Thụy Khuê
Sóng từ trường II
Tính văn chương trong tác phẩm
văn học
Một câu hỏi mà người đọc thường
hay đặt ra cho người phê bình: Viết phê bình như thế nào?
Theo quan niệm nào? Trường phái nào? Phê bình cũ hay phê bình
mới? Chủ nghĩa nào? Trào lưu nào? Trước hiện đại, hiện
đại hay sau hiện đại? Tôi nghĩ không nên đặt vấn đề
như thế. Tại sao? Bởi vì mọi quan niệm, mọi trường phái,
... đều có cái hay cái dở của nó. Ðều có những điểm
dùng được và những chỗ không thể nhắm mắt theo liều.
Ví dụ quan niệm độc tôn văn bản của phê bình mới: Chỉ
dựa trên văn bản mà không cần biết đến tác giả, coi như
tác giả "đã chết", một thời được tôn sùng nay cũng
đã "lỗi thời". Với những tác gia như Kafka, như Proust
hoặc những nhà văn trong nhóm Nhân Văn Giai Phẩm như Hoàng
Cầm, Trần Dần, Lê Ðạt, Ðặng Ðình Hưng... hoặc trong nhóm
"Xét lại chống đảng" như Bùi Ngọc Tấn, Vũ Thư Hiên...
người phê bình không thể "lờ đi" hoặc không biết gì đến
cuộc đời tác giả khi nhận định tác phẩm của họ. Bởi
bệnh tật hoặc bi kịch cuộc đời họ gắn liền với tác
phẩm. Sự độc nhất hóa một quan niệm phê bình, dù cũ,
dù mới, đều đưa đến những kết quả cực đoan, một chiều,
đôi khi tai hại. Nếu tất cả mọi nguồn thông tin đều tốt
cho con người, thì tất cả mọi trường phái, khuynh hướng
đều có chỗ đứng trong lòng một tác phẩm phê bình. Chúng
ta sẽ trở lại vấn đề này trong một dịp khác.
Ðối với tôi, phê bình là một sản
phẩm cá nhân phi trường phái. Như những sản phẩm cá nhân
khác, nó có thể chịu ảnh hưởng của môi trường, của
thời đại, của các trường phái này hay trường phái khác...
nhưng sự lệ thuộc đó dứt khoát không thể là chủ yếu
mà chủ yếu là người phê bình -cũng như người sáng tác-
phải vượt trên, vượt qua mức chủ quan của thời đại,
của trường phái, chủ nghĩa để tìm đến một cái gì vững
bền hơn có thể trụ lại khi mọi thời đại, mọi trường
phái đã qua đi. Sự vững bền đó nằm ở sức cảm thông
và mức thẩm thấu giữa tác phẩm văn học và người đọc.
Ðó là ma lực của mỗi chữ, mỗi ý, mỗi âm trong tác phẩm,
đó là tính văn chương, tính văn chương của một tác phẩm
văn học nói riêng và tính nghệ thuật của một tác phẩm
nghệ thuật nói chung.
Như con người, văn chương có hai diện
mạo: thể xác và tinh thần.
Thể xác văn bản là bộ mặt "nhìn
thấy" của chữ nghĩa. Ðể giải thích bộ mặt này, người
phê bình có thể dùng đến những luận thuyết, thuộc địa
hạt lý trí như hình thức luận, cấu trúc luận, phá cấu
trúc, ký hiệu học, ngôn ngỡ học v.v... đó là những kiến
thức "kỹ thuật" của một thời, của nhiều thời.
Còn về bộ mặt tinh thần của văn
bản, của tác phẩm nghệ thuật, thì khó có thể dùng "kỹ
thuật" để giải thích. Nó như trái tim con người, là phần
tình cảm và lương tri của tác phẩm, thoát thai từ "thể
xác chữ nghĩa", có khả năng giao thoa với người đọc, người
thưởng lãm; chính nó là cái "hay", cái "cảm", cái "xúc" mà
người đọc nhận được nhưng đôi khi không biết tại sao.
Ðể viết về một địa hạt tâm huyết tâm linh như thế,
người phê bình cũng phải vận dụng tâm huyết tâm linh của
mình, phần riêng tư nhất, phần cốt yếu nhất, lòng dạ
nhất. Ðó là sự gặp gỡ giữa hai trái tim: trái tim tác phẩm
và trái tim người phê bình. Từ sự gặp gỡ này thụ thai
một tác phẩm mới: Văn bản phê bình.
Như tất cả các văn bản khác, văn
bản phê bình có thể què quặt, đui mù, mà cũng có thể toàn
bích; nó có thể khô khan, thuần lý trí, như các luận thuyết,
lập thuyết, cũng có thể sướt mướt hoặc cằn cỗi như
các trào lưu đã sống dậy chết đi của một thời...
