Thụy Khuê Phê bình văn học thế kỷ XX Gaston Bachelard
La Psychanalyse du feu - Phân tâm lửa Giữa thế kỷ XX, trong khi phần lớn những nhà phê bình hiện đại trên thế giới đều lấy văn bản hoặc lấy ý thức của nhà văn làm đối tượng khảo sát, thì Gaston Bachelard chiếu ống kính vào hai yếu tố: vật chất và tưởng tượng, và coi đó là hai đối tượng chính để khảo sát. Gaston Bachelard trở thành người đi tiên phong cho cái mà sau này người ta gọi là Phê bình mới ở Pháp. Tuy nhiên, ông không được giới nghiên cứu phê bình Anh Mỹ chú ý đến, tên ông không có trong những trong những tuyển tập thời danh về lý thuyết văn học. Nhưng phong cách phê bình của Bachelard đã ảnh hưởng đến nhiều thế hệ, đã khuynh đảo nền phê bình cổ điển với cái nhìn, cách làm việc và những khám phá hoàn toàn mới lạ. Đặc biệt là Gaston Bachelard còn ảnh hưởng đến một số cây bút phê bình ở miền Nam Việt Nam, thời kỳ 54-75, rõ nhất trong tác phẩm của Đỗ Long Vân. Rất có thể bởi vì triết học học của Bachelard uyển chuyển và thanh thoát, ngụ ẩn tinh thần thi ca và hội hoạ Đông Phương, tựa như những bức Nymphéas (Đầm sen) của Claude Monet. Bachelard cho rằng óc tưởng tượng của con người dựa trên bốn yếu tố chính: Lửa, Nước, Đất, Trời. Và ông tìm mối tương quan giữa bốn yếu tố chính ấy trong cấu trúc vật chất và cấu trúc tưởng tượng. Gaston Bachelard (1884-1962) là một triết gia không theo con đường trường ốc truyền thống. Xuất thân trong một gia đình thanh bạch, Bachelard vừa làm vừa học. Đỗ cử nhân toán năm 1912, làm việc ở bưu điện, sau chuyển sang dạy lý hoá ở một trường trung học. Vẫn vừa làm vừa học, năm 1922, đỗ thạc sĩ triết học (agrégation de philosophie). 1927, trình luận án tiến sĩ văn chương. Dạy triết tại đại học văn khoa Dijon từ 1930, trong mười năm và đến 1940 lên dạy ở Sorbonne. Những tác phẩm đầu thuộc địa hạt triết học về khoa học. Phần thứ nhì, từ 1938 đến 1948, ông cho xuất bản những tác phẩm khai phá tưởng tượng và mộng mơ như những yếu tố nguyên khởi của sáng tác. Theo tâm lý học truyền thống, con người nhìn thấy trước, rồi nhớ lại, và sau cùng mới tưởng tượng. Bachelard, ngược lại, cho rằng: con người tưởng tượng trước, rồi mới nhìn thấy, và sau cùng mới nhớ lại. Đó là điều cốt yếu đầu tiên trong lý thuyết văn học của ông. Như vậy, Bachelard đặt vấn đề tưởng tượng lên hàng đầu trong óc con người, và từ đó, ông xây dựng lý thuyết triết học về văn học. Những mộng mơ, những thần thoại hoang đường, những tưởng tượng lạ lùng trong đầu óc con người, được ông mổ xẻ, phân tích, trong bối cảnh của bốn nguyên tố khởi sinh cuộc sống: nước, lửa, đất, trời. Từ đó, Bachelard hình thành điều cốt yếu thứ nhì: mọi giấc mơ, mọi thành tố của hình ảnh trong văn chương đều xây dựng trên bốn yếu tố nguyên khởi trên đây, tức là đều đi từ vật chất để dẫn về vật chất. Mơ mộng sáng tạo bắt nguồn từ vật chất. Đầu đề 5 cuốn sách chủ yếu của Bachelard đã nói lên tư tưởng đặc thù của nhà bác học này: La psychanalyse du feu (Phân tâm lửa, 1938), L'eau et les rêves (Nước, Mơ, 1943), L'air et les songes (Trời, Mộng, 1943), La terre et les rêveries de la volonté (Đất và mặc tưởng ý chí, 1948), và La terre et les rêveries du repos (Đất và những giấc mơ yên tĩnh, 1948).
