả dễ dàng thả lòng vào mối thương cảm bằng cách đọc đồng loã và mơ mộng đồng tình; ông thả lòng trôi theo những ấn tượng đến tự bên ngoài. (...) Cái say sưa mà ông nói đến ở đây, không phải là cái say sưa từ tác giả (qua tác phẩm) truyền sang ông mà là cái say sưa tự ông cảm thấy. Một thứ tình cảm chủ quan, nửa thật, nửa giả, không phải là sự giao cảm đích thực giữa tác phẩm và người đọc. (sđd, trang 12-13).

Chúng ta có thể thấy ảnh hưởng hai trường phái thực nghiệm và ấn tượng này rất rõ trong cách phê bình của Vũ Ngọc Phan và Hoài Thanh. Vũ Ngọc Phan thiên về lối phê bình giáo khoa thực chứng: ông thường trích một đoạn văn, rồi phê phán đoạn đó hay hoặc dở, một cách rất thầy giáo, khá độc đoán, có khi ông thêm chút lý giải thực nghiệm, có khi không lý giải gì cả. Ví dụ, khi phê bình Số đỏ của Vũ Trọng Phụng, ông viết: "Số đỏ của Vũ Trọng Phụng là một quyển tiểu thuyết hoạt kê, nhưng một lối hoạt kê không lấy gì làm cao cho lắm.

"Xuân tóc đỏ", một gã nhặt ban ở sân quần chỉ nhờ ở sự may mắn, ở "số đỏ" mà thấm thoắt từ cái phận một gã lang thang trở nên được một tay đắc lực cho một hiệu may tân thời, rồi dần dần đóng vai đốc tờ, đóng vai diễn giả, đứng lên cải cách Phật giáo, rồi lại trở nên một tay cứu quốc, một bậc vĩ nhân!" (Trích Nhà văn hiện đại, quyển 3, trang 582).

Trích đoạn trên đây khá tiêu biểu cho lối phê bình của Vũ Ngọc Phan: rất giáo khoa bởi vì nhà phê bình có ý dậy cho nhà văn phải viết như thế này, không được viết như thế kia. Chê lối hoạt kê của Vũ Trọng Phụng là hoạt kê thấp, nhưng ông lại không nói rõ thế nào là hoạt kê thấp, thế nào là hoạt kê cao. Tiếp đó, ông tóm tắt tiểu sử Xuân tóc đỏ, có ý phân trần rằng: Vũ Trọng Phụng viết như thế đấy, mà tôi thì tôi thấy rằng một thằng cha cò bơ cò bất như thế thì không thể nào leo lên dốc thang xã hội như vậy được. Tóm lại, nhà phê bình lấy kinh nghiệm sống và ý kiến chủ quan của mình để "đàn áp" nhà văn, xếp hạng đúng sai theo cái logique của mình mà không cần nghiên cứu văn bản, nghiên cứu tư tưởng và cách viết (écriture) của tác giả.

Hoài Thanh nghiêng vế lối phê bình ấn tượng, ví dụ khi phê bình thơ của Nam Trân, ông viết: "Huế đẹp, Huế nên thơ. Ai chẳng nói thế? Ai chẳng thấy thế? Nhưng sao hình ảnh Huế trong thi ca lại tầm thường thế? Có lẽ cảnh Huế quá huyền diệu, quá mơ màng không biết tả thế nào cho thoát sáo. Cũng có lẽ ngắm cảnh Huế, người ta khó tránh được cái buồn vơ vẩn nó là khí vị riêng của xứ này và lòng người ta không đủ thản nhiên để ghi lấy hình sắc riêng của mỗi vật. (...)

 Nhưng tả cảnh Huế chưa ai bằng Nam Trân. Nam Trân không rơi vào khuôn sáo là vì người không mơ màng cũng không buồn vơ vẩn. Ở Huế mà ghét Nam Ai, nội chừng ấy cũng đã lạ. Người chỉ thản nhiên nhìn cảnh vật chung quanh và ghi lại bằng những nét già giặn". (Trích Thi nhân Việt Nam, trang 180).

