Thụy Khuê Sóng từ trường II
Nguyên Sa (1932-1998)
Những năm 54-60, miền Nam chào cờ phải hát bài Suy Tôn Ngô Tổng Thống, miền Bắc phải học thơ Bác Hồ, thì ở sân trường miền Nam, học trò tình tự với nhau bằng thơ Nguyên Sa. Cái khác nhau giữa nhà nước và nhà thơ là ở chỗ ấy: Một bên, người ta phải hát, phải học. Một bên khơi khơi đi vào lòng người, không thông hành, không gõ cửa và khi đã đột nhập vào rồi thì dù có tẩy não nó cũng chẳng đi. Áo Lụa Hà Ðông, Cần Thiết, Tuổi Mười Ba, Paris Có Gì Lạ Không Em... những bài thơ Nguyên Sa đã đi vào giới trẻ miền Nam những năm 60 và ở lại trong lòng người như thế:
Nguyên Sa thuộc lớp người muốn canh
tân văn học. Cuối thập niên 50, ở Pháp về, hành trang nặng
gánh Sartre, Camus, ông dạy triết học trong những lớp luyện
thi tú tài, thời ấy gọi là cua riêng. Cua riêng của
thầy Trần Bích Lan lúc nào cũng đông nghẹt học trò. Triết
học, nơi ông, là triết học xuống đường, thực dụng, triết
học bình dân, dễ hiểu, hợp với tạng học trò. Trong lớp,
dù là giờ Tâm lý, Ðạo đức hay Triết học hiện sinh, học
trò không thể ngủ gật vì những bản thể, những siêu hình,
những hư vô, những phương pháp luận... lọc qua lăng kính
Trần Bích Lan, đã trở thành những tiếng cười châm biếm
Tú Xương... những câu hát đối hóm hỉnh Cầu Lim, Nội Duệ...,
Trần Bích Lan đến với tuổi trẻ qua ngả học đường bằng
hình ảnh người thầy Tây học, hiện sinh, tài hoa và thơ
mộng.
Rồi Thơ Nguyên Sa ra đời. Ra đời trong bối cảnh Mai Thảo giã từ Hà Nội, Vũ Thành mơ giấc mơ hồi hương, Thanh Tâm Tuyền không còn cô độc, Cung Trầm Tưởng, Phạm Duy hát tiễn em giữa mùa thu Paris. Vũ Khắc Khoan mộng thấy thần tháp rùa. Nhật Tiến bước vào thềm hoang. Vũ Bằng nhớ miếng ngon Hà Nội. Bình Nguyên Lộc ký thác cho đò dọc. Võ Phiến viết chữ tình. Nguyễn Văn Trung đang nhận định, Vũ Hoàng Chương mang tâm sự kẻ sang Tần. Ðinh Hùng lạc trong mê hồn ca... Hồi ấy, như Nguyên Sa kêu gọi: Chúng ta -tức là những người bạn của ông- không hô hào đổi mới suông. "Chúng ta" phải đánh đổ những người đi trước bằng tác phẩm văn học. "Chúng tôi" muốn đổi mới văn học, tác phẩm của chúng tôi đây, các anh đọc xem có được không? Trước những xông xáo xuống đường của Sáng Tạo, Nhất Linh lên suối Ða Mê tu tiên, Vũ Hoàng Chương khề khà Kinh Kha hề Kinh Kha và Ðinh Hùng miệt mài trên đường vào tình sử, Nguyên Sa hóm hỉnh ném vào sân trường trung và đại học, những hình ảnh bất ngờ:
Và học trò yêu ngay, chấp nhận ngay.
Họ dấu thơ Nguyên Sa trong áo, họ tán nhau bằng thơ Nguyên
Sa. Nhưng học sinh, sinh viên không phải là một giai cấp. Ðời
sinh viên chỉ có một thời. Ðời sinh viên sẽ chấm dứt
như tuổi trẻ. Vậy mà thơ Nguyên Sa ở lại. Tại sao? Bởi
vì nó đã tạo được một mốc thời đại.