*
Trong cuốn sách đầu tiên Phân tâm lửa (La psychanalyse du feu), Gaston Bachelard đã xác định vị trí trung gian của triết học đối với khoa học và thi ca như sau: "Trọng tâm của thi ca và khoa học đối nghịch nhau. Nhưng triết học có thể làm cho hai ngành ấy trở nên bổ sung cho nhau và liên kết chúng lại thành hai tương phản hữu ích" (trích La psychanalyse du feu, Folio Essais, 1994, trang 12). Tại sao Bachelard lại đem lửa ra làm đối tượng hàng đầu để phân tâm? Bởi vì xưa nay lửa không những là một đối tượng khảo sát khoa học, mà còn là đối tượng trong tình yêu, trong văn chương, trong tất cả mọi trạng thái của đời sống như yêu thương, tranh đấu, giận hờn, ghen ghét, và nhất là lửa là một trong 4 yếu tố cơ bản: nước, lửa, đất, trời. Lửa là khởi nguồn của đời sống ẩm thực, con người có lửa là có thức ăn chín, có văn minh. Bachelard quả quyết một khi đã phân tâm được lửa, đã biết được về lửa, chúng ta có thể tiếp tục phân tâm những yếu tố khác như: nước, trời, đất, muối, rượi, máu v.v... Vậy mà lửa lại là một yếu tố mà chúng ta biết rất ít, hoặc hầu như không biết gì về lửa. Về mặt khoa học, nếu hỏi những người có thẩm quyền như nhà bác học chẳng hạn, rằng: Lửa là gì? Thì sự trả lời của họ thường rất mơ hồ, hoặc họ lập đi lập lại một lối giải thích cũ rích, vô bằng chứng, kiểu như: hai khúc củi khô cọ nhau thì ra lửa, sấm sét đánh vào cây thì ra lửa, hoả diệm sơn phun lửa v.v... Đành rằng sấm sét đánh vào cây thì ra lửa, hoả diệm sơn phun lửa, nhưng dù con người tiền sử có nhìn thấy những hiện tượng ấy, nhưng từ việc nhìn thấy đến việc biết nó là cái gì, biết khả năng của nó, biết lấy lửa mà dùng, rồi biết giữ được cái lửa ấy làm sao không tắt ngấm, là một bước rất xa. Hay là những người thượng cổ trần truồng ấy, chỉ như những động vật khác, thấy lửa cháy rừng là chạy? Và cũng lại đành rằng: hai hòn đá hay hai khúc củi cọ sát nhau thì ra lửa, nhưng tại sao con người lại nghĩ ra rằng cứ lấy hai khúc củi khô, cọ vào nhau thì sinh ra lửa? Khoa học đã không có những câu trả lời thoả đáng. Và Bachelard tìm một cách trả lời khác bằng phân tâm học. Trong Phân tâm lửa, Bachelard coi lửa như một thực thể sống trong tiềm thức và vô thức của con người, được bộc lộ ra ngoài dưới ba hình thức mặc cảm: - Mặc cảm Prométhée (complexe de Prométhée) hay mặc cảm con muốn vượt cha. - Mặc cảm Empédocle (complexe d' Empédocle) hay mặc cảm tự thiêu. - Và Mặc cảm Novalis (complexe de Novalis) hay sự tìm kiếm nguồn gốc lửa.