Hoài Thanh viết gần đúng theo lối của Jules Lemaitre, nghĩa là ông cứ phóng ra những câu rất dễ dãi, rất xáo, đại loại như: "Huế đẹp, Huế nên thơ, cảnh Huế quá huyền diệu, quá mơ màng..." rồi ông lại còn viết: "Ai chẳng nói thế? Ai chẳng thấy thế?". Rõ lẩn thẩn, bởi nếu ai cũng biết như thế thì mình còn nói làm gì nữa. Thừa. Rồi lại "ngắm cảnh Huế người ta khó tránh được cái buồn vơ vẩn". Có thể khi Hoài Thanh ngắm Huế thì ông thấy cái ấn tượng buồn vơ vẩn ấy thật đấy, nhưng đúng là ông mang những cảm giác, những ấn tượng (rất hời hợt) của riêng mình ra để gán cho thiên hạ. Những chữ ai ở đây (ai chẳng nói thế, ai chẳng thấy thế, ai bằng Nam Trân...) cho thấy ông quá chủ quan trong việc nhận định và đánh giá, đem tình cảm riêng của của mình ra để gán cho mọi người.

Khi nhà phê bình lấy cái ấn tượng trong lòng mình ra mà viết, mà không đi sâu vào thực chất của văn bản, thì độc giả sẽ nhận thấy không có sự gặp gỡ đích thực giữa văn bản và người phê bình.

 

****

 

Cuốn "La conscience critique" Ý thức phê bình, của Georges Poulet, do nhà xuất bản Corti in năm 1971, như trên đã nói, là cuốn sách bao quát nhất về trường phái này.

Georges Poulet dùng hiện tượng luận để phân tích cái mà ông gọi là phê bình ý thức: Phê bình ý thức, hiểu theo nghiã rộng, bao gồm tất cả những hướng phê bình tìm cách khảo sát thực thể viết và thực thể đọc như hai hiện tượng, hoặc dính chùm, hoặc tách rời. Tất cả những cách tìm tòi đi sâu vào khía cạnh viết và đọc, trở thành đối tượng của phê bình ý thức.

Phê bình ý thức, theo Poulet, không phải bây giờ mới có mà đã xuất hiện từ thời lãng mạn: ở Đức trong phê bình lãng mạn và tiền lãng mạn của Bodmer và anh em Schelgel, ở Anh với Coleridge, Hazlitt. Tại Pháp với Mme de Staël (1766-1817). Ý thức phê bình của bà de Staël, bắt nguồn từ ý thức thán phục (admiration), tức là một tình cảm rất riêng tư kết nối người viết với người đọc: đặc biệt là sự thán phục J.J.Rousseau. Những thán phục, ca ngợi của bà đối với tác giả này hay tác giả kia, đối với chúng ta ngày nay, có thể là ngây thơ, lỗi thời, nhưng điểm cốt yếu là sự thán phục ấy đã dẫn bà đắm mình trong tác phẩm. Bà thán phục và ca tụng cái mà bà đã khám phá ra ở người khác, cái ấy đã thấm sâu vào tâm hồn bà và nó trở thành một nhận thức, một hiện hữu. Đến đây, Georges Poulet đưa ra khái niệm Cogito, khái niệm nòng cốt của ông về phê bình, ông viết: "Như thế điểm đầu tiên hiện ra, ngay trang nhất, trong tác phẩm của de Staël, có thể gọi là cái Cogito phê bình. Không phải: "tôi phán đoán, vậy tôi hiện hữu (non pas je juge, donc je suis), bởi đây không phải là sự phán đoán thuần lý, mà là "tôi thán phục, vậy tôi hiện hữu" (j'admire, donc je suis) nghĩa là tôi tự khám phá ra tôi trong tình cảm thán phục (người khác) mà tôi cảm nhận được".( sđd, trang 16).

 

Từ nay Cogito trở thành yếu tố chính trong phê bình của Georges Poulet. Xin nhắc lại, chữ Cogito lấy từ công thức nổi tiếng của Descartes: cogito, ergo sum (je pense, donc je suis) (tôi suy tư, vậy tôi hiện hữu); ngụ ý: (tôi không chắc điều gì hết) nhưng tôi biết chắc là có tôi bởi vì tôi đang suy nghĩ. Hành động suy nghĩ xác định sự có mặt của tôi.

