Thụy Khuê Sự ra đời của Sáng Tạo
Trong vòng mười năm, từ 1945 đến 1954, những xu hướng đổi mới văn học nghệ thuật tạm thời lắng xuống, một phần vì chiến tranh, một phần vì chính sách văn hoá của Đảng Cộng Sản mà Tố Hữu là đại diện chính thức, chủ trương đề cao thơ mới. Những người có đầu óc cách tân dần dần bỏ cuộc: Nguyễn Xuân Sanh (Xuân Thu Nhã Tập) quay lại với thơ mới, Tô Ngọc Vân vẽ tranh tuyên truyền, Nguyễn Đình Thi làm thơ có vần, Văn Cao im lặng... Những đòi hỏi đổi mới tư duy văn học trổi dậy sau ngày chia đôi đất nước. Ở Bắc, phong trào Nhân Văn Giai Phẩm tranh đấu cho tự do sáng tác, chủ trương cách tân văn học, dân chủ hóa đất nước. Riêng trong địa hạt thi ca, Trần Dần, Đặng Đình Hưng, Lê Đạt muốn đoạn tuyệt với thơ mới, để bước vào thơ hiện đại. Nhưng họ thất bại trong đấu tranh và phong trào Nhân Văn Giai Phẩm bị dẹp tan. Mãi đến cuối thập niên 80, nhóm Nhân Văn mới được "phục hồi". Đặng Đình Hưng trở lại văn đàn với Bến Lạ và Ô Mai, Trần Dần với Cổng Tỉnh, Lê Đạt với Bóng Chữ. Thi pháp của họ đánh dấu khuynh hướng thơ hiện đại ở Bắc: Đặng Đình Hưng tạo một thi giới văn xuôi, chữ cuộn tròn và khép kín trong vòng phong toả, không lối thoát. Như thế, chữ cũng bị tù như chính nhà thơ. Ở Đặng Đình Hưng, chữ và người đã là một thực thể hoà đồng, cả hai đều lâm nạn, mắc cạn. Trần Dần trình bày một kho chữ cực kỳ mới lạ và da dạng để thể hiện cái mà chúng tôi gọi là Mỹ học khổ đau của ông. Chưa có thi nhân Việt Nam nào giầu chữ và chữ hiếm như Trần Dần. Lê Đạt, dùng sự độc lập chữ trong thơ Đường để tạo thi pháp mới, mà chúng tôi gọi là tạo sinh, tức là mỗi chữ của Lê Đạt ẩn nhiều nghiã, và độc lập với nhau, nó có thể đứng và đi với bất cứ chữ nào khác trong câu, khiến mỗi câu thơ hay Lê Đạt, thường lấp lánh nhiều ý nghiã, nhiều bối cảnh. Tuy nhiên các thi sĩ miền Bắc, vì chưa tiếp xúc với triết học hiện sinh, nên trong thơ họ, chưa có lối nhìn hiện tượng luận, tức là phân thân và phân chất bản thể con người trong tận cùng sâu thẳm của ngôn ngữ. Có thể nói các thi sĩ miền Bắc đã làm mới thi ca trong điều kiện "cổ điển" của tư tưởng. Các bạn đồng hành của họ ở trong Nam, may mắn hơn, có điều kiện tiếp cận với những luồng tư tưởng mới của thế giới bên ngoài.