Đầu tiên, Bachelard nhận xét mối tiếp xúc của con người với lửa: Thuở nhỏ, cha mẹ cấm không cho ta sờ tay vào lửa. Kỷ niệm đầu tiên về lửa là một sự cấm kỵ. Nhưng lửa cũng là lửa ấm gia đình, là cái gì thân thiết nhất, sâu xa nhất của con người. Ông viết: "Lửa vừa ở riêng ta vừa là của chung. Lửa sống trong tim ta. Lửa sống trong trời đất. Lửa bốc lên từ sâu thẳm của bản thể và cống hiến như tình yêu. Lửa xuyên trong vật chất và lẩn trốn ở đó, âm ỷ, ngấm ngầm như oán hận, phục thù. Lửa là hiện tượng duy nhất có thể nhận cả hai giá trị tương phản nhau: tốt và xấu. Lửa sáng Thiên đàng, lửa thiêu Địa ngục. Lửa êm ấm và lửa dày vò. Lửa trong bếp và lửa tận thế. Lửa gây thích thú cho đứa nhỏ ngoan ngoãn ngồi chơi bên lò sưởi, nhưng lửa trừng phạt ngay khi nó dám thò tay vào lửa. Lửa là niềm an lạc và lửa được tôn trọng. Lửa là vị thần hộ mệnh và khủng khiếp, tốt và xấu. Lửa lập luận và phản bác, vì thế mà lửa là một trong những nguyên tắc biện minh phổ quát" (sđd, trang 24). Và ông viết tiếp: "Và như thế lửa là một thực thể xã hội hơn là một thực thể tự nhiên" (trang 27). Như vậy: "Sự kính trọng lửa là sự kính trọng do giáo dục xã hội mà có. Không phải tự nhiên mà có" (trang 28). Đứa bé định thò tay vào lửa thì bị bố đánh ngay, trước khi nó kịp thò tay để biết lửa như thế nào. Lửa là đối tượng cấm tiệt, do đó ta có thể kết luận rằng: cấm tiệt là cái biết đầu tiên của chúng ta về lửa. Đứa bé bị cấm sẽ tìm cách phạm cấm, bởi nó cũng muốn làm giống bố, nó sẽ lấy trộm vài cái diêm để dóm lửa, nó trốn ra vườn, thử bật diêm chơi, xem lửa thế nào. Cái mà đứa nhỏ muốn làm giống bố, Bachelard gọi là mặc cảm Prométhée của đứa nhỏ. Nó muốn biết bằng cha nó, nó muốn biết hơn cha, nó muốn biết bằng thầy, nó muốn giỏi hơn thầy. Tóm lại, theo Bachelard, mặc cảm Prométhée nơi người con trai muốn vượt bố là thứ mặc cảm Oedipe trong đời sống tinh thần. (Xin mở ngoặc: Trong thần thoại Hy Lạp, Prométhée vì thương loài người cho nên đã lấy cắp lửa của các vị thần linh trên thiên đình đem xuống hạ giới cho loài người. Prométhée bị Zeus trừng trị, bắt xích trên núi Caucase, và cho một con đại bàng đến rỉa gan, nhưng đại bàng rỉa đến đâu, gan chàng lại mọc ra đến đấy. Sau Héraclès giết con đại bàng giải thoát cho Prométhée. Truyền thuyết Promethée ảnh hưởng sâu rộng trong văn học phương Tây). Mặc cảm thứ nhì về lửa, cũng là mặc cảm Empédocle. Empédocle là triết gia Hy Lạp có bút pháp thơ, tương truyền ông đã lên miệng núi lửa Etna để gieo mình. Theo Bachelard, sự mơ mộng của con người dưới ánh lửa là những mơ mộng nguyên thủy. Lửa tĩnh lặng nghỉ ngơi, nhưng lửa cũng có thể gợi đến những khao khát thay đổi, đến phá vỡ thời gian, đến sự cắt đứt cuộc đời, khi ấy, mơ mộng trở nên bi kịch, nó có thể làm thay đổi định mệnh, nó nối liền cái nhỏ bé đến cái vô cùng, nó bắc cầu bếp lửa với hoả diệm sơn. Kẻ mơ màng ngắm lửa sẽ bị quyến rũ, sẽ rơi vào tiếng gọi của giàn thiêu đuốc lửa. Nơi một cá nhân như thế, sự tự thiêu sẽ là một khởi đầu. Mặc cảm tự hủy trên giàn thiêu đuốc tuệ ấy, Bachelard gọi là mặc cảm Empédocle. Mặc cảm thứ ba, mặc cảm Novalis, giải thích nguồn cội của lửa. Novalis là nhà thơ lớn người Đức thế kỷ XVIII. Thơ ông diễn tả vũ trụ nguyên khai. Ông chủ trương tâm hồn và vũ trụ hoà đồng. Trong phần phân tâm lửa thứ ba này, Bachelard xác định: nguồn gốc lửa phát xuất từ con người. Lửa chính là sản phẩm của tình yêu, của dục tình. Con người tìm thấy lửa qua kinh nghiệm bản thân trong sự cọ sát hai thân thể. Bachelard bác bỏ những cách giải thích thông thường, cho rằng người tiền sử kiếm ra lửa nhờ dùng hai khúc củi khô cọ sát