Thụy Khuê Triết học Hiện Sinh (Giới thiệu cuốn Triết học Hiện Sinh của Trần Thái Ðỉnh)
Ngay ở Pháp hiện nay cũng khó tìm được một cuốn
sách viết về triết học Hiện Sinh vừa đầy đủ, vừa
dễ hiểu như cuốn của Trần Thái Ðỉnh, do nhà Thời Mới
in năm 1967 tại Sài Gòn. Võ Phiến, lúc đó là chủ nhà xuất
bản Thời Mới, ghi lại: "Hai cuốn sách
bán được nhanh nhất và nhiều nhất (thời ấy) là hai cuốn
liên quan đến triết học tức là cuốn Triết Học Hiện
Sinh của Trần Thái Ðỉnh và cuốn Những Trào Lưu Lớn
Của Tư Tưởng Hiện Ðại, dịch của André Maurois"
(Văn Học Miền Nam Tổng Quan, Nxb Văn Nghệ, 1986). Tại sao cuốn
sách best sellers năm 1967 không phải là tiểu thuyết mà lại
là sách về triết học? Ðó là câu hỏi cần được đặt
ra. Hiện tượng này mang nhiều ý nghĩa: Phải chăng thời kỳ
những năm 60-70 triết học đã đi vào đời sống thường
ngày? Phải chăng các giáo sư thời ấy đã thành công ít nhiều
trong việc giảng dậy môn triết ở nhà trường và đại học,
họ đã bình dân hóa triết học hơn các thời kỳ khác và
đó có thể cũng là một trong những lý do khiến miền Nam,
sau 54, đã có những thành tựu đáng kể trong việc đổi mới
văn học, với những tác giả đào sâu vào nỗi đau nội tâm,
vào bi kịch phi lý của cuộc hiện sinh con người như Mai Thảo,
Thanh Tâm Tuyền, Vũ Khắc Khoan, Nguyên Sa, Dương Nghiễm Mậu,
Bùi Giáng, Trịnh Công Sơn, Huỳnh Phan Anh, Nguyễn Ðình Toàn,
Trần Thị NgH. v.v...
Tác dụng triết học vào sáng tác thời ấy, đem lại cho văn học một chiều sâu mới. Tác dụng này đã được giáo sư Nguyễn Khắc Hoạch, cựu khoa trưởng Ðại Học Văn Khoa, Sài Gòn, tức nhà thơ Trần Hồng Châu nhắc đến bằng những lời sau đây: "Thời 60-70, triết học phương Tây tương đối phát triển mạnh ở miền Nam [...] Triết lý này phát triển mạnh ở đại học Pháp [sau thế chiến], sau đó bước hẳn vào đời sống, đặc biệt ở thị thành với giới trí thức và thanh niên. Dĩ nhiên sang Việt Nam, cũng đồng hoàn cảnh chiến tranh, đồng tâm lý hoang mang, chán nản và mất hướng, những hạt giống hiện sinh tha hồ nẩy nở. Nhất là lúc đó, từ nửa sau thập niên 50, có một số trí thức Việt Nam du học ở pháp và Bỉ, về nước đã phổ biến các triết thuyết Hiện Sinh, hình thái Sartre và Merleau Ponty. Cộng thêm vào đó là lý thuyết phi lý (théorie de l'absurde) của Camus, rồi tới trào lưu nhân vị, personnalisme, của E. Mounier, một hệ tư tưởng được bồi đắp và đề cao ở Việt Nam bởi những người cầm quyền đương thời, đồng tôn giáo với tác giả. Khi nói trí thức du học thời
đó, tôi muốn đề cập đến một vài tên tuổi quen thuộc,
nhất là "tứ trụ" của triều đình triết Tây tại miền
Nam Việt Nam: Trần Văn Toàn và Lê Tôn Nghiêm, cả hai uyên
bác và tường tận thấu đáo, Nguyễn Văn Trung sáng sủa,
hệ thống và sắc bén, Trần Bích Lan Nguyên Sa tài hoa, uyển
chuyển, "văn chương". Tất cả, ít nhiều trong từng giai đoạn,
đều làm công việc tông đồ có hiệu năng cho trường phái
của Sartre và tư tưởng Camus. Cần ghi nhận thêm nữa là những
cố gắng của triết gia thần học Bửu Dưỡng -cũng thuộc