Poulet thay mệnh đề "je pense, donc je suis" của Descartes bằng mệnh đề: "j'admire, donc je suis" (tôi thán phục, vậy tôi hiện hữu) để áp dụng cho bà de Staël: Tôi thán phục tác phẩm mà tôi đang đọc, điều đó chứng tỏ tôi đang sống, tôi đang có mặt ở đây, vậy tôi hiện hữu. Hành động đọc, hành động phê bình của bà de Staël, theo Poulet, là hành động đầu tiên, là kinh nghiệm đầu tiên, về ý thức phê bình như một ý thức về sự hiện hữu. Ông viết tiếp: "Đó là phê bình của de Staël, một phê bình ích kỷ nhất và vô vụ lợi nhất, đưa đến sự tìm biết sâu xa chính mình, trong say đắm, đem cái tôi của mình hoà nhập với cái tôi của người khác. Phê bình của bà de Staël chính là sự tác hợp giữa thiên tài phê bình và thiên tài nhà văn. Nó đặt nền móng cho một tư thế tương đồng giữa bản thể của mình và bản thể của kẻ mà mình thán phục".(sđd, trang 16).

 

Khái niệm thứ nhì trong phê bình của Poulet là sự thấu minh (transparence), hay là sự thông suốt, giữa người viết và người đọc. Ông viết: "Theo đuổi huyền thoại Rousseau (và Julie), Mme de Staël, mơ đến một tình trạng thông suốt lẫn nhau (transparence réciproque) giữa những thực thể: chồng vợ, bạn bè, người yêu, tác giả, độc giả, cùng có với nhau sự giao hưởng tâm hồn trong động tác yêu thương. Và đó là hạnh phúc (...) Sự hoà hợp giữa những tâm hồn qua văn chương cũng giống như một đám cưới hạnh phúc.(...) (trang 17-18).

Ông cho rằng bà De Stael là một trong những tâm hồn đầu tiên ở Âu Châu đã cảm thấu và làm cho người khác thấu cảm nỗi buồn trong thơ; và nếu bà là người đã thấu cảm được nỗi buồn trong thơ người khác thì bà cũng sẽ là người đầu tiên thấu cảm được nỗi đau của chính mình. Poulet viết tiếp: "Thực thể nào ý thức được nỗi đau của mình - những nỗi đau- thì cũng ý thức được chiều sâu của mỗi hạn kỳ đau đớn, ý thức được chúng nối tiếp nhau, hết khúc đoạn này đến khúc đoạn khác, tạo thành dây xích dài nối hiện hữu với định mệnh" (trang 20).

Và ông nhấn mạnh thêm một lần nữa về sự thấu minh tương cảm: "Hiểu một tư tưởng mà mình yêu thích, một tác phẩm mà mình đã tha thiết khâm phục, không chỉ là gắn bó vào những nổi trôi biến động mà tác phẩm mang lại, mà còn phải làm hiện ra trong tư tưởng của mình, sự bội phân những nổi trôi biến động đó như một toàn bộ nhất quán. Một cái nhất quán có hai nghiã, bởi vì nó vừa là cái nhất quán trong ý thức của người viết mở ra cho mình khi mình cầm cuốn sách lên đọc, vưà là cái nhất quán trong ý thức của mình với những cảm thức khác nhau, khi mình lặn vào tác phẩm của người khác" (sđd, trang 21).

 

Vấn đề thứ ba trong phê bình ý thức, theo Poulet là vai trò của trí nhớ, quá khứ kỷ niệm: Hiểu một tiểu thuyết gia, một nhà thơ, một nghệ sĩ, một triết gia, có nghiã là nối vào cái tôi hôm nay của mình, để nó ghi lại trong trí nhớ, trước tiên những kinh nghiệm sống của một người khác được chuyển tải đến mình, và thứ đến là những kinh nghiệm mà sự chuyển tải này sinh ra hoặc gợi lại trong ta. (trang 21).