*
Trong Nam, tháng 10/1956, tạp chí Sáng Tạo ra đời tại Sàigòn. Một sự "nổi loạn". Một "chất nổ phá đổ cái cũ, tạo dựng cái mới". Trên Sáng Tạo xuất hiện những tên tuổi: Mai Thảo, Thanh Tâm Tuyền, Doãn Quốc Sỹ, Nguyễn Sỹ Tế, Trần Thanh Hiệp, Duy Thanh, Ngọc Dũng, Thái Tuấn, Quách Thoại, Tô Thùy Yên, Cung Trầm Tưởng, Nguyên Sa, Dương Nghiễm Mậu, Nguyễn Đức Sơn ... "Nổi loạn" như thế nào? - "Chôn" tiền chiến. Mai Thảo bảo: "Văn học nghệ thuật mặc nhiên không thể còn là tả chân Nguyễn Công Hoan, lãng mạn lối Thanh Châu, những khái niệm Xuân Thu, những luận đề Tự Lực ... Những trào lưu cạn dòng phải nhượng bộ rứt thoát cho những ngọn triều lớn dậy thay thế. [...] Cái vấn đề lớn nhất của chúng ta bây giờ, trước sau vẫn là phải làm sao đoạn tuyệt được hoàn toàn với những ám ảnh và những tàn tích của quá khứ [...]. Công tác chặt đứt với những trói buộc cũ phải được đặt lên hàng đầu ... và thơ bây giờ là thơ tự do". Thanh Tâm Tuyền định nghĩa khái niệm "nổi loạn": "Nổi loạn là một hành động đòi được gia nhập đời sống: Kẻ nô lệ đòi quyền sống như những người tự do. Như thế nổi loạn là điều kiện sáng tạo." Trên thực tế, Sáng Tạo đã gây "ngọn triều lớn" trong giai đoạn 54- 60, tương tự như Tự Lực những năm 39 - 45: Thổi luồng gió mới vào sinh hoạt văn nghệ, làm thay đổi bộ mặt thơ văn Việt Nam. Về nội dung "nổi loạn", Trần Thanh Hiệp viết "Đặt Nguyễn Xuân Sanh lên đỉnh cao của đường cong", tức là muốn tiếp tục công việc Xuân Thu Nhã Tập đã bắt đầu những năm 40 trong sáng tác: mở rộng tự do cho thơ. Sáng Tạo, nhờ không bị phong toả và khoá bút, nên đã thực hiện được việc hiện đại hóa văn học, ngay từ sau 1954, cả về lý thuyết lẫn sáng tác, giao hòa hai dòng tư tưởng lớn của thế kỷ XX: Hiện sinh và Siêu thực. Trên sáng tác và trong các cuộc thảo luận của nhóm Sáng Tạo, xuất hiện những tiêu đề chính trong văn học hiện đại (chủ yếu là biện chứng của Sartre): 1. Đặt lại vấn đề tác phẩm: Có thể có tác phẩm văn học hay không? Có thể có một cuốn tiểu thuyết, một kịch bản, một bài thơ được không? Chữ nghĩa có giá trị gì? Đặt lại vấn đề viết (écriture). Viết như thế nào? Lối viết truyện theo trình tự thời gian và có cốt truyện cổ điển; và cả lối viết hiện thực, tả chân kiểu Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng ... đều đã lỗi thời; không đúng với hiện thực, vì mọi sự trong đời không xẩy ra theo tình tự thời gian mà đôi khi đan cài chồng chéo lên nhau; và thường thì chẳng có cái gì "xẩy ra" cả. Tiểu thuyết Bếp lửa của Thanh Tâm Tuyền là một ví dụ về cách viết, cách đặt lại vấn đề viết: trong suốt cuốn tiểu thuyết, chẳng có "sự" gì quan trọng "xẩy ra". 