đại học Văn Khoa-, người đã sáng tác ra tữ ngữ "nhân
vị" và từng đơn thương độc mã rao giảng, phổ biến triết
thuyết của E. Mounier. Nhìn chung các tác giả kể trên đều
có ảnh hưởng tới sinh viên, rồi từ đó lan ra giới trí
thức và văn nghệ ngoài đại học, luôn luôn khao khát những
sản phẩm tinh thần mới của Tây phương. Họ là những gạch
nối, những người trung gian, chất súc tác không thể thiếu
được trong sinh hoạt văn nghệ của thời 60-70" (phát biểu
trong chương trình Văn Học Nghệ Thuật RFI tháng 3/1998, đăng
lại trên báo Văn Học, California, số 147, tháng 7/1998 và in
lại trong Dăm Ba Ðiều Nghĩ Về Văn Học Nghệ Thuật
của Trần Hồng Châu, Nxb Văn Nghệ, 2001)
*
Cuốn Triết Học Hiện Sinh của Trần Thái Ðỉnh mà chúng tôi muốn giới thiệu cùng bạn đọc hôm nay, là cuốn sách hiếm quý cho những bạn trẻ, muốn tìm hiểu nền triết học hiện đại của thế kỷ XX, không chỉ để thực dụng trong lãnh vực văn chương, mà còn để tìm một cách sống, một cách suy nghĩ, tìm hiểu chính mình để vượt mình. Triết Học Hiện Sinh nằm trong loại sách nghiên cứu triết học của những giáo sư đại học có uy tín tại miền Nam. Ðó là các giáo sư Trần Thái Ðỉnh, Lê Tôn Nghiêm, Trần Văn Toàn, Nguyễn Văn Trung, Nguyên Sa Trần Bích Lan. Trần Thái Ðỉnh còn có bút hiệu là Trần Hương Tử, viết Triết Học Nhập Môn, Triết Học Hiện Sinh (1967), Triết Học Kant (1969), Biện Chứng Pháp Là Gì (1969), Hiện Tượng Học Là Gì (1969). Lê Tôn Nghiêm viết Heidegger Trước Sự Phá Sản Của Tư Tưởng Tây Phương (1969), Ðâu Là Căn Nguyên Tư Tưởng (1970). Trần Văn Toàn viết Hành Trình Ði Vào Triết Học (1965), Xã Hội Và Con Người (1965), Tìm Hiểu Triết Học Karl Marx (1965), Tìm Hiểu Ðời Sống Xã Hội (1967). Nguyễn Văn Trung viết rất nhiều tác phẩm, vừa triết học thuần túy, vừa triết học áp dụng vào văn chương, vào phê bình văn học, phê bình chính trị, phê bình xã hội v.v... Tác phẩm của Nguyễn Văn Trung gồm những cuốn như Biện Chứng Giải Thoát Trong Phật Giáo (1958), Nhận Ðịnh (5 tập), Xây Dựng Tác Phẩm Tiểu Thuyết (1962), Lược Khảo Văn Học (3 tập), Chủ Nghĩa Thực Dân Pháp Ở Việt Nam, Thực Chất Và Huyền Thoại (1963), Nhà Văn, Người Là Ai? Với Ai? (1965), Hành Trình Trí Thức Của Karl Marx (1966), Ca Tụng Thân Xác (1967), Ngôn Ngữ Và Thân Xác (1968), v.v... Nguyên Sa Trần Bích Lan viết những sách về văn học và triết học: Quan Ðiểm Văn Học Và Triết Học (1959), Descartes Nhìn Từ Phương Ðông (1966), Một Bông Hồng Cho Văn Nghệ (1967), Một Mình Một Ngựa (1971). Nếu trong một ngày gần đây, những cuốn sách của các tác giả này được lần lượt tái bản ở trong nước, thì hẳn chúng sẽ giúp đỡ rất nhiều cho giới trẻ, phần lớn còn thiếu vốn ngoại ngữ, nhưng muốn tìm hiểu tiến trình tư tưởng của con người trong thế kỷ XX. Ðối với những văn nghệ sĩ muốn cách tân thơ văn, vấn đề lại càng khẩn thiết. Vì hầu như mọi hình thức văn nghệ đều gắn bó với các trào lưu tư tưởng, mà muốn cập nhật hóa văn nghệ thì trước hết phải cập nhật hóa tư tưởng. Ở ngoài nước, vấn đề cũng không
