Thụy Khuê
Phạm Hải Anh, Huyết Ðằng
Trong những tác giả trẻ trội lên
vài năm gần đây tại hải ngoại, Phạm Hải Anh là một trường
hợp đáng chú ý: khuôn mặt văn học tuy có vẻ như chưa thật
sự định hình, nhưng đã có vài nét chấm phá rất rõ: Phạm
Hải Anh có thể xoay từ thực tại này sang thực tại khác,
từ nhân vật này sang nhân vật khác, khá dễ dàng. Tức là
Hải Anh có khả năng đóng nhiều vai "tuồng" khác nhau, nếu
như chị là diễn viên. Và đó là tính chất hiếm hoi trong
văn học cũng như trong kịch nghệ.
Hải Anh có một ưu điểm (và cũng
là nhược điểm): viết rất dễ. Vì viết dễ dàng nên người
đọc có cảm tưởng tác giả chưa khai thác hết khả năng
của mình, chưa đi đến tận cùng của nhận thức, để tạo
ra một sản phẩm văn học "tới nơi tới chốn". Một cảm
giác tiếc nuối chen lẫn chờ đợi Hải Anh viết kỹ hơn,
bởi vì ngay từ cái "jet", cái "phóng" đầu tiên, Hải Anh đã
có những tia nhận xét sâu sắc với một giọng văn chắc
nịch, tự tin, bình chân như vại.
Ví dụ lối vào truyện Cửa sổ (dựng trên bối cảnh khu tập thể Hà Nội), nhân vật chính, kẻ xưng tôi, là một anh cán bộ nghiên cứu, đứng ở cửa sổ nhà mình nhìn xuống mái ngói của một tầng đối diện. Cách mở truyện mạnh bạo và trực tiếp làm cho ta nghĩ đến hai nhân vật của Mai Thảo đứng trên từng chót một tòa cao ốc, nhìn xuống cuộc đời ở dưới chân, hoặc liên tưởng tới Fenêtre sur cour (Cửa sổ nhìn ra sân) của Hitchcock. Tất nhiên đây chỉ là cảm tưởng chứ không hề có ý so sánh Hải Anh với Hitchcock hay Mai Thảo. Tóm lại, mạnh bạo và trực tiếp, đó là lối vào truyện của Hải Anh. Lần theo nét bút, người đọc dần dần khám phá ra những bản phác thảo chân dung nhân vật vừa nổi vừa chìm, ít lời mà ngụ ý, của tập thể "hàng xóm" anh cán bộ nghiên cứu trong cái tầng trước mặt. Họ sống quây quần nhưng xa lạ nhau, thuộc lòng những cử chỉ, thói quen của nhau, nhưng căm ghét nhau. Họ phả ra những thói tật, những phiền hà, những ganh tị nhỏ nhoi trong cuộc sống hàng ngày. Ðó là một tập thể bốn hộ gồm
gia đình ông Mỹ, bán thịt lợn, có người con gái "cô Bích
Liên" đang chờ lấy chồng; gia đình vợ chồng Tâm, cán bộ
nhà nước, có đứa con gái ốm nhom; nhà bà Ðịnh chuyên môn
làm phiền hàng xóm vì khói than và mùi nước gạo, và "nàng",
cái đinh của câu chuyện, nàng cũng là đối tượng yêu của
nhân vật xưng tôi, tức anh chàng ngồi bên cửa sổ nhìn sang
những cuộc đời đối diện. Dùng "cửa sổ" để phóng cái
nhìn sang tập thể, là một ý niệm độc đáo và có dụng
ý: "Nàng mơ một ngôi nhà có nhiều cửa sổ", chị nàng
"mơ một ngày nào đó được tặng một ôm hoa hồng màu
đỏ chói lọi. Nhưng bạn trai chị ấy không thích hoa, chỉ
thích gà. Sinh nhật chị, lần nào anh ta cũng vác đến một
con gà luộc. Hai người chấm muối chanh ớt, liên hoan với
nhau. Rồi chị ấy lấy anh-gà-luộc ấy. Bây giờ hai người
ở một cái nhà to, có rất nhiều cửa sổ." (trang 30-31)
Khát vọng ẩm thực dẫn đến phăng-tát ăn uống, nó đè bẹp những phăng-tát khác, khiến chúng trở thành những nạn nhân, một loại công dân hạng nhì. Nạn nhân ở đây hiện ra dưới dạng phăng-tát ước mơ. Với phăng-tát này, Phạm Hải Anh quẹt một nét khác: Chân dung con bé gầy đét, con vợ chồng Tâm, cán bộ nhà nước:
Thế là rồi đời mơ ước. Một bút
pháp tàn nhẫn, có khả năng đưa lên đoạn đầu đài tất
cả những tơ tưởng ngoạn mục của con người qua vài dòng
chữ li ti.