Nguyên Sa không đổi mới vần điệu. Cũng không làm thơ tự do. Ông vẫn dùng vần điệu của thơ tiền chiến. Thơ ông cũng không sâu sắc gì, ông nói trực tiếp, không ngụ ý hàm ngôn. Ông trải ẩn dụ ra để chúng trở về với thực tế so sánh, đơn giản và dễ hiểu như nói với học trò. Tóm lại, ông đi thẳng vào câu chuyện yêu đương, ở chỗ con trai còn rụt rè chưa dám tán, ông nói phắt hộ:
Cái tình ở đây là tình học trò, bồ bịch, Tây gọi là copain, copine, hơn là tình yêu da diết, say đắm, "trưởng thành" trong thơ Xuân Diệu, Hàn Mạc Tử... Thơ Nguyên Sa dò dẫm, vụng về như tuổi trẻ vào đời:
Nhưng thơ Nguyên Sa cần thiết và trực tiếp cho thời mới lớn. Cần thiết và trực tiếp cho giai đoạn đổi mới. Cần thiết vì ở một thời điểm
mới, nếu muốn hạ bệ quá khứ tiền chiến của các bậc
đàn anh, không lẽ lại vẫn nhai đi nhai lại một hình ảnh
người em sầu mộng của Lưu
Trọng Lư đã cũ mèm. Mà phải tạo ra một nàng thơ mới,
mốt hơn, điệu hơn. Nàng thơ này không thể tìm thấy trong
"Liên, đêm mặt trời tìm thấy"
của Thanh Tâm Tuyền với những ý thức chạy ngược trong
tiềm thức hoang loạn, học trò không hiểu gì cả.
Nguyên Sa đã tạo được một mẫu người em lý tưởng: người em Bắc Kỳ tóc ngắn, mặc áo lụa Hà Ðông và người em này đã tức khắc thay thế người em ngồi bên cửa sổ của Lưu Trọng Lư trong tư thế văn học và trong lòng người. Em bây giờ -tức là em những năm 60- phải là em Bắc kỳ di cư. Sau này Nguyễn Tất Nhiên có cóp lại mẫu người em của Nguyên Sa, nhưng hơi muộn. Thời Nguyễn Tất Nhiên, các "em Bắc kỳ di cư" tóc đã điểm sương rồi. Văn học hải ngoại chưa có "người em". Chả biết "người em Linda mặt ngang" của Ðỗ Kh. rồi có trở thành "người em hải ngoại" chăng? Sự thành công của mẫu hình người em tóc ngắn, áo lụa Hà Ðông, buồn như con chó đói, như con mèo ngái ngủ của Nguyên Sa không phải là chuyện đùa, nó phản ánh tính cách áp đảo của văn học di cư ở miền Nam, những năm chia đôi đất nước. Người Bắc di cư, mang theo mỗi người một hình ảnh Hà Nội trong lòng, vào hội họa, thi ca, tiểu thuyết... Những tên tuổi như Nguyễn Gia Trí, Tạ Tỵ, Thái Tuấn, Mai Thảo, Thanh Tâm Tuyền, Doãn Quốc Sỹ, Nhật Tiến, Mặc Ðỗ, Mặc Thu, Vũ Khắc Khoan, Vũ Hoàng Chương, Ðinh Hùng, Cung Trầm Tưởng... thời 54-60 vẫn còn chưa rũ được hơi hướng Hà Nội của họ. Duy nhất, có Phạm Duy, và cùng lắm Phạm Ðình Chương, vượt trên tính địa phương, làng xóm để tìm đến với tất cả mọi miền, ngay trong những ngày đầu của thời kỳ chia đôi đất nước bằng Tình Ca, Tình Hoài Hương, Con Ðường Cái Quan, Mẹ Việt Nam, Hội Trùng Dương... Cho nên, sự thành công của Nguyên Sa
là đã vẽ được một người em mới, điển hình cho
một thế hệ tình yêu mới, một giai đoạn văn hóa tư tưởng
mới.
Sau này khi sang Mỹ, Nguyên Sa cho xuất bản tập Thơ Nguyên Sa II, mượt mà hơn, đầy nhục cảm và đớn đau hơn:
Nhưng thơ ông không còn được mọi người
chú ý đến nữa. Thơ ông đã trở thành cổ điển.