khác: Các tác giả ngoài nước có cảm tưởng rằng sự tự
do và đọc được ngoại ngữ sẽ đương nhiên đưa tới việc
đổi mới và cập nhật với văn chương thế giới. Mọi sự
có lẽ không đơn giản như vậy: Từ việc biết ngoại ngữ
để làm việc sinh sống, đến việc tìm hiểu tư tưởng của
thế kỷ để đào sâu sáng tác của mình, không hiển nhiên
dễ dàng, nhất là phần lớn những người cầm bút hải ngoại
còn phải lo cuộc sống cơm áo hàng ngáy, sáng tác nằm trong
lãnh vực cuối tuần, trà dư tửu hậu. Trong sách báo hải
ngoại, đôi khi có những tác giả muốn bước thẳng vào những
cái mới nhất của thời đại này, họ đưa ra những isme
thật tân kỳ, ầm ỹ, nhưng thường họ lại không giải thích
được cặn kẽ nội dung những điều muốn nói, rút cục
lại cũng rơi vào cái trống rỗng của những người muốn
bước vọt quá cao mà không dựa trên một nền tảng suy luận
vững chắc về "cái biết" của mình. Bi kịch chung của người
viết trong nước và ngoài nước hôm nay là có một khoảng
trống tư tưởng của nhân loại chưa cập nhật được,
một phần của khoảng trống đó là triết học Hiện Sinh.
*
Trong thế kỷ XX, Hiện Sinh là triết học chủ yếu,
đã đưa con người trở lại với con người. Con người
của thế kỷ XX, từ chối vai trò Thượng Ðế, cho nên nhà
văn cũng từ chối vai trò sáng tạo theo phong cách Thượng
Ðế của các thế kỷ trước, nghĩa là "biết tất cả". Nhà
văn trong thế kỷ XX, nhũn nhặn trở lại địa vị con người,
sáng tác bằng những gì thuộc khả năng của mình, họ
viết với tri giác, với trí tưởng tượng và hồi
ức của họ. Về mặt hình thức, Hiện Tượng luận của
Husserl đưa ra cách mô tả mới. Ðó là cách nhìn sự vật
từ nhiều hướng khác nhau, giúp các tiểu thuyết gia có
những phương tiện mới để nhận thức về sự vật.
Cho nên khi chúng ta than phiền là văn học Việt Nam khô cứng,
truyện ngắn, tiểu thuyết Việt Nam không phát triển được,
thơ ca của chúng ta bế tắc, thì đó là bởi chúng ta vẫn
còn nhìn sự vật theo lối nhìn của thế kỷ XIX, viết
theo kiểu viết của thế kỷ XIX và có lẽ đó là cơ nguyên
sâu xa của sự khô cứng hiện nay.
Cuốn Triết Học Hiện Sinh của Trần Thái Ðỉnh là một trong những cuốn sách mở cửa cho chúng ta vào nền tư tưởng chủ yếu của thế kỷ XX, vào sự tìm hiểu con người. Sách được chia làm 10 chương. Ba chương đầu nói về lập trường của triết học Hiện Sinh, những đề tài chính của triết học Hiện Sinh và hai ngành của triết học Hiện Sinh. Bẩy chương sau vết về bẩy triết gia hiện sinh: Kierkergaard, ông tổ hiện sinh chính thực, Nietzsche, ông tổ hiện sinh vô thần, Husserl, ông tổ văn chương triết lý Hiện tượng luận, Jasper, hiện sinh hướng về siêu việt, Marcel, hiện sinh và huyền nhiệm, Sartre, hiện sinh hư vô, Heidegger, hiện sinh và hiện hữu. Trong phần đầu, trình bầy lập trường của triết
học Hiện Sinh, Trần Thái Ðỉnh lược kể mục đích của
triết học cổ điển từ Aristote đến Hegel, để người đọc
có thể so sánh sự khác biệt giữa triết học cổ điển
với triết học Hiện Sinh và đó cũng là mấu chốt sâu xa
của sự khác biệt giữa văn học cổ điển và hiện đại.