Như vậy, trí nhớ là một trong những yếu tố chủ chốt: Trí nhớ khắc ghi những gì xẩy ra khi ta đang đọc và trí nhớ còn tồn ghi những gì ta đã đọc trong quá khứ, và quá khứ đi đôi với kỷ niệm. Ông viết: "Tóm lại, để thấu triệt một tác giả, chỉ biết tác giả thôi thì chưa đủ, mà còn phải tự biết mình, biết soi mình trong tác giả đó, phải lần đi lần lại, từng giai đoạn, tìm thấy toàn bộ những cảm thức mà tác giả đem lại cho ta. Việc biết một tác giả không chỉ ngừng lại ở sự thán phục riêng tư tác giả đó, mà còn phải nhờ kỷ niệm, dẫn ta tìm lại những chuỗi cảm thức khác nhau đã đến với mình suốt hành trình đọc trong quá khứ " (trang 21).

Theo Poulet, bà de Staël đã nhìn thấy mối tương quan này khi bà viết: "Người Hy Lạp sống với tương lai, người La Mã, giống chúng ta, có cái nhìn về quá khứ", bà còn viết "tuy người Hy Lạp vinh danh người chết; ... nhưng sự u uẩn, những nuối tiếc mẫn cảm lâu dài không có trong bản chất của họ, mà "những chuỗi dài kỷ niệm" lại tàng trữ trong trong tim người phụ nữ" (trang 23-24)

Poulet nhận định: "Một cách đọc mới vừa xuất hiện. Người phê bình không còn đứng ngoài để phê phán một tác phẩm, như một đối tượng khách quan nữa, mà nhà phê bình sẽ phải hoà mình vào tác phẩm, góp phần vào chuyển động chủ quan mà tác phẩm biểu lộ và chuyển tải." (trang 23). Trở lại vai trò tiên phong của bà de Staël, Poulet viết: "Bà de Staël có thể là nhà phê bình đầu tiên đã có cái ý tưởng lớn và mới này trong văn học, là phát lộ con người bên trong, làm nó hiện lại trong ý thức phê bình với những nét đặc trưng của nó trong chiều dầy quá khứ. Một nền văn chương không có quá khứ, không có kỷ niệm, theo bà de Staël, không phải là văn chương đích thực" (trang 23).

 

 Vấn đề thứ tư trong phê bình của Poulet là vai trò quan trọng của thời gian và khoảnh khắc, ông viết: "Nhờ ký ức qua những khoảnh khắc khác nhau của một đoạn đời, mà tôi phân biệt được tình cảm khâm phục của tôi đối với một tác giả. Tôi ý thức được tôi, trong dòng lịch sử, trên cái nền kính bái những điều đáng khâm phục.(...) Tôi không chỉ là một kẻ, qua dòng thời gian, thấy mình đã ý thức được tác phẩm này hay tác phẩm khác. Mà tôi còn là kẻ, đã nắm bắt được tác phẩm như sự biểu hiện ý thức của một kẻ khác, cũng đang đi như tôi trong dòng thời gian" (trang 22).

Có thể nói: cogito, thấu minh, ký ức, khoảnh khắc là những yếu tố chính trong phê bình của Georges Poulet.

Trong bài viết về Baudelaire (1821-1867) mà ông coi là người kế nghiệp de Staël trong dòng phê bình ý thức, Poulet nhận xét "Baudelaire là một người bị ý thức bản thân ám ảnh. Đối với Baudelaire, trò chiếu gương, tức là đem hình ảnh chính bản thân mình ra trình bày vói mình, được nhân lên đến độ chóng mặt, như một thể nghiệm chết chóc ma quái. Cái ý thức về mình ở Baudelaire là "ý thức tội lỗi". Vì vậy sự hoà mình trong tư tưởng người khác đối với ông, phải được hiểu như một sự cắt đứt cái vòng địa ngục ấy, như một hành động giải thoát. Cho nên, nếu nhà thơ dạo trong công chúng, tiếp xúc với ý thức phát tán của công chúng cũng chỉ là để gỡ bỏ cái ý thức bản thân, luôn luôn ám ảnh mình. Sự quên mình đối với Baudelaire có một giá trị vừa đạo đức vừa trị liệu". (trang 29) .