Huyết đằng tập hợp
25 truyện ngắn, mỗi truyện một bối cảnh khác, một loại
nhân vật khác, một thứ ẩn ý khác.
Trở về
không
còn một chút gì ảnh hưởng Nguyễn Huy Thiệp nữa. Hải Anh
bước sang bút pháp lãng mạn, kể chuyện một anh Việt kiều
về nước. Sự trở về này, giở lại dĩ vãng đau thương
của một tuổi thơ kinh hoàng, đầy chất bi kịch (kiểu anh
em nhà Karamazov). Hải Anh dùng biểu tượng để chồng chất
những lớp lang khác nhau, khiến độc giả có thể đọc Trở
về như một truyện ngắn bình thường, "hồn nhiên" viết
về hoàn cảnh éo le của một Việt kiều, nhưng cũng có thể
đọc Trở về dưới nét khác thường của một gia đình,
một dân tộc có một dĩ vãng âm u, khốc liệt, với những
người con xâu xé, tranh giành, hãm hại nhau (kiểu anh em nhà
Karamazov). Với Trở về cũng như với hầu hết những truyện
ngắn khác, độc giả vẫn có một chút luyến tiếc: tại
sao tác giả không chịu khó đẩy tâm lý các nhân vật sâu
xa hơn nữa, để chúng ghi tạc lâu và mạnh hơn nữa vào tâm
cảm người đọc. Chắc chắn Phạm Hải Anh có thể làm được
việc đó.
Thương lá rách là một
truyện hiện thực "cổ điển" mà thời sự: lá lành đùm
lá rách. Ở đây, tác giả vạch ra những "con sâu", "con bọ"
trong đám lá rách, chúng nằm trong hệ thống "sâu bọ" hút
tủy những cơ hàn, đói khát, liệt nhược của trẻ mồ côi.Những
"lá lành", trong cuộc hành hương nhân đạo, mỗi ngày một
lạc thêm vào mê lộ của cuộc đi, tự hỏi về hành trình
chính mình, mình có đi lạc ngay từ đầu không? Mình có tiếp
viện cho bọn mafia trưng dụng tình thương, dùng viện tế
bần, trại mồ côi như những dụng cụ để làm tiền không
cần xuất vốn. Ðây là câu chuyện một anh sinh viên vừa
ra trường tìm được việc làm ở một tổ chức cứu trợ
nhân đạo nước ngoài. Anh ta làm thông ngôn cho Eric, một nhân
viên của cơ quan cứu trợ. Eric muốn đến thăm những nơi
mà tổ chức cứu trợ này đã hoặc sẽ cho tiền.