Triết học cổ truyền Tây phương, thay vì giúp con người suy nghĩ về thân phận và định mệnh mình, lại chỉ khuyến khích con người quên mình để tìm hiểu những lẽ huyền vi của tạo hóa. Câu định nghĩa của triết học kinh viện là: Triết học là khoa học về vạn vật, lấy những nguyên nhân tối cao để giải nghĩa chúng. Như thế, con người không có chỗ đứng riêng, con người cũng bị coi là trong hàng vạn vật. Trong cả bộ triết học Aristote, không dành phần nào cho con người hiện sinh hết, không bàn đến tự do, không bàn đến nhân vị, không bàn đến định mệnh và những gì đợi chúng ta sau khi chết. Vũ trụ to quá, át tất cả. Con người bị bỏ quên. (trang 11, 12). Vũ trụ quan của Aristote cho ta thấy một con người bị chìm trong vũ trụ. Descartes với sự khám phá ra chủ thể tính con người và tự do mang nặng chất hiện sinh, đã hé nhìn thấy đường đi của triết học. Ðối với Descartes, không thể có triết học về vũ trụ mà chỉ có khoa học về vũ trụ và triết học về tinh thần. (trang 15) Ðáng tiếc là Descartes đã chỉ dừng lại ở tinh thần con người mà không tìm hiểu con người như một thực thể sinh tồn, có thần, có xác. Kant và Hegel còn đẩy xa tinh thần
hơn nữa thành thử triết học vẫn luẩn quẩn trong thái
độ ý niệm, coi con người là một vật thể, cho con người
là thế này, thế kia. Trong khi con người có thể thế này
mà cũng có thế thế kia, có thể là quỷ hay là thánh, có
thể sống làm thân trâu ngựa, sướng đời con vật, hay trái
lại cũng có thể chọn đời tù ngục, miễn là nói được
sự thực và sống xứng đáng tự do. (trang 15)
*
Như vậy, nội dung của triết học Hiện Sinh không phải là con người phổ quát, con người viết hoa của Aristote, mà là khảo sát con người có xương có thịt đang sinh hoạt hàng ngày trong xã hội. Con người đó là tôi, là anh, là chúng ta hết thẩy và từng người một. (trang 15) Là con người sinh hoạt, tôi là một chủ thể và tôi là một nhân vị tự do. Chủ thể tính và nhân vị tự do là hai đề tài chủ yếu của triết học Hiện Sinh. Triết học Hiện Sinh xây dựng trên chủ thể tính, không coi con người là một sự vật của toàn bộ vũ trụ như trong triết học cổ điển nữa mà coi con người như một hữu thể đứng trên vũ trụ và có quyền gán cho vũ trụ một giá trị tùy quan điểm của mỗi người. (trang 19) Khi con người đã ý thức được chủ thể tính của mình thì vũ trụ liền mất vẻ thần thánh của nó: những sấm sét, những tinh tú, mặt trời, mặt trăng không còn là những thần linh cao quang nữa ... Con người nhận định một cách sáng suốt rằng: Không có sự vật gì có giá trị tuyệt đối. Con người hiện sinh là con người tỉnh ngộ, dám nhìn thẳng vào sự thật với nhãn quan, với khả năng của mình. Nhãn quan này không phải là nhãn quan của Thượng Ðế, cũng chẳng phải là nhãn quan của thần linh, của các bề trên, của vua chúa đời xưa, của lãnh đạo, lãnh tụ đời nay, của ông thầy hay của bất cứ ai ban bảo. Mà là nhãn quan của cá nhân mình. Tự do ở đây không phải là cái tự do của thế
giới tự do. Tự do ở đây là tự do hiện sinh, tức là tự