2. Tác phẩm mở: tác phẩm không còn mục đích hướng dẫn người đọc tới một chủ đích như luân lý, đạo đức, triết học, văn chương, xã hội, v.v... nữa. Tác phẩm cũng không cần kết luận; mà trình bầy một biện chứng, một thẩm mỹ của sự dang dở; mở cửa cho những suy nghĩ khác và sẵn sàng chờ đón những nối tiếp về sau (Bếp lửa của Thanh Tâm Tuyền, Tháng giêng cỏ non, Bản chúc thư trên ngọn đỉnh trời của Mai Thảo ...). 3. Tính chất biến đổi của tác phẩm: tác giả không còn là chứng nhân biện hộ (témoin de la défense) kiểu Gide, mà trở thành chứng nhân không thể loại trừ (témoin inéliminable), kiểu Sartre, tức là: chứng nhân nằm trong diễn biến, chao đảo với hoàn cảnh, chịu sự chi phối của các áp lực nội tâm cũng như ngoại cảnh (như nhân vật Tâm trong Bếp lửa của Thanh Tâm Tuyền). 4. Đưa vai trò của nhận thức (perception) vào tác phẩm: Tác phẩm sẽ không khơi gợi cảm xúc để làm mủi lòng độc giả, theo nghĩa lãng mạn; mà tác phẩm gây nỗi đau, gây khó chịu, từ sự nhận thức của người đọc (thơ Thanh Tâm Tuyền). 5. Sự tự trào: Hình thức mỉa mai, châm biếm hiện đại (ironie moderne) kiểu Sartre, Beckett, thay thế lối châm biếm lãng mạn (ironie romantique) kiểu Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng. Dạng thức tự trào này - cay độc hơn vì người viết không ở ngoài để ghi nhận sự kiện mà ở ngay trong cuộc, diễu mình, cười mình - đã ảnh hưởng đến lớp nhà văn mới, phần đông là phụ nữ, ở ngoài nhóm Sáng tạo, như Túy Hồng, Nguyễn Thị Hoàng, Nhã Ca, Trần Thị Ngh,... họ viết rất bạo, nôm na nói như Võ Phiến là họ "chọc quê" chính mình. 6. Tính cách dấn thân của người nghệ sĩ trong sáng tạo và cuộc sống, thể hiện trên hai mặt: - Chính trị: Sáng Tạo quy tụ những "chiến sĩ tự do", chống lại mọi hình thức độc tài, chủ yếu là độc tài cộng sản. - Văn nghệ: Cực lực đổi mới, bài trừ cái cũ: Chống Tự Lực Văn Đoàn, đả kích Vũ Hoàng Chương... Thái độ "chặt đứt" với quá khứ, tính cách "nổi loạn" và những tuyên ngôn thái quá của Sáng Tạo, làm gai mắt những người cựu trào như Nguyễn Hiến Lê (trong Đời viết văn của tôi), Võ Phiến (trong Văn học miền Nam). 7. Thái độ hoài nghi: trên tất cả là hư vô, chẳng có gì hết (Mai Thảo: Bản chúc thư trên ngọn đỉnh trời, Ta thấy hình ta những miếu đền). 8. Dòng mạch siêu thực mở những ngưỡng cửa mới cho sáng tác: đập vỡ bức màn kiểm duyệt của lý trí, của ý thức xã hội, để con người có thể tìm đến bề sâu của tâm hồn, ẩn dấu trong tiềm thức và vô thức; nâng cao vai trò của tưởng tượng; tìm những phương pháp tạo hình mới cho thơ và họa; mở thêm một cánh cửa nữa về phía Tự do. Sáng Tạo đã nắm bắt được những luồng sinh khí mới ấy và trực tiếp đem vào văn học Việt Nam.
