Thụy Khuê Sóng từ trường II
Tô Thùy Yên, thời gian, tồn tại, cô đơn và đá
Hành giả của cô đơn, Tô Thùy Yên đáp chuyến tốc hành "cánh đồng con ngựa chuyến tầu", năm 56, vào vòng khắc biệt của thời gian, nghiền nát hình hài, đập tan bão tố, giã vụn tâm tư, biến tất cả thành hư vô, trừ đá: Ðá ở lại. Ðá ở lại, trong ánh tàn dư, khiến cho thời gian, đá và con người trở thành tương quan tồn tại.
Ý niệm "chạy đua" lạ lắm. Mà đây không phải là cuộc chạy đua tầm thường giữa phường tục tử. Ðây là cuộc chạy đua giữa ba "kẻ" không phải người, không cùng "giống": Cánh đồng (đất và cỏ) vừa là một tĩnh thể bất biến (đất), vừa là một sinh thể lụi tàn (cỏ). Ngựa thuộc loài tử kiếp (mortel), cố rượt theo con tầu, guồng máy vô tri, vô kiếp. Tô Thùy Yên đã đoạn tuyệt với quá khứ thơ tiền chiến bằng cuộc đua này, một cuộc đua rất cô hồn, siêu thực và có thật. "Chúng" chạy đi đâu? Chạy vào không gian và thời gian, mịt mùng vô tận. Ngựa chạy mau, tầu càng mau hơn. Vận tốc (thời gian) càng gia tăng, cánh đồng (không gian) càng "dãn" ra như thể hai cái biển gian ấy cùng nhập bọn một lúc, điều mà Phạm Duy rất ngại: đừng cho không gian đụng thời gian (Thương Tình Ca). Như thế, ý thức
thời gian gia nhập lãnh phận Tô Thùy Yên ngay từ
đầu, "thời gian" vào thơ như một nhận thức về sự
tồn tại xuyên qua thời gian.
Thời gian đứt quãng là một nhận thức vô cùng sâu, dẫn đến những đớn đau khác: thời gian rũ trắng xương làm nhớ, thời gian mất trí, thời gian gia tốc, thời gian chết xanh, hồn thời gian phất phơ lưới nhện... và trong cái biển thời gian dữ dẵn, tàn khốc ấy, có kẻ đi lục lại thời gian kiếm chính mình, thì quả là cao đạo. * Cùng với Thanh Tâm Tuyền, Tô Thùy Yên
đem ý thức về bản ngã, về
nỗi hoang tưởng của con người vào thi ca những năm 60, với
một phong cách khác.
Ở mỗi tích tắc, Thanh Tâm Tuyền chụp
một bức ảnh và dàn trải chúng bên nhau.
Cách tạo hình siêu thực gắn với ý thức về bản ngã, về sự đứt quãng của thời gian, được Tô Thùy Yên nhào nặn nhuần nhuyễn trong một cấu trúc liên tục: Thời gian đứt quãng dài vô định như sợi dây diều băng mất tăm, lòng anh thảng thốt, sông chao sóng đến đây vẫn là một "chuỗi thơ" hiền lành theo lối cũ, bỗng "kỷ niệm buông tay, rú ngất chìm", từ đâu rớt xuống khiến người đọc thảng thốt, giật mình kịp thấy nỗi hoang mang, hoang tưởng. Trễ rồi. Hắn đã nhập cuộc. Vào cõi thơ Tô Thùy Yên, vào cõi hoang tưởng của chính mình, với những hình ảnh cực kỳ phức loạn: "nằm nghe tóc rụng", "chiều hôm nhìn lửa nhớ tiền thân", "con rạch đen nồng như máu chết", "mắt người sâu vời vợi ẩm hơi chiều", "đất bạc mầu đi, đất bạc mầu". Ði từ những nghiệm sinh về sự tồn tại và thời gian, rất Heidegger ấy, thơ Tô Thùy Yên đớn đau và sâu sắc, ông tạo ra một mẫu cơ đơn hành giả, có khả năng đi ngược thời gian, suốt đời tìm lại chính mình, đằng vân trong một vũ trụ đau thương, ô nhiễm những lừa lọc, tội tù và chết chóc:
Những chuyến đi tuyệt vọng chỉ kéo dài thêm, lâu thêm, nỗi khắc khoải của cô đơn:
Nhưng nói gì, làm gì rồi cũng thế thôi, cũng thừa thôi. Bởi từ lâu, người đãng tử ấy đã biết rằng:
*
Với đá, Ngô Thừa Ân bắt đầu Tây Du Ký, Tôn Ngộ Không là con khỉ đá. Tào Tuyết Cần mở Hồng Lâu Mộng bằng đá, Giả Bảo Ngọc là hậu thân của hòn đá dưới núi Thanh Ngạnh. Luận Ngữ, Tam Tự Kinh... trong Văn Miếu tại Trường An cũng khắc trên bia đá. Rút cục chỉ có đá còn lại. Ðá ở lại. Ðá ở lại sau khi tất cả những ánh tàn dư khác đều đã trôi đi, biến đi:
Ðá là thể xác của vĩnh cửu. Nhưng
đá cũng lại muôn kiếp cô đơn. Ðá không có bạn. Ðá không
nói. Không có thông ngôn. Ðá đợi ngàn năm. Ðá là nỗi đợi
vô tận.
Ý thức về đá làm lạnh thơ, giá băng những câu thơ tha thiết nhất:
Và với lạnh băng ấy, nhà thơ đi vào hành trình ý thức, tìm lại chính mình:
Ở Tô Thùy Yên, còn một con người nữa trong đó chất hành giả, ý niệm quân tử và hào hùng nhào nặn thành một tâm hồn "tráng sĩ" hiện đại. Hình ảnh này rất được quần chúng (di tản) ngưỡng mộ. Giọng thơ quan hoài, biên tái, mang hào khí của người (anh hùng) bại trận, bất khuất. Coi nhẹ tù đầy. Xem thường gian khổ. Kể chuyện mười năm lao cải nhẹ như lông. Bài Ta Về được phổ biến ngay khi Tô Thùy Yên còn ở trong nước như một bài ca ngất ngưởng của người tù cải tạo, cao ngạo trở về, với cái ta khinh mạn và ngạo nghễ:
Nhiều người cho Ta Về, Chiều Trên Phá Tam Giang, Trường Sa Hành... là những bài thơ tiêu biểu Tô Thùy Yên, có lẽ tiêu biểu thơ chính khí, chính luận thì đúng hơn. Bài Ta Về, như có ý tái tạo một chính nghĩa, một chí khí cho người bại trận, xướng lên cái căn cước của miền Nam, tấm lòng "rộng lượng" của người tù lao cải, sẵn sàng tha thứ cho những kẻ đã hành hạ, đầy đọa mình. Nhưng dường như thơ hay không cần chính nghĩa, không cần bầy tỏ. Lão Tử có nói đến tính "vô ích" của các sự xướng danh. Vô danh mới là Ðạo. Ðạo thường ẩn. Ðạo vốn mộc mạc, không có tên. Không có tên nên mới có khả năng biến hóa. Thơ hay không lộ. Mà lại ngại những hình ảnh cliché, sáo mòn như thơ đề vạt áo, niềm đau phế phủ, chốn rừng thiêng, tiếng nghìn thu, truông cùng phá, hóa thân thành vượn... Những nỗi đau thật không hợp với tạng chữ lấp lánh láng diện, như thể đám tang không mặc áo màu. Cho nên những câu thơ như
trong Trường Sa Hành, dù được ca tụng, e rằng chúng
cũng rất xa với nỗi quạnh hiu dù rất lớn của nhà thơ
và của con người.