do bên trong, tự do phát xuất từ bản thể. Tự do lựa chọn,
tự do quyết định. Tự do ở đây là
dám là mình. Nếu tôi cứ sống như cái máy, ở trên
bảo sao tôi làm vậy, người ta bảo sao mình làm vậy, thì
tôi mới chỉ sống như một sinh vật, chưa sống cái kiếp
người của tôi. Cuộc sống ù lì đó, sống chỉ để sinh
tồn, sống như cây cỏ đó, Sartre gọi
là buồn nôn, Camus cho là phi lý, Heidegger gọi là tầm thường,
và con người muốn vượt khỏi cuộc sống tầm thường, buồn
nôn, phi lý, thì phải vượt lên trên mình, phải sống
một cách độc đáo (unique), phải là một chủ thể
độc đáo (sujet unique). Ðộc đáo ở đây không có
nghĩa lập dị mà chỉ có nghĩa là tự do chọn lấy
một lối sống riêng, không bắt chước người khác và cũng
không chịu sự sai bảo, kiềm chế của người khác. Ðộc
đáo là tự xác định nhân vị của mình.
Nhân vị và tự do là nội dung của Hiện Sinh.
Về mặt hình thức, tri thức của triết gia cổ truyền là tìm biết bản tính sự vật và cả bản tính con người nữa. Thí dụ, triết học cổ truyền cho biết: bản tính con người là "một con vật có lý trí". Vì có lý trí nên có suy luận, có suy luận thì biết chọn điều thiện, bỏ điều ác v.v... (trang 29) Văn chương cổ điển rập theo khuôn khổ triết học cổ điển ấy, cũng tìm hiểu tâm lý nhân vật, giải thích tại sao người này làm thế này, tại sao lại làm thế kia, nhân vật này nghĩ thế này, nhân vật kia nghĩ thế kia v.v... Tóm lại, triết học cổ truyền chủ trương rằng con người có thể biết được bản tính của sự vật và con người. Triết học Hiện Sinh, ngược lại, cho rằng chỉ có Thượng Ðế mới biết được bản tính của muôn loài, còn chúng ta, con người, chỉ có cái nhìn phiến diện về sự vật. Vì chúng ta chỉ có cái nhìn phiến diện về sự vật nên đã phát sinh trường phái cái nhìn (Ecole du regard) trong tiểu thuyết mới: tức là nhà văn phải nhìn nhiều lần sự vật trong nhiều chiều hướng khác nhau, mỗi lần nhìn, nhà văn biết rõ thêm một chút về sự vật. Bởi vậy, nhà văn hiện sinh mô tả sự vật, đặt sự vật dưới nhiều ống kính khác nhau. Lối mô tả này phát xuất từ Hiện tượng luận của Husserl, khác hẳn với lối mô tả trong văn hiện thực cổ điển. Tóm lại, triết học Hiện Sinh là triết học chỉ
cho ta những suy nghĩ về thân phận làm người, văn hiện sinh
là văn mô tả, chủ ý của triết học Hiện Sinh là làm sao
cho con người thấy sự buồn nôn của lối sống tầm thường,
bảo sao nghe vậy, sống để sinh tồn giống như sinh vật,
để vươn lên một đời sống độc đáo,
có nhân vị của con người tự do. (trang 30)
*
Triết học Hiện Sinh có hai gốc đối lập nhau:
Kierkergaard Trước hết là Kierkergaard, ông tổ Hiện Sinh đích thực. Kierkergaard sinh ngày mùng 5 tháng 5 năm 1813 tại Copenhague, Ðan Mạch; ông là triết gia đầu tiên đã đem đời mình, đời cha mình ra để suy nghiệm về nỗi thống khổ của con người. Với ông, con người không phải là con người trừu tượng, con người phổ quát, con người được đem ra làm vật thể để lý luận như trong triết học duy lý của Hegel, con người mà ông khảo sát ở đây là chính bản thân ông, với