nhau. Nhưng không ai chứng minh được rằng tại sao những người tiền sử đó lại nghĩ đến sự cọ sát thì ra lửa? Một vài tác giả cho biết thêm: bởi vì cháy rừng. Mà rừng cháy là do các thân cây khô cọ sát nhau trong mùa hè nóng bỏng. Nhưng đó cũng chỉ là giả thiết, hiện tượng cháy rừng do cây cối cọ sát nhau chưa từng được ai nhìn thấy, hoặc kiểm chứng. Người ta bèn bảo cháy rừng là tại "choc". Về nguyên do phát sinh ra lửa, không ai nghĩ đến đó là một hiện tượng đã được chuẩn bị lâu dài trong thời gian, nó cũng từ từ như sự cọ sát hai khúc củi khô, rất lâu, rồi dần dần mới sinh ra lửa. Và Bachelard đi đến kết luận sau đây: Không có một hiện tưọng thiên nhiên nào như sấm sét, cháy rừng, hay núi lửa, cho phép chúng ta nghĩ rằng người tiền sử đã dựa vào những hiện tượng thiên nhiên đó để tìm ra lửa. Ông dẫn chứng những lời sau đây của Schlegel: "Chỉ mỗi sự phát minh ra lửa (...) đã gặp những trở ngại không sao mường tượng được. Không có gì tầm thường như lửa; nhưng con người có thể lang thang nhiều ngàn năm, trong sa mạc, mà không bao giờ nhìn thấy lửa. Cứ thử cho hắn một ngọn núi lửa đang phun hay một khu rừng bị sấm sét đốt cháy: thì tấm thân trần truồng dầy dạn gió mưa rét mướt bốn mùa ấy có chạy lại bên núi lửa hay đám cháy rừng để sưởi ấm không? Hay là hắn sẽ chạy trốn. Lửa làm kinh hoàng động vật, trừ loại gia súc đã quen với đời sống quanh bếp lửa. Mà cứ giả thử như ngưòi tiền sử ấy lấy được lửa, thì hắn dùng cách gì để giữ cho khỏi tắt? Và sau khi lửa tắt thì hắn làm sao để nhóm lại? Nhược bằng cứ cho rằng có hai thanh củi khô tự nhiên rơi vào tay một người tiền sử, thì làm sao hắn biết rằng cứ cọ sát chúng với nhau sẽ có lửa?" (trang 50). Bachelard trích dẫn Schlegel để chứng minh sự bế tắc toàn diện của cách giải thích thuần lý về lửa. Và ông đề nghị: Nếu khoa học thuần lý bị bó tay thì phân tâm học có thể đưa ra một cách giải thích khác. Tại sao con người biết rằng sự cọ sát sẽ sinh ra lửa? Là bởi con người đã thấy một sự cọ sát khác, gây sức ấm như lửa. Đó là kinh nghiệm bản thân: đó là sự cọ sát giữa hai thân thể, đó là ngọn lửa dục tình. Tóm lại, người tiền sử quay về chính bản thân mình để tìm kinh nghiệm về lửa, để sáng tạo ra lửa. Sự cọ sát để sinh ra lửa, con người không học được ở thiên nhiên như núi lửa, cháy rừng, mà đã phát xuất từ kinh nghiệm thể xác: hai thân thể cọ xát nhau, thì sinh ra hơi ấm, thì bốc cháy như lửa. Và từ kinh nghiệm thân xác, con người áp dụng với hai khúc củi khô. Nếu chấp nhận như thế thì chúng ta sẽ thấy tất cả đều rõ ràng sáng tỏ, từ ngôn ngữ đến truyền thuyết: Tình yêu là nguồn cội sản sinh ra lửa, một giải thích phân tâm học phù hợp với thực tế. Prométhé là một tình nhân cường tráng hơn là một triết gia quả cảm và sự trả thù của Zeus chỉ là sự đánh ghen thuần túy, không hơn không kém. Bởi nếu việc tìm ra lửa khởi sinh từ sự chinh phục thể xác, thì ta không còn ngạc nhiên khi thấy rằng: lửa đã mãnh liệt đứng về phía dục tình từ muôn thuở trước. Ngôn ngữ loài người luôn luôn chứng minh điều đó. Trở lại văn học Việt Nam, lửa trong những "lửa tâm càng dập càng nồng" của Nguyễn Du, Tắt lửa lòng của Nguyễn Công Hoan, những cơn hoả mộng của Nguyễn Tuân, lửa từ bi của Vũ Hoàng Chương, lửa Hà Nội của Mai Thảo... đã đi vào vô thức văn chương như một động lực sáng tạo sống động, ngang ngửa với trời, đất. Bachelard giải thích tiếng sét ái tình (coup de foudre) như nguồn cội của những tia lửa mà ông gọi là những hoả thể (être igné, hữu thể thoát thai từ lửa). Những hoả thể sinh ra từ tiếng sét ái tình là những tia sáng li ti, những hạt mầm nở ra những ngọn lửa tình mới.