Ngày trước ông mở đường, bây giờ ông đoạn hậu. Ðoạn
hậu cho một giai đoạn khó khăn, giai đoạn mà những người
cũ đã lần lượt ra đi và lớp người mới chưa thật sự
thành hình.
*
Nguyên Sa, một bông hồng cho
văn nghệ
Những suy tưởng về sáng tạo, về sự hình thành một tác phẩm nghệ thuật, về khái niệm thẩm mỹ học... ít thấy xuất hiện trong văn học Việt Nam. Có lẽ đó là lý do khiến Nguyên Sa viết Một Bông Hồng Cho Văn Nghệ năm 1967. Ðây là một trong những tác phẩm hiếm hoi có tính cách triết học thực dụng trong đời sống tư tưởng và văn nghệ. Một Bông Hồng Cho Văn Nghệ đối với Nguyên Sa tương tự như Viết Và Ðọc Tiểu Thuyết đối với Nhất Linh. Cả hai đều tóm lược những kinh nghiệm và suy tưởng của người cầm bút, sau một thời kỳ sống và sáng tác. Nhất Linh chủ yếu nghiêng về kỹ
thuật xây dựng tiểu thuyết mà Thạch Lam đã có lần đề
cập đến trong Xuôi Dòng; Nguyên Sa mổ xẻ vấn đề
suy tưởng trong sáng tác nghệ thuật. Nguyên Sa đi từ:
1- tình cảnh nhà văn Việt Nam những năm
năm mươi, sáu mươi, để 2-
tìm chỗ đứng của văn học nghệ thuật Việt Nam trong tình
thế hiện đại, để 3- bầy
tỏ về sự giàu có và nghèo nàn của văn học nghệ thuật
ta, để 4- đào sâu nỗi cần
thiết suy tưởng về nghệ thuật, ngõ hầu 5-
nhìn kỹ về ý thức và nghệ thuật, và 6-
sự sáng tạo đề tài về 7-
khái niệm thẩm mỹ học.
Những suy nghiệm đó bắt nguồn từ nhận thức về sự cô đơn. Sự cô đơn của thế hệ năm mươi, sáu mươi, thế hệ Nguyên Sa, mà ông gọi là "sự cô đơn của thế hệ không có đàn anh". Ðây không phải là sự cô đơn trừu tượng, nhập tâm nhập tủy của người cầm bút trước trang giấy trắng mà các triết gia chuyên nghiệp hay bàn đến. Ðây là cái cô đơn hiện thực, sờ mó được, những thiếu vắng, mất mát, ly tán, kiệt quệ của thế hệ làm văn nghệ sau ngày chia đôi đất nước. Nguyên Sa viết:
Người đi sau, không có người đi trước để cản đường. Nguyên Sa đã nhận thấy sự trống rỗng ấy rất sớm. Trước những bài báo đả kích Tự Lực Văn Ðoàn, Nhất Linh không nói gì. Ðinh Hùng, Vũ Hoàng Chương im lặng. Lớp đàn anh còn lại, đây một người, kia một người, đã "không hợp thành một lớp người" để đòi hỏi "chúng tôi" phải tận lực chống, phải vượt qua hay xin gia nhập họ. "Chúng tôi" đã phải "múa gậy trong khoảng không", đã phải "đối thoại với chính mình", phản kháng chính mình, không biết là mình đã tìm ra được "những miếng võ ghê gớm" hay là chỉ "múa may hỗn loạn". Thế hệ năm mươi, sáu mươi, ngoài
cái cô đơn siêu hình của người cầm bút còn thêm cái cô
đơn hiện thực của một dân tộc nghèo đói, ly tán chiến
tranh. "Nhà văn, nhà thơ chỉ có số phận
mà dân tộc nó có".
Những trống rỗng mà Nguyên Sa nhận
thấy ở thế hệ ông vẫn còn kéo dài cho đến bây giờ.
Nỗi cô đơn này, người cầm bút hiện nay ở trong cũng như
ngoài nước, đều gặp phải, như một cái rớp. Thế hệ
nhà văn hôm nay vẫn đứng trước một trống vắng, một thực
tại không có đàn anh hoặc đàn anh còn sống mà kể như không
có, họ không còn là một lực lượng văn học đáng kể,
không còn là những lực cản đường để kẻ đi sau có thể
phản kháng, đạp đổ mà xông tới những cái khác, hoặc
cổ võ họ để xin gia nhập họ. Ðàn anh của thế hệ hôm
nay cũng bị dập vùi trong trận chiến rồi trong hòa bình di
tản, trong những chiến dịch luân lưu trói, cởi, cởi, trói
văn nghệ.
