Thụy Khuê Sóng từ trường
Từ tình Epphen,
Lê Ðạt trong tập Ngó Lời có bài May Sau
Bài thơ buồn, thật buồn, vậy mà vẫn
lóe lên những tia vui, nhờ một chữ may gieo hi vọng: Chữ
may ấy, trượt nghĩa từ một may khác, i ngắn, chữ mai.
Và mai sau lại dẫn đến dù có bao giờ, đến
ba
trăm năm sau, đến những niềm hi vọng không tên, đến
những điểm hẹn và người hẹn trong tương lai, trong vô thức
của lòng mong, nỗi nhớ. Từ Tình Epphen nằm trong vô
thức ấy như nỗi u hoài ngủ quên trong rừng mộng, bất ngờ
tỉnh giấc khi nhà thơ tiếp xúc với xương thịt của một
thành phố lạ, với những thùy lệ của lá, những úa vàng
của tuổi tác, với mầu lưu ly trong biển biếc Ðịa Trung,
thì những cảm xúc thức dậy từ và bỗng ngộ
tình biến thành từ tình giáng sinh gửi cho những điểm
hẹn: Hẹn với cây, hẹn với lá, hẹn với métro, với quá
khứ... hẹn với biển, hẹn với người xưa, với hoa, với
tháp, hẹn với hẹn hò, với chia biệt, hẹn với kiếp này
và với cả kiếp sau.
*
Ở Từ Tình Epphen, nỗi nhớ là chủ thể. Nhớ không phân chia địa danh địa hình, ngữ ngôn Pháp Việt mà có khả năng hòa hợp địa từ với thảo mộc, lịch sử với con người. Những prô văng xơ vàng, những vec say em, những má tri a nông... mỗi tên riêng đã trở thành một đốm lửa nhớ thương, một nốt nhạc quá khứ ngân lên trong ký ức, một hình hài liêu trai ẩn hiện, rồi tan loãng trong những ngã ba tình theo động mạch lan ra khắp cơ thể, rồi lại theo tĩnh mạch trở về tim với mùa phong ứ đỏ, với lá rỏ hồng thu, với tháp bạc tóc bất thường, với biên ngân hà, với lá cách âm... Mỗi gặp gỡ là một phục sinh. Mỗi chia tay mang mầu tử biệt. Sinh biệt là định mệnh chênh vênh của kiếp người, nhưng làm sao có thể đi trên định mệnh? Làm sao tìm được cách hội tụ những phân kỳ trong khoảnh khắc để vĩnh cửu hóa cho ngàn sau? Ai nắm bắt được đối tượng cụ
thể của thơ? Ðối tượng của thi ca, của nghệ thuật luôn
luôn biến đổi không cùng, nó ú tim trong bóng câu, bóng chữ.
Platane, Odéon, Eiffel, La Joconde... những chiếc bóng ấy hôm
nay biết đâu chẳng là ảo ảnh của bóng chiếc hôm qua mà
người thơ muốn chụp bắt và giữ lại cho ngàn sau? Ðể
những ngõ tim đau, những mắt âu xanh, những mi
mơ da... mai đây, nếu chúng đậu lại ở gấu áo một
kiếp nào, ấy là cơ may của khoảnh khắc chữ. Lê Ðạt chưa
một lần tuyệt vọng cơ may này, niềm tin mong manh mà bất
chấp.
*
Lê Ðạt dị ứng đất lãng mạn. Lãng mạn của những anh anh, em em, của những nhớ thương sầu muộn. Ông đem thơ ra khỏi cõi buồn ướt, của những giọt mưa thu Ðặng Thế Phong, của những biệt ly Doãn Mẫn, của những Tô Vũ em đến thăm anh một chiều mưa...
Ở đây, người thơ vô hình không quét lá vàng, mà quét úa. Bởi quét lá chỉ là một thực cảnh mang tính cách giới hạn. Quét úa là một phôi pha, mộng ảo, bất tận và khôn nguôi. Ðất thu của Lê Ðạt khô, vàng, úa... hơn xưa. Ứ đỏ hơn, rực lửa hơn và cũng đau hơn xưa. Nhà thơ xe nỗi nhớ, niêm phong lại, rồi quên đi. (Liệu có quên được không?)
Một chữ xe ẩn bóng bao nhiêu xe, se khác. Mà thế nào đi nữa cũng tiềm nghĩa vận chuyển, thiên di; khiến cho dù có khóa, có giam, có thắt lại, nỗi nhớ vẫn lẽo đẽo, vẫn đèo bòng... Nó âm ỉ rỏ hồng, nó lỡ tay làm vỡ... một khoảng trời thu nào đó ô đê ông. Ở đây, những cái tôi hiện thực đã biến đi, đã đổi ngôi cho những thực thể chưa biết như tim và nhớ, những yếu tố không nắm bắt được của con người.