Nước và mơ Theo Bachelard, sự tưởng tượng của con người không bắt nguồn từ một đồ vật cụ thể, như cái bàn, cái ghế, mà bao giờ cũng bắt nguồn từ một thể chất, một vật chất (substance, matière): như nước, lửa, khí trời, đất, đá, máu, v.v... nếu lấy ví dụ trong thi ca Việt nam, một trong những câu thơ hay nhất của Nguyễn Du như "Hương gây mùi nhớ trà khan giọng tình" ta sẽ thấy hương và trà là hai yếu tố vật chất gây ra sự tưởng tượng về nỗi nhớ và tình yêu nơi Kim Trọng. Hoặc trong câu "Buồng văn hơi giá như đồng", yếu tố gây tưởng tượng ở đây là hơi, và hơi cũng vẫn là một (vật) chất. Bachelard đã trình bày bốn yếu tố vật chất cơ bản: nước, lửa, đất và trời (tức là bầu khí quyển hay không gian) như bốn nguyên tố chính mà con người dựa vào để tưởng tượng. Cho nên, khi muốn tìm hiểu cấu trúc thơ văn, đặc biệt là những hình ảnh trong thi ca, thì trước tiên phải xác định nguồn cội vật chất nào đã khiến cho nhà thơ tưởng tượng ra những hình ảnh đó, vì vậy tác phẩm Nước Mơ (L'Eau et les Rêves) của Bachelard còn có thêm tiểu tựa là "Tiểu luận về tưởng tượng vật chất". Ở đây, ông không phân tâm nước như ông đã làm với lửa, "cuốn sách của chúng tôi là một cuốn tiểu luận mỹ học văn chương. Nó có hai mục đích chính: xác định thể chất của những hình ảnh trong thơ và tìm ra tính thích đáng của hình thức đối với những chất liệu cơ bản" (L' Eau et les Rêves, Biblio Essais, 1998, trang 18). Nước Mơ được viết với tâm hồn thi nhân nhiều hơn triết gia và nhà khoa học. Để bảo vệ lập thuyết của mình, về mối tương quan giữa nước và mơ, Bachelard dùng ngôn ngữ thơ, để ngòi bút buông theo cảm hứng, với những trang thơ mà nhận định triết học, khoa học và tưởng tượng thi ca đan cài: "Người ta không tắm hai lần trong cùng một dòng sông, bởi vì, trong sâu thẳm con người là định mệnh một dòng nước chảy. Nước là yếu tố chuyển tiếp. Con người là sự biến đổi bản thể cốt yếu giữa lửa và đất. Kẻ nào hiến dâng cho nước sẽ quay cuồng, sẽ cảm thấy như mình mỗi lúc trôi đi một ít, chết dần trong mỗi phút giây. Cái chết mỗi ngày một ít ấy không phải là cái chết hoành tráng của lửa, cao kỳ như những mũi tên chọc trời; cái chết mỗi ngày là cái chết của nước. Nước luôn luôn chảy, nước luôn luôn ngã, nước luôn luôn tự kết liễu đời mình bằng cái chết ngang. Qua hằng hà ví dụ mà chúng ta có thể tìm thấy trong tưởng tượng vật chất: cái chết của nước mơ màng hơn cái chết của đất và niềm đau của nước trải dài vô tận (Nước Mơ, trang 13). Qua đoạn văn trên, Bachelard đã xác định lại một lần nữa lập thuyết: lửa phát sinh ra tình yêu và từ tình yêu. Con người, sinh ra từ ngọn lửa (tình) và chết đi để về với đất, chỉ là một yếu tố trung gian -bởi sống là cõi tạm- của sự đổi thay bản thể giữa lửa và đất. Còn nước, nước có vai trò gì trong cuộc sống này? Nước đem sự sống nhưng nước còn biểu hiện cái chết, cái chết hàng ngày, trong mỗi giây mỗi phút, bởi nước ngã, nước trôi, nước chảy đi, nước nằm ngang cuốn về cõi chết. Cho nên, nước là yếu tố gây ra những tưởng tượng sâu xa nhất trong con người về