Bởi đúng như lời Nguyên Sa viết, nhà văn, nhà thơ chỉ có chỗ đứng mà dân tộc nó có (trang 37), chỗ đứng của một dân tộc nhược tiểu, nghèo đói, chiến tranh, tan rã. Ở thời Nguyên Sa viết Một Bông Hồng Cho Văn Nghệ mọi người xôn xao hỏi nhau: Sách của ai sắp được dịch sang tiếng Anh, tiếng Pháp? Nghe nói người này sắp được dịch, người kia sắp được dịch? Nhưng rồi cuối cùng vẫn trơ ra một vài tên sách, một vài địa chỉ xuất bản. Nghe nói Nhất Linh, nghe nói Vũ Hoàng Chương... sắp được dịch nhưng không thấy, không chắc gì cả. Kiều và Chinh Phụ Ngâm có được dịch ra Pháp ngữ với tư cách tài liệu sưu tầm. Nguyên Sa viết:
Nếu chúng ta nhìn rộng ra đến những
cuộc hội thảo quốc tế Việt học, chúng vẫn xẩy ra bằng
tiếng Pháp, tiếng Anh một cách tự nhiên mà người được
mời cũng như người tổ chức không thấy một trở ngại
gì. Người duy nhất phản đối việc tiếng Việt không được
sử dụng ở các hội nghị quốc tế Việt học hiện nay là
giáo sư Nguyễn Văn Trung, còn tất thẩy giới trí thức Việt
Nam, trong cũng như ngoài nước, tham dự hội nghị đều mũ
ni che tai, hồ hỡi chấp nhận mà không thấy có ý kiến phản
đối nào cụ thể (1).
Từ nhận thức Nguyễn Du phải có chỗ
đứng bên cạnh Shakespeare, Dante, Hugo, Nguyên Sa nói đến "ý
thức tìm hiểu sự thất bại" và ông phân tích những cái
nghèo nàn trong văn học nghệ thuật Việt Nam. Theo ông, cái
nghèo khổ thứ nhất của văn học Việt Nam là sự thiếu
suy tưởng quy mô về nghệ thuật, thiếu quan điểm về
nghệ thuật, về bản chất nghệ thuật, bản chất sáng tác.
Nguyễn Du đã nghĩ đến sự tương phản gay go giữa Tự Do và Ðịnh Mệnh, đến ba trăm năm sau, đến tính chất "mua vui" của nghệ thuật. Tản Ðà đã nghĩ đến đời đáng chán hay không đáng chán. Nguyễn Công Trứ đã nghĩ đến chí nam nhi. Nguyễn Gia Thiều, Xuân Hương đã nghĩ đến thân phận của người phụ nữ, Ðặng Trần Côn đến hậu quả của chiến tranh. Khái Hưng, Nhất Linh về xã hội Việt Nam đầu thế kỷ XX... Tất cả những tác giả lớn của ta đều đã có những suy tưởng về nghệ thuật, về nhân sinh nhưng chưa có ai hệ thống hóa những ý thức đó thành những lý thuyết cơ bản về nghệ thuật để những người đi sau có thể dùng được như ta dùng Sartre, Camus, Blanchot hay Breton, để những người đi sau biết được yếu tính của cái đã có, biết cái mình đã có, rõ hơn, là một cách để đừng đi lại lối mòn, để vượt qua hay để làm một cái gì khác họ. Chẳng hạn nếu chúng ta nắm rõ bản
chất cái gọi là thơ mới, thì có lẽ bây giờ chúng ta đã
vượt xa nó từ lâu, để lập ra những cái khác nó, chưa
chắc là đã hay hơn nó, nhưng chắc chắn phải khác nó.
Nếu nói đến một chúc thư văn học của người mới ra đi, thì chúc thư của Nguyên Sa nằm ở những dòng sau đây:
Paris, tháng 5/1998
Chú thích:
© 1995-2001 Thụy Khuê
|