Với Marcel Proust, người thứ ba mà Poulet xếp vào hàng tiên phong trong phê bình ý thức, Poulet viết: " Qua cuốn Contre Sainte-Beuve (Chống Sainte-Beuve), chúng ta được biết tiểu thuyết của Proust bắt nguồn từ một dự trình nghiên cứu văn học. Sự tìm kiếm không ngừng khoảng thời gian đã mất, với những nhân vật, những luận đề, những cảnh sắc, với vô vàn biến thiên tâm lý, tất cả những thứ đó, bây giờ chúng ta mới biết là chúng khởi đi- như Combray trong chén trà- từ một suy nghĩ về phê bình. Cũng như câu chuyện của nhân vật chính, một người trẻ tuổi cảm thấy mình có thiên bẩm nhà văn, tự hỏi phải làm sao để hoàn thành tác phẩm mà anh mơ ước, như thế cuốn "Chống Sainte-Beuve" là ý thức của một nhà phê bình tương lai, về những gì mà anh ta cho là phương pháp phê bình hay nhất. (...) Nói cách khác, Proust, trước khi có hành động sáng tạo, đã có một suy nghĩ về sáng tạo, về cái gì hình thành nên sáng tạo, về nguồn gốc, về bản chất, và cứu cánh của sáng tạo". (trang 49).

Những điểm mà Poulet nhận xét trên đây về Proust, rất đáng cho những người sáng tác lưu ý. Chưa hết, ông còn viết tiếp: "Hành động viết đòi hỏi một sự khám phá văn chương trước và sự khám phá này dựa trên một hành động khác, đó là hành động đọc (...) Marcel Proust là một người đọc, một người phê bình, trước khi sáng tác (...) Hành động phê bình, ở Proust, không phải là thứ nhì mà là thứ nhất, nó là bước đầu tiên của tư tưởng, trước khi phiêu lưu trong một lãnh vực lớn, phải vượt qua bước đầu quyết định. (...) Cùng thời điểm với Mallarmé, và trước Du Bos, trước Sartre, Marcel Proust là một trong những người đã đặt câu hỏi chủ yếu: Văn chương là gì?" (trang 50).

 

Phải tìm đến những dòng cuối, mới thấy cái Cogito của Georges Poulet: "Tôi đã đọc các triết gia, nhất là những tác giả suy nghĩ đến ý nghĩa của chữ Cogito. Hầu hết các triết gia hiện đại, từ Montaigne đến Husserl đều xây dựng một nền suy tưởng dựa trên hành động ý thức (...) Họ luôn luôn mô tả điểm khởi đầu của lý luận, bằng một động tác bất di bất dịch: tâm trí nổi lên từ khoảng trống để có ngay trực giác tức khắc về mình. Như vậy, mỗi suy nghĩ triết học đối với tôi hình như đều xuất phát từ giây phút ấy, giây phút đầu tiên của ý thức, tức là lúc mà cái tôi -và qua cái tôi, thế giới- hiện ra. Sự chuyển động mà tư tưởng mô tả mỗi lần như thế, đều có một điểm đi và một điểm đến, và tư tưởng vận hành giữa hai điểm đó. Nhưng điều đáng chú ý là sự vận hành tinh thần này, không chỉ dành riêng cho triết học. Mà tất cả mọi loại văn bản: tiểu luận, tiểu thuyết, thơ, đều có điểm khởi hành như thế; tất cả mọi phát ngôn có tổ chức đều nẩy sinh từ cái ý thức ban đầu để tiến đến những điểm tới. Như vậy, không có sự khác biệt sâu xa giữa một văn bản văn chương và văn bản triết học. Văn chương có thể là triết học và triết học có thể là văn chương. (...) bây giờ đối với tôi phẩm chất cơ bản cuả nhà văn là trong mỗi khoảnh khắc phải đi đến tận cùng nhiệm vụ của mình, đi lại từ đầu từ con số không, và nhà phê bình, cũng vậy, cũng phải đi từ con số không, tức là phải biết xoá mình đi ngay từ đầu. Vậy có thể nói rằng: nhà văn bắt đầu bằng sự xây dựng cái Cogito của mình và nhà phê bình tìm thấy điểm khởi hành trên cái Cogito của người khác. (...) Tất cả bắt đầu từ: Je pense, je suis- Tôi suy tư, tôi hiện hữu.