sự sống và sự chết. Bachelard viết tiếp: "Tôi luôn luôn cảm thấy cùng một nỗi buồn trước những dòng nước ngủ, nỗi buồn đặc biệt như màu nước ao trong rừng ẩm, nỗi buồn buông thả, mơ màng, chầm chậm, tĩnh lặng. Đối với tôi, chỉ một chi tiết nhỏ li ti trong đời sống của nước cũng có thể trở nên một biểu tượng tâm lý chính yếu, ví dụ như mùi cây bạc hà nước, gợi lại trong tôi một thứ giao cảm sâu xa trong tâm hồn, làm tôi tin rằng cuộc đời chỉ đơn thuần là một mùi hương, rằng cuộc đời bốc ra từ mỗi cá thể như mùi hương bốc ra từ mỗi chất liệu, rằng cây cỏ mọc bên bờ suối toả ra tâm hồn của nước... (...)Bởi vì con người trước tiên là một thức tỉnh và con người chỉ thức tỉnh khi ý thức thấy một cảm giác lạ thường. Mỗi cá nhân không phải là tổng cộng của những cảm thức chung chung, mà là tổng cộng của những cảm thức lạ thường. Cứ thế tạo ra trong ta những bí mật thân quen dưới những biểu tượng hiếm hoi khác lạ. Chỉ gần nước và gần hoa mọc dưới nước, tôi mới hiểu rằng mộng mơ là một vũ trụ phát tán, mùi hương toát ra từ sự vật là nhờ trung gian của người đang mơ mộng. Cho nên nếu tôi muốn nghiên cứu đời sống của những hình ảnh thoát thai từ nước, thì tôi phải trả lại vai trò chủ yếu cho dòng sông, và cho những nguồn nước trên quê hương tôi" (Nước Mơ, trang 14) Và từ đây Bachelard dẫn người đọc trở về nguồn cảm hứng tiên khởi, về vùng đất đã phát sinh ra những mơ mộng đầu tiên của mình, ông viết tiếp: "Tôi sinh ở một vùng sông và suối, miệt thung lũng Champagne, có tên Vallage vì nhiều sơn cốc. Đối với tôi, căn nhà đẹp nhất là căn nhà dưới trời sương tháng mười, nằm sâu trong lòng lũng nhỏ, bên bờ nước động, dưới bóng ngắn của thủy liễu và miên liễu. Cái thú của tôi là chạy bên dòng suối, theo hướng nước chảy, đem cuộc sống đến những nơi khác, làng bên (...) Nhưng nơi chôn rau cắt rốn không chỉ là một trải dài mà còn là vật chất nữa; nó là đất, là nước, là đá, là gió, là hạn hán, là ánh mặt trời. Chính từ chốn ấy mà chúng ta vật chất hoá những mộng mơ của ta, và cũng bởi chốn ấy mà những giấc mơ của ta trở thành vật chất, ta có được những màu sắc cơ bản. Khi ngồi mơ mộng bên bờ sông, tôi hiến dâng tưởng tượng của tôi cho nguồn nước: nước xanh trong vắt, nước làm ngát cánh đồng. Tôi không thể nào ngồi cạnh một dòng suối mà không rơi vào những mộng mơ sâu lắng, không nhìn lại hạnh phúc của mình... Mà cũng không nhất thiết cứ phải là dòng suối của quê tôi, cứ phải là dòng nước của quê hương tôi. Dòng nước vô danh nào cũng có thể biết hết bí mật của tôi, kỷ niệm trở về bên mọi nguồn nước". (Nước Mơ, trang 15). Bachelard không dùng phương pháp phân tâm đối với nước như ông đã làm với lửa, mà chủ đích của ông ở đây là tìm ra cái sức mạnh ngầm nào đã tạo nên hình thức và nội dung của một hình ảnh: "Trong việc khảo sát hình ảnh, chỉ khi nào ta tìm ra được cái vật chất nào đã tạo ra nó, thì ta mới có thể nói đến một học thuyết toàn diện về sự tưởng tượng của con người. Và khi đó ta mới thấy rằng hình ảnh là một thứ cỏ cây cần trời, cần đất, cần chất liệu và hình