Thụy Khuê Sóng từ trường Mùi đu đủ xanh, Trần Anh Hùng
Ðêm đã khuya. Tiếng dồn dập gõ cửa
của một bé gái trước ngôi nhà cổ kính phá vỡ bản hòa
ca rỉ rả của côn trùng trong giây lát. Rồi vài lời đối
thoại ngắn gọn. Rồi tất cả những tiếng nói chìm đi,
tiếng đàn chìm đi, chỉ còn lại bầu không khí tịch lặng
của đêm khuya, của những nét mặt và những chiếc bóng thầm
lặng ...
Trong những phim về Việt Nam xuất hiện gần đây ở Pháp, không thiếu những phim hay. Mức độ hay tùy theo cách đánh giá của mỗi người: hay kiểu phiêu lưu, tiểu thuyết, nhuốm sắc cải lương như Indochine. Hay vì bật ra sức chịu đựng tối đa của con người trong cực điểm của chiến tranh như Ðiện Biên Phủ. Hoặc hay vì tính cách đặt vấn đề trực tiếp: trong tình yêu, thể xác làm chủ, thể xác đi trước tâm linh như L'Amant (Người Tình). Những giá trị điện ảnh ấy được các tầng lớp khán giả yêu chuộng theo nhịp độ và trình độ khác nhau, nhưng tựu trung đều đặt nền trên thể động của Tây phương. Từ tình tiết éo le trong Indochine, đến sự cung cấp dư giả xương máu, sinh mạng con người cho chiến tranh Ðiện Biên Phủ, hay động tác chủ lực của thể xác trong tình yêu L'Amant..., tất cả mọi diễn biến dù được quay trên đất Việt, nhưng quan niệm đạo diễn ở thể động. Nói khác đi, đạo diễn dùng hành động (action), ngôn ngữ, âm thanh làm giá trị căn bản cho tác phẩm. Ðó là một lối nhìn rất Tây phương, tuy lấy bối cảnh Việt nhưng không có "không khí" Việt. Phải tới Trần Anh Hùng với Mùi Ðu Ðủ Xanh, quay trên đất Pháp, ở phim trường Bry sur Marne (vì thiếu phương tiện tài chính) mới thấy xuất hiện tâm hồn Ðông phương:
Trần Anh Hùng diễn tả những thầm lặng ấy bằng caméra trực chỉ. Caméra là nguồn sống, là sinh lực của cuốn phim. Cho nên, nếu muốn nói đến một kỹ thuật trong nghệ thuật điện ảnh, tôi cho rằng bí quyết của Trần Anh Hùng nằm ở đôi mắt caméra. Chính đôi mắt ấy đã làm cho khán giả ngửi thấy mùi lá cây, hoa cỏ, mùi mưa, mùi đu đủ... và cả mùi khổ đau của con người. Chính đôi mắt caméra ấy đã chiếu vào nội tâm của sự vật, của các vấn đề: từ hạt sương mai, giọt nhựa đu đủ, qua những con kiến, con cóc, con ễnh ương... đến những giọt nước mưa long lanh trên lá. "Ðôi mắt" Trần Anh Hùng đã dùng cận ảnh (gros plan) như những ẩn dụ để nói lên sức ép nội tâm: Ðàn kiến ngoi ngoai thoi thóp trong đống sáp nến khêu lên tâm trạng khốc liệt của đứa bé vị thành niên, muốn phá phách, muốn tận diệt những bất công xã hội mà mẹ nó suốt đời phải chịu bằng cách đổ những bạo động lên đầu "con kiến". Rồi đôi mắt long lanh như hai vì sao của đứa bé gái, chiếu hậu vào mặt trái cuộc đời. Cảm giác trườn trượt của những con ễnh ương, trong vũng lầy ẩm ướt, ẩn giấu khát vọng dục tình trong đêm khuya. Tác phẩm dựa trên ba điểm mạnh:
Hai yếu tố đầu tùy thuộc đạo diễn
vì các tài tử, phần lớn là những diễn viên không chuyên
nghiệp, trừ nghệ sĩ Nguyễn Anh Hoa từ Việt Nam sang.
Cũng cần nói rằng: Tác phẩm đã được thực hiện với những người Việt mà phần lớn sinh trưởng ở Pháp, -từ đạo diễn đến diễn viên-, hoặc rời nước đã lâu, từ năm 13 tuổi như Trần Anh Hùng. Nhưng tất cả hầu như đã trút bỏ khía cạnh phương Tây thường ngày của họ, để bước vào tâm cảm Việt, trong 1 giờ 40 phút. Khoảnh khắc ngắn ngủi ấy đã ghi vào tâm khảm người xem những ấn tượng sâu đậm lâu dài. Paris 9-6-1993
------------------
© 1991-1998 Thụy Khuê
|