Dạo phố Hà Nội như Thạch Lam, Hải Anh dừng lại ở một tiệm giầy, hàng "Xuân Phương Shoes Shop", có lời quảng cáo hoa mỹ "Ðến với Xuân Phương bạn sẽ hài lòng", rồi nghe chuyện đời ly kỳ của ông chủ, bạn sẽ thấy đó là cả một lịch sử lẫy lừng của dân tộc: Cụ thân sinh ra ông, nhờ có mỗi cái nghề bán dép lốp, dép râu mà mua được cả ti-vi, tủ lạnh. Một nửa dân Hà Thành xài dép lốp Xuân Phương, và trong cảnh giầu sang ti-vi tủ lạnh, cụ đã từng mơ một giấc mơ triệu phú, có tầm cỡ quốc gia, quốc tế, đó là ngày cụ trang bị dép lốp cho toàn thể phi công Việt Nam "chân dép lốp bay vào vũ trụ" (trang 89) Nhưng rồi cụ mất mà chưa được phỉ nguyện, con cụ, ông Xuân Phương ngày nay vẫn chỉ là chủ tiệm Xuân Phương shop và kiêm chức vụ quý hóa thứ nhì: Ông là một nhà thơ đầy triển vọng trong sinh hoạt câu lạc bộ thơ phường, với những chủ đề đầy ý nghĩa như "Khuyến khích sinh đẻ có kế hoạch". Tiệm ông luôn luôn chào đón khách quốc tế, hạng người mù chữ bản địa, cho nên cứ thấy bảng "oen khăm", "oen khiếp" là chúng nhào vô và dĩ nhiên là ông dành ưu tiên cho loại khách quý, không mà cả nhì nhằng bần tiện. Xuân Phương vừa pha trộn
những hóm hỉnh rất Thạch Lam, lại vừa có những mỉa mai
châm biếm rất Vũ Trọng Phụng, là một truyện ngắn đặc
sắc của Hải Anh về con người Hà Thành ngày nay, và cũng
là người Việt nói chung trong bối cảnh kinh tế thị trường.
Về những ảo ảnh của khẩu hiệu, về những khôi hài của
sự học mót, đua đòi, của sự dốt nát hồn nhiên, về bệnh
nan y vọng ngoại.
Tôi, anh, nàng và đức Phật
là một thành công khác. Nàng trong truyện này là một nhân
vật ảo, là cái bóng của nhân vật xưng tôi, một cô gái.
Nàng là phăng-tát của tôi. Và tôi là một kẻ có khuynh hướng
đồng tính nhưng lại muốn chối bỏ "tội lỗi" của mình
bằng cách niệm Phật để diệt những đòi hỏi rối rắm
đang phát triển trong lòng mình, diệt cái mà người ta cứ
gọi trắng ra là "tà dục".
Huyết đằng nổi trội như một cấu trúc chặt chẽ trong đó Phạm Hải Anh tạo được không khí truyện rất riêng biệt, một cái gì như mờ ảo, bí mật, liêu trai xung quanh mối tình giữa Hùng và Mận. Một tình yêu đến chết. Một sự đầu thai trong luân hồi. Tất cả được mở ra với biểu tượng huyết đằng, như một câu hỏi: Huyết đằng là gì? Hai chữ huyết đằng dấy lên như một ngư tiên bí mật và huyền bí, gợi âm, gợi hình, như một phù thủy của âm thanh, mời gọi mọi người tìm đọc Huyết đằng. Tất cả những nhân vật trong truyện đều có tính nửa người, nửa ma, có giọng âm, giọng dương như thể có đó mà không ở đó. Hải Anh đã vẽ được những nét bí mật của nỗi đam mê phi lý, vô tận trong tình yêu. Tuy vậy vẫn tiếc: Hải Anh viết ngắn quá, chưa đủ "thì giờ" đào sâu các nhân vật, tạo nên những tình huống, những hình ảnh gây dấu ấn lâu dài trong lòng người. Ðòi hỏi như vậy có quá chăng? Ðối với một ngòi bút mới viết được vài năm nay? Chắc là không, bởi vì qua tập truyện ngắn đầu tay, Phạm Hải Anh đã cho thấy tài năng của chị, nếu chỉ nhấn thêm lên một tý, là người đọc khi gấp cuốn sách lại, sẽ còn lưu trữ những ấn tượng lâu dài về cô Mận, về ông Xuân Phương, về cái cửa sổ, về con mèo có tên Culi và cô chủ nó v.v... Phải làm sao cho những người và vật đó ám ảnh người đọc mạnh hơn nữa, lâu hơn nữa. Chính cái ám ảnh là một trong những đích cao nhất của truyện ngắn. Nếu truyện dài là chạy marathon trong cuộc đời, thì truyện ngắn là soi kính hiển vi vào một khúc, một dòng marathon ấy, và phải tìm được những cận ảnh độc đáo nhất để làm đứng tim độc giả. Thụy Khuê
Paris, thu 2002 _______________
© Copyright Thuy Khue 2002
|