thái. Phải mất nhiều thời gian, nhiều khó khăn mới tạo được một hình ảnh, đúng như nhận xét sau đây của Jacques Bousquet: "Để tạo ra một hình ảnh, nhân loại cũng tốn công như tìm một tính chất mới của cỏ cây" (trang 9). Bachelard xác định: "Muốn có một triết thuyết về tưởng tượng, trước hết phải tìm hiểu mối tương quan nhân quả giữa vật chất đối với hình ảnh. Tương quan này đặt ra cho nhà thơ cũng như cho nhà điêu khắc. Bởi hình ảnh trong thơ, cũng có từ vật chất" (trang 9). Và ông viết tiếp: "Tôi tin rằng có thể xác định trong thế giới tưởng tượng, một quy luật tứ trụ, xếp những tưởng tượng vật chất, theo nguồn cội xuất phát từ bốn yếu tố chính: lửa, nước, đất, trời (...). Để cho một giấc mơ trở thành bất biến, để có thể viết ra được thành một tác phẩm, thì nó không thể là một trạng thái trống rỗng của một giờ mơ mộng thoảng qua, mà nó phải dựa trên vật chất, tức là phải có một yếu tố vật chất nào có khả năng cho nó cái chất liệu, cái luật tắc, cái chất thơ (...) Lessius một tác tác gia xưa đã viết trong cuốn "L'art de vivre longtemps (Nghệ thuật sống lâu) như sau: "Những cơn mộng của người hay lo lắng, buồn giận thất thường nghiêng về lửa, về hoả hoạn, về chiến tranh, về giết người. Những cơn mộng của kẻ sầu não là đám tang, là mộ phần, là yêu ma, là chạy trốn, là hố sâu, là tất cả những gì buồn bã. Những cơn mộng của những kẻ nhiều mũi dãi hay khạc nhổ là về sông hồ, lụt lội, về chết đuối. Những cơn mộng của kẻ xung động, nóng máu, là bay bổng như chim, là về các cuộc đua, về yến tiệc, về nhạc hội, cả về nhũng điều không dám nói ra". Vì vậy, có thể xếp mơ của những người hay lo lắng, buồn giận thất thường, về lửa. Mơ của những người sầu não về đất. Mơ của những người hay khạc nhổ, nhiều mũi rãi, về nước, và những người nóng máu thường mơ bay bổng lên trời" (trang 10-11). Tóm lại, theo Bachelard, mộng hình thành trên những yếu tố vật chất, vì vậy chúng ta có thể giải thích mộng bằng con đường vật chất, trong sự luận giải về những giấc mơ, yếu tố vật chất là yếu tố cơ bản. Bachelard nghiệm thấy: " Những nhà thơ vui, sống như dòng nước chảy quanh năm, từ xuân sang đông: phản ảnh một cách dễ dàng, thụ động, nhẹ nhàng tất cả bốn mùa. Những nhà thơ sâu sắc, thấy nước sống động, nước tái sinh trong mình,, nước bất biến, ghi những hình ảnh không thể xoá được, nước là một bộ phận của thế giới, là chất dinh dưỡng những hiện tượng chảy xuôi, là yếu tố thực vật, là đài gương, là xác thân của những hạt lệ... Xin nhắc lại rằng: Phải đứng rất lâu trước bề mặt ngũ sắc thì chúng ta mới hiểu được giá trị của chiều sâu. Thử xác định một số nguyên tắc kết hợp những hình ảnh bề mặt, thì chúng ta sẽ thấy trường hợp cá nhân tự ngắm, tự yêu mình (narcissisme) nằm trong nguyên tắc chung của vũ trụ tự ngắm" (trang 19). Và ông đi đến kết luận: nếu nhận xét kỹ, chúng ta sẽ thấy tính cách nhất quán của nước. Và những hình ảnh về nước thường được xắp xếp theo một trật tự có tổ chức. Vì vậy, đi từ sự tìm hiểu nguồn thơ từ nước, ta có thể bước sang một thứ siêu thi học về