Với tôi, sự khám phá này quan trọng vô cùng: Phê bình là sự nhái lại hai lần một hành động tư tưởng. Nó không tuỳ thuộc vào cái cao hứng bất thường. Việc bắt đầu lại từ trong sâu thẳm của mình, cái Cogito của một nhà văn hay một triết gia, tức là phải tìm lại cách cảm giác và cách suy nghĩ của họ, tìm hiểu cách ấy đã phát sinh và hình thành như thế nào, đã gặp những trở ngại gì, việc ấy cũng là khám phá lại ý nghĩa một cuộc đời đã được xây dựng nên từ ý thức rút ra ở chính cuộc đời đó". (sđd, trang 307).

Để kết luận, chúng ta có thể nói rằng: trong cuốn "Ý thức phê bình", Georges Poulet lấy ý thức phê bình của mình chiếu vào ý thức phê bình của người khác để tạo ra tác phẩm, một tác phẩm có chủ đích phê bình các nhà phê bình. Văn bản phê bình, dưới ngòi bút của Poulet, trở thành tấm gương hội tụ và phản ảnh văn chương, và nó có thể bội phân nhiều lần, mỗi lần nẩy sinh một tác phẩm mới. Ông trình bày gần 20 quan điểm phê bình khác nhau, từ bà De Staël, Baudelaire, Marcel Proust, Marcel Raymond, Gaston Bachelard... đến Jean-Paul Sartre, Roland Barthes, mỗi người có một ý thức phê bình khác, đôi khi hoàn toàn đối lập nhau: phê bình Bachelard dựa trên tưởng tượng, không màng đến ý thức, Sartre chối bỏ hoàn toàn lập luận: phê bình là nhập vào bên trong ý thức của người khác, bởi theo ông ý thức chẳng có bên trong bên ngoài, và có muốn nhập vào cũng bị đẩy ra. Với tác giả nào, Poulet cũng gắng tìm cho được cái Cogito của họ. Poulet tìm ra cái Cogito của người khác đồng thời xác định cái Cogito của chính mình.

Như thế phê bình ý thức là sự hoà tan giữa triết học và văn chưong, trên con đường truy tìm Cogito, hay cái tư tưởng chủ yếu dựa trên ý thức của người viết. Một định nghiã như thế có thể bao trùm lên hầu hết các nhà phê bình theo hướng mới trong nửa sau thế kỷ XX.

Trường phái phê bình ý thức đã làm được hai việc cơ bản: Thứ nhất, đẩy lùi ảnh hưởng của của nền phê bình thực nghiệm, dựa trên triết học thực nghiệm của Auguste Comte (1798-1857) đã chi phối đời sống văn học trong thế kỷ XIX, mà đại diện tầm vóc nhất là Sainte-Beuve.

Điểm thứ nhì: Trở về với triết học Descartes (1586-1650), tìm lại sự thực đầu tiên: cái Cogito, Je pense, donc je suis - Tôi suy tư, vậy tôi hiện hữu. Việc khám phá ra sự hiện hữu của tôi, là biểu hiệu đúng nhất của sự "biết chắc", nó mang tính cách tuyệt đối hiển nhiên, và cho phép ta, đi đến một hiện hữu hiển nhiên khác, hiện hữu phê bình: tôi thán phục, vậy tôi hiện hữu.Và từ đó, mở rộng con đường ý thức trong địa hạt phê bình. Cogito là ý thức tiên khởi, là sự thực tiên khởi và hiển nhiên không còn nghi ngờ gì nữa. Georges Poulet đã đặt cái cogito đó, làm nền cho tư tưỏng phê bình của mình cũng là điều dể hiểu, và phê bình Ý thức trở thành ý thức nền tảng của phê bình mới, như một trạm dừng chân, trước khi bước qua nền phê bình ký hiệu học, sẽ phát triển mạnh trong nửa sau thế kỷ XX.

Thụy Khuê

Phát thanh trên RFI tháng 5/2005

Sửa chữa và bổ sung tháng 6/2006

(Kỳ tới: Phê bình văn học Pháp)

© Copyright Thụy Khuê 2005-2006