*
Ở Tô Thùy Yên, cô đơn, hiu quạnh và thất phận âm ỷ dưới những câu thơ khác không viết hoa, khiêm tốn hơn, tinh tế hơn và ít được chú ý hơn. Dường như nỗi đau đã đến với Tô Thùy Yên từ rất sớm, từ những ngày đầu chiến tranh, nỗi đau đời, bắt gặp một đêm qua bắc Vàm Cống:
Ðây là một trong những bài thơ lọt vào người như kẻ trộm như lời Tô Thùy Yên. Chính cái khẽ khàng, cái nhỏ nhẹ ấy mới thấm và đau, nó là những sợi thần kinh của cảm giác. Không hề có những chữ "lớn" mà mối sầu vẫn lớn. Một thời gian gian dối: Ðốt tàn thêm tháng năm. Một trống vắng âm thầm xâm lấn, cô đơn nạo sát hồn người: Khi tôi vuốt lấy mặt, nghe bàn tay trống trơn. Thơ đã tìm được tần sóng của những ngõ vắng, những lối lạc của tâm hồn; thơ mở những cửa kín, phát lộ những nỗi đau dấu sâu trong tim người. Bài Vườn Hạ, lạnh lùng chăng lên phận số con người, những kiếp mỏng manh như những sợi diều, bị bắt làm con tin cho một mẹ mìn thời gian luôn luôn bất trắc phản bội chỉ chờ dịp là quất ngựa truy phong:
Một mối "sầu" mới dấy lên, không phải sầu tiền chiến, sầu lãng mạn Lưu Trọng Lư, Huy Cận. Sầu Tô Thùy Yên mang tính chất nội tại, sầu hiện sinh, sầu sống, sầu hôm nay, sầu tự bản thân lan ra vũ trụ "lòng anh thảng thốt sông chao sóng" khác với sầu hôm qua, "sóng cuộn tràng giang buồn điệp điệp" (Huy Cận) hay "phất phơ hồn của bông hường" (Xuân Diệu). Sầu mới xuất phát từ người, làm chao đảo thiên nhiên, khác với sầu cũ: thiên nhiên gây thương cảm trong lòng người. Ở cõi sầu mới, con người làm chủ tình cảm và tình thế, vũ trụ bị nhân hóa(1) như: Trời cao mỏi mắt chòm mây bạc : trời, mây ở đây là người, chứ không bị ví là người như bông hường của Xuân Diệu. Thăm thẳm trưa thời gian chết xanh, ngoài cõi chói chang hư ảo múa, hàng cây đứng bóng ôm tròn gốc, đất ẩm vương hương cỏ trổ màu...: thời gian, hư ảo, hàng cây, đất, cỏ... đều là người, và người lại biến thành vật ảo, thành bóng ma của chính mình:
Những rung động mới này xuất phát từ
những nghiệm sinh về tồn tại và
thời gian, hợp với cách tạo
hình siêu thực, tạo thành "nỗi đau hôm nay", một nỗi đau
xâm thẳng vào bản thể, dày vò tâm thức, cực kỳ nhức
nhối (khác hẳn với nỗi đau lãng mạn êm dịu thời tiền
chiến), tạo nên những hình ảnh thầm lặng mà vô cùng chua
xót như mùa hè đi khuất kêu không lại, thăm thẳm trưa
thời gian chết xanh, thấy hồn mùa cũ đọng xanh xao...
Nơi Tô Thùy Yên, có tồn tại
nào qua mắt được thời gian?
Tồn tại và
thời gian ẩn kiếp trong nhau: Không biết ai phụ ai?
Ai lấn át ai? Ai chết trước ai?
Hải Phận, một bài thơ nhỏ với mối sầu lớn. Tô Thùy Yên dựng hải phận tình yêu trong hải phận người. Vừa chia cắt, vừa gần gụi như biển và cát, như nước và đá. Ảo tưởng gần xa, hợp tan, sáng tối, tuy một mà hai, giao nhau tạo nên một mối sầu non trẻ luôn luôn bắt đầu, luôn luôn trở lại:
Người lính trong hải phận cũng nhập nhằng, khiêm tốn. Ở đây không có khí hạo nhiên, không có lời hào sảng mà chỉ là những tích tụ đau thương, nhục cảm, tìm đến đối tượng yêu đương như một cõi sống, cõi về, cõi hải đăng sáng diệu:
Paris tháng 10/1998
Chú thích:
© 1987-1998 Thụy Khuê
|