Thành quách năm nghìn: một địa chỉ mênh mông, không chỗ trọ cho một mùa tim, cho một phận bạc đá hồng:
*
Từ tình trong bóng chữ là một ngó lời đi xa trong nghệ thuật xé chữ để nhập tâm chữ, biến những địa danh thành địa chỉ của nỗi buồn. Từ tình phiêu lưu trong biển buồn thiên thanh, vô tận. Nỗi buồn thi nhân trải thời gian đã sống kiếp ba chìm bẩy nổi. Từ tiếng quạ kêu chẳng bao giờ nữa ở Edgar Poe, người tình đầu của nỗi buồn, phát xuất nguồn spleen buồn âm thế. Ðến Baudelaire chuyển gam sang buồn nhục cảm. Rồi Mallarmé, một hành khất buồn. Huy Cận xưa có mối sầu nhân thế. Hồ Dzếnh thả tiếng buồn vang lên mây. Ở Lê Ðạt là mầu buồn: của những úa nhớ vàng hoe, của những bạc mầu rừng, của những hồi ký lá vàng, của cốt xanh chiều nắng tiếc.... Dường như Lê Ðạt tìm đến Côte d'Azur, đến Provence, như những địa chỉ, những quê hương của nỗi buồn. Như để gặp nỗi nhớ thiên thanh, thiên cổ đích thực trong mầu xanh Ðịa Trung Hải, như để trò chuyện với những ám ảnh Azur, với mầu ngọc lưu ly (pierre d'azur) trong Hạ Buồn (Tristesse d'été), một câu thơ Mallarmé đã trót xé ngọc làm đôi thành thiên thanh và đá: "L'insensibilité de l'azur et des pierres" (vô cảm của thiên thanh và của đá). Nhà thơ tìm đến địa chỉ Azur, quê hương xanh để tìm mầu xanh cho mắt: mắt trường xanh, mắt chữ thiên thanh, mắt âu xanh, mắt Xen xanh... và cũng để vay xanh:
Dưới những con chữ đa mang, chiếc tháp thép lạnh bỗng nồng đậm hơi người và thác sinh kiếp tượng tình di động, cứ gì hoa mới liêu trai? Truyền thống đề thơ lâu đời của phương đông qua Lê Ðạt bỗng khác lạ hợp sắc Tây phương và thăm thẳm hiện đại. Từ tình cũng là chuyện duyên nợ, nợ nhau, nợ trời, nợ đời này và nợ cả đời sau:
Khối nợ sừng sững một Tô Thị thu không có tuổi:
*
Từ tình, trong dòng tạo sinh của
Lê Ðạt giữ khoảng cách giữa những đối tượng cụ thể
để đi tới một không gian suy tưởng, không gian ảo với
những tố nhân chưa biết. Tác nhân chính là tình yêu, nhưng
tình yêu đâu chỉ là sở hữu của con người? Ở đây một
thành phố không chỉ là thành phố Prô văng xơ vàng ủ nắng
mãi pla tan. Một con đường không hẳn là một con đường
Xa
lộ thu thương ứa đổ tắc đường
Tất cả đều vô chủ. Cái tôi chủ thể
đã biến mất, người hóa thân trong lá, đá, trong thu, trong
pla tan, trong biển... để tìm về cõi tim, cõi nhớ.
Hình như thiền sư và nhà thơ tạo sinh cùng tìm vô ngã. Nhưng thiền sư tìm vô ngã như một điểm đến, còn nhà thơ như một điểm đi. Nhà thơ hư không mình tiêu dao du bạt ngàn vỏ từ phơi bãi nhớ lắng nghe hồi ký lá vàng nghìn kiếp phù sinh; gửi gắm chữ, thả những chiếc chai thư lênh đênh trong biển thời gian vô định. Từ tình của Lê Ðạt viễn dương những cảng mới của kỷ niệm, của tuổi tác, của âm dương, của chia ly và tái ngộ.
Chúng ta biết gì về nỗi khắc khoải của đá, của lá, của biển, của lửa, của sưởi, của tâm...? Nhà thơ chắc cũng chẳng biết gì hơn chúng ta. Nhưng nhà thơ có khả năng hóa thân trong tạo vật và luôn tìm mở kênh phát sóng giao cảm với con người qua những rì rầm, những im lặng của rừng phong, của lá úa, của giáng sinh, của biển biếc... trong hò hẹn rất xưa và hoài vọng rất sau. Paris, tháng 12-1997
Lời bạt tập Từ Tình Epphen * La nostalgie n'est plus ce qu'elle était (tên sách của Simone
Signoret)
© 1991-1998 Thụy Khuê
|