nước. Tác phẩm Nước Mơ, đi từ những dòng nước trong, phát sinh những hình ảnh thơ mộng thoáng qua (chúng ta có thể lấy ví dụ trong thi ca và âm nhạc Việt như Suối mơ, Bến xuân của Văn Cao, Trăng mờ bên suối của Lê Mộng Nguyên), để tiến dần đến những dòng nước sâu hơn (như Đêm tàn bến ngự của Dương Thiệu Tước) và sau cùng đạt tới những dòng nước nặng, chở nỗi đau tuyệt vọng của con nguời, kết tinh thành vật chất (như Lệ là những viên đá xanh, tim rũ rượi của Thanh Tâm Tuyền). Hoặc trong cùng một tác giả như Nguyễn Du, vẫn là nước, nhưng mỗi thứ nước chuyên chở một tình huống khác: nước trong gần gụi với những gặp gỡ mơ mộng ban đầu, tình yêu chớm nở: Dưới dòng nước chảy trong veo, bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha. Vẫn làn nước ấy, vẫn Kim Trọng ấy, mấy hôm sau, sâu hơn, nhớ thương đã chuyển sang màu khác, đã đạt tới mức khổ đau, khuất biệt: Nước ngâm trong vắt thấy gì nữa đâu.. Và như thế, nước sẽ không chỉ gồm thâu một nhóm hình ảnh quen thuộc, phát xuất từ sự ngắm nước thoáng qua trong mộng mơ vơ vẩn, một chuỗi mơ màng vụn vặt chốc lát, mà nước đã trở thành cột trụ nâng đỡ hình ảnh, nước trở thành kho tàng của hình ảnh, thành nguyên tắc xây dựng hình ảnh. Ở những câu thơ đớn đau trác tuyệt, nước trở thành vật chất, như trong thơ Hàn Mặc Tử: Tôi dìm hồn xuống một vũng trăng êm, Cho trăng ngập trăng dồn lên tới ngực. Dù câu thơ không đả động gì tới nước, nhưng nước vẫn có mặt: giấc mộng của Hàn, con người ốm đau bệnh hoạn, phải là nước, phải quay về với nước. Ở đây, trăng chính là nước và nước là trăng (vũng trăng, trăng ngập), và hồn là xác và xác là hồn (dìm hồn). Như vậy, cả hai yếu tố trăng lẫn hồn đều có khả năng vật chất hoá, tức là có thể lỏng ra hay đặc lại. Lập thuyết của Bachelard giúp ta tìm ra được nguồn cội vật chất của những câu thơ hay, đồng thời xác định được bản lai chân diện mục của một nhà thơ: Một nhà thơ tài năng phải có khả năng biến đổi thể chất, từ lỏng sang đặc hoặc ngược lại.
Bachelard khảo sát thi ca của Edgar Poe mà ông coi như là một thứ siêu thi đã đạt được nguyên tố nước là vật chất, nước mơ trong vật chất, ông tìm đến định mệnh của nước trong thơ Edgar Poe, và thấy đó là định mệnh làm cho vật chất sâu xa thêm, nước làm tăng giá trị của vật chất bằng cách cho nó chở thêm nỗi đau của con người (trang 66). Khi ấy, đêm cũng trở thành (vật) chất (subtance), nước cũng là chất. Chất đêm thầm kín hoà tan trong chất lỏng, như thể trời đem bóng tối tặng cho nước (trang 67), và trong sự lộn đảo đó: nước sẽ không còn là chất lỏng để uống nữa mà chính nó sẽ uống bóng đêm. Tất cả những biến đổi trạng thái từ lỏng sang đặc, đặc sang lỏng của vật chất mà Bachelard tìm thấy trong thơ Edgar Poe, chúng ta có thể tìm thấy trong những câu thơ hay nhất của Hàn Mạc Tử và cũng đau thương nhất của thi ca Việt nam, đó là những giọt lệ của Hàn: Bao giờ mặt nhật tan thành máu. Hoặc trong phút giây Hàn trút linh hồn: Máu đã khô rồi thơ cũng khô. Thụy Khuê Paris, tháng 10/2005 tháng 6/2008
© Copyright Thụy Khuê
2005-2008
|