Ảnh hưởng siêu thực
Dòng mạch siêu thực đã ảnh hưởng đến thi ca Việt Nam từ thời điểm nào? Từ thập niên 40, qua hai ngả: Miền Bắc, với nhóm Xuân Thu Nhã Tập, chủ yếu thơ Nguyễn Xuân Sanh, với những bài Buồn xưa, Hồn ngàn mùa. Miền Trung qua Trường thơ loạn, với Hàn Mặc Tử, Bích Khê, Chế Lan Viên. 1- Về mặt nội dung tư tưởng: Người làm thơ đã phá vỡ sự kiểm duyệt của lý trí, để thoát ra những hình ảnh "cấm kỵ", dấu sâu trong trong tiềm thức. 2- Về mặt hình thức: Kỹ thuật tạo hình siêu thực đặt cạnh nhau những hình ảnh hoàn toàn khác biệt, thể hiện sự cắt dán, đứt đoạn trong không gian và thời gian, đưa ra cấu trúc mở. Trái ngược với thơ cổ điển, dùng những hình ảnh song song tương đồng hoặc đối xứng, để tạo nên một cấu trúc hoàn chỉnh, khép kín. Ví dụ, câu thơ của Nguyễn Xuân Sanh: "Đáy đĩa mùa đi nhịp hải hà", là một câu thơ mở, đứt, bởi tất cả những yếu tố: đáy điã, mùa, đi, nhịp, hải hà, không có yếu tố nào "ăn nhập" với yếu tố nào. Hoặc: "Đêm giao thừa thế kỷ mưa rơi sao", của Thanh Tâm Tuyền cũng "mở"; tất cả những yếu tố: đêm giao thừa, thế kỷ, mưa rơi, sao, chẳng có gì "liên lạc" với nhau. Cả hai câu thơ trên đều không cho ta một ý niệm gì rõ rệt. Cho nên khi mới ra đời, thơ Nguyễn Xuân Sanh, cũng như thơ Thanh Tâm Tuyền đều bị coi là hũ nút, bí hiểm vì người đọc không hiểu gì cả. Trong khi câu thơ "Mắt em là một dòng sông. Thuyền anh bơi lặng trong dòng mắt em" của Lưu Trọng Lư, là cả một cấu trúc hoàn chỉnh. Mỗi chữ, mỗi ý, liên kết chặt chẽ với nhau: nhà thơ dùng những yếu tố tương đồng để ví von: mắt là một dòng sông; sông gắn bó với thuyền; thuyền bơi trên sông; sông như là mắt. Tuy vậy, thơ Nguyễn Xuân Sanh cũng mới chỉ ở tình trạng "ghép chữ", chưa đi vào thực chất của siêu thực, tức là chưa phóng ra được những hình ảnh kinh hoàng, cất dấu trong tiềm thức. Cùng thời điểm ấy, thơ Hàn Mặc Tử, Bích Khê, Chế Lan Viên, có những câu kinh dị như: "Ta muốn hồn trào ra đầu ngọn bút. Mỗi hồn thơ đều dính não cân ta." (Hàn Mặc Tử) tưởng như đã giải thoát được sự kiểm duyệt của lý trí, gần tinh thần siêu thực hơn, nhưng cái kinh dị ấy, từ ảnh hưởng Edgar Poe, truyền qua Baudelaire, đến Hàn Mặc Tử, bởi Hàn coi Baudelaire là thày. Tựu trung, dù chịu ảnh hưởng của Edgar Poe, Baudelaire, hay siêu thực, những nhà thơ tiền chiến này, vẫn chưa phá vỡ nhịp điệu câu thơ cổ điển, tuy họ có tìm cách phá thể, nhưng thơ của họ vẫn còn gắn bó sâu xa với cấu trúc hình thức cũ.
Phải đến Thanh Tâm Tuyền, thơ mới đạt đến mức độ hoàn toàn tự do trên tinh thần và trong cấu trúc: ảnh hưởng hiện sinh làm nhà thơ nhìn thấu suốt chính mình, ảnh hưởng siêu thực khiến ông phá vỡ những bến bờ cấm cản của lý trí, để đưa ra những câu thơ đớn đau tột độ. Kỹ thuật tạo hình của siêu thực giúp ông hình thành một cách lập ngôn mới, và như thế, Thanh Tâm Tuyền đã nắm bắt được khá toàn diện những trào lưu tư tưởng Tây phương đương thời, để thể hiện trong văn học Việt Nam: ông không dùng vần, mà dùng hình ảnh, màu sắc, âm thanh, để tạo nhịp điệu trong thơ... nghiã là ông đã phá tan những "nội quy" cổ điển về thơ, để sáng tạo một vùng tự do chưa từng có trong thi ca Việt.
Nguyên là chương XII của cuốn Cấu trúc thơ (Văn Nghệ, CA, 1995) Chúng tôi bổ sung và hoàn chỉnh lại tháng 11/2006 và 8/2014
© 1991-1995-2014 Thụy Khuê
|