Nhưng giá trị đích thực -nếu có-
của văn bản phê bình nằm trong tư cách cá nhân, ở cái bản
lai -dị biệt- của nó đối với những tác phẩm khác. Ở
điểm này, phê bình hoàn toàn giống một tác phẩm văn chương:
giá trị văn bản cũng nằm trong tính văn chương với hai yếu
tố cảm thông và thẩm thấu người đọc.
*
Người phê bình có nhiệm vụ kép:
Tìm
hiểu và trình bày tính cảm thông và thẩm thấu của một
tác phẩm bằng một văn bản có tính văn chương.
Vậy tính văn chương hay sức
cảm thông và thẩm thấu của một tác phẩm văn học
là gì? Chắc chắn không phải là bình dân hay bán chạy
(best seller). Một kiệt tác có thể bình dân như Truyện Kiều.
Nhưng không phải cuốn sách bình dân nào cũng là kiệt tác.
Một cuốn tiểu thuyết có thể rất bình dân (được nhiều
người ưa thích) nhưng không có chất cảm thông và thẩm thấu.
Ví dụ tiểu thuyết trinh thám. Ở loại truyện này, người
đọc không tìm thấy "người" mà chỉ tìm thấy những sản
phẩm "trên người" (siêu nhân như OSS117) hoặc những sản
phẩm "dưới người" (trộm cướp, côn đồ dã man, tàn ác).
Ở một chừng mức khác tiểu thuyết tuyên truyền cho một
chủ nghĩa hay chính nghĩa, người đọc cũng chỉ gặp hai loại:
ta (cao cả, phụng sự tổ quốc,...) và địch (phản động,
dã man, bán nước...) vẫn là những cực ngoại khổ, trên
người hoặc dưới người, không phải người. Loại thứ
nhì còn kém loại thứ nhất vì quần chúng không tìm đọc,
mà họ phải đọc, bị đọc. Cả hai loại trên dù bình dân
hay không, dù sống nhất thời hay dai dẳng, nhưng vì không
nói đến nhân sinh nên chúng chỉ ở địa vị giải trí hoặc
làm gương, không có khả năng trụ trong trái tim người nên
chúng không thể "vượt thời gian".
Ngược lại, có những tác phẩm hay
tác giả rất ít người đọc nhưng vẫn có tính chất cảm
thông và thẩm thấu. Ví dụ trường hợp Thanh Tâm Tuyền.
Khi thơ ông ra đời những năm 54-60, người ta đã nhạo báng,
phủ nhận. Mặc dù vậy ảnh hưởng thơ tự do của Thanh Tâm
Tuyền vẫn lan rộng trong thơ văn miền Nam và kéo dài đến
ngày nay. Những người viết trẻ như Nguyễn Quốc Chánh, Vi
Thùy Linh..., thế hệ lớn lên trong xã hội chủ nghĩa, có
thể chưa từng đọc Thanh Tâm Tuyền, nhưng họ đang thử làm
thơ "kiểu" Thanh Tâm Tuyền. Như vậy nghĩa là gì? Nghĩa là
thơ Thanh Tâm Tuyền, với lối xé rào hình thức và lối khai
phá nội tâm đưa ra cái đau nội tại của hiện sinh con người,
đã có sức thẩm thấu xuyên thời đại để "sống" với
người, người hôm qua và người hôm nay. Tất nhiên Thanh Tâm
Tuyền cũng đã chịu ảnh hưởng những người đi trước,
nhưng điểm quan trọng là ông đã làm được một cá tính
thơ. Thơ Thanh Tâm Tuyền.
Do đó đối với một người viết
phê bình, tính chất cảm thông và thẩm thấu của một tác
phẩm văn học là điều quan trọng, là điểm khởi đi và
cũng là điểm tìm đến.
Trong tập tiểu luận này, tôi muốn
khởi đi và tìm đến một số tác phẩm văn thơ của nhiều
thế hệ và đất sống khác nhau, muốn giới thiệu với độc
giả những chân trời văn chương và con người hoàn toàn khác.
Từ những Nguyên Sa, Tô Thùy Yên Sài Gòn, Phạm Thị Hoài Hà
Nội Berlin, đến Cao Hành Kiện Hoa Trung, từ Albert Camus Algérie
Pháp đến Kinh Bắc Hoàng Cầm, Hải Phòng Bùi Ngọc Tấn...
Mỗi tác giả mọc lên từ một mảnh đất văn hóa khác, phương
trời khác, nhưng cùng đồng quy ở một điểm: Viết về con
người và viết cho con người.
Paris ngày 1/7/2001
Thụy Khuê
© 1995-1-2001 Thụy Khuê