những giai đoạn trong đường đời. Ðó là lý do khiến ông trở thành ông tổ đích thực (authentique) của triết học Hiện Sinh. Sau này, Sartre, Camus, Simone de Beauvoir và những tác giả có khuynh hướng hiện sinh khác, như các nhà văn trong phong trào tiểu thuyết mới v.v... hầu như tất cả đều viết về mình, đều tra khảo chính mình để tìm hiểu sự thật dưới các dạng thức khác nhau. Triết học của Kierkergaard là triết học nghiệm sinh trên cá nhân tác giả. Kierkergaard nhìn thấy trong kinh nghiệm sống của mình, ba giai đoạn hiện sinh: Giai đoạn đầu là giai đoạn hiếu mỹ: thời còn sinh viên, chìm đắm trong sắc dục, bị cám dỗ. Kierkergaard bắt đầu suy nghĩ về tội lỗi, về buồn chán, về khổ đau. Những tội lỗi mà Kierkergaard luôn luôn nhắc đến, có thể chỉ là trụy lạc trong trí tưởng tượng, trụy lạc của cảm giác thẩm mỹ. Giai đoạn thứ nhì là giai đoạn đạo hạnh: Kierkergaard yêu người con gái tên Régine Olsen, ông chấm dứt thời kỳ phiêu đãng, ăn chơi. Ông muốn người yêu cùng với mình vươn lên tới giai đoạn thứ ba: giai đoạn tôn giáo. Ðặc tính của đời sống tôn giáo gồm hai chữ độc đáo và tin yêu. Theo Kierkergaard, con người tôn giáo là con người đã tìm được nhân vị của mình, không còn bị trói buộc bởi những luật lệ phổ quát của luân lý nữa. Nếu hỏi: Tại đâu con người có thể biết mình là một nhân vị độc đáo? Kierkergaard trả lời: Tự ý thức về tội lỗi. Chính tội lỗi là cái làm cho con người tự cảm thấy đơn độc. Tội lỗi làm cho con người có tương quan với tuyệt đối, dám tiếp xúc với thực tại cao cả nhất là Thượng Ðế. (trang 92) Kierkergaard vạch mặt, chỉ tên những người như Hegel
chỉ lấy lý luận để mong giải nghĩa tất cả. Ông trình
bầy một tâm hồn hiện sinh luôn luôn bị dằn vặt, vật
lộn với chính mình để vượt qua những chặng đường đời.
Kierkergaard đã thật sự mang triết học về với con người.
Là một linh mục, Trần Thái Ðỉnh đã dành cho Kierkergaard
những trang phân tích tràn ngập ưu ái và đồng cảm.
Nietzsche
Viết về Nietzsche, Trần Thái Ðỉnh phê bình có khắc nghiệt hơn, nhưng đồng thời ông cũng cho người đọc thấu nhận những giá trị chân xác của Nietzsche. "Hãy là mình", câu nói của Nietzsche trở thành châm ngôn sống cho nhiều thế hệ ở phương Tây. Ngay từ cuối thế kỷ XIX, Nietzsche đã tiên đoán rằng phải đến rạng đông của thiên niên kỷ thứ ba, ông mới được thật sự đọc và hiểu một cách thấu đáo. Nhắc lại lời tiên tri này, nguyệt san văn học có tiếng của Pháp, Le magazine littéraire ra một số đặc biệt về Nietzsche trong tháng 10/2001. Vẫn tờ Le magazine littéraire này, số tháng 11/2001 có chủ đề Hiện tượng luận. Như thế, triết học của Nietzsche cũng như Hiện tượng luận của Husserl vẫn còn là những trào lưu tư tưởng đang được khám phá và những áp dụng vào văn học, nghệ thuật, vào đời sống hàng ngày của con người sẽ còn được kéo dài trong thế kỷ XXI. Trong cuốn Triết Học Hiện Sinh, Trần Thái Ðỉnh
dành chương năm và chương sáu để viết về hai triềt gia
Nietzsche và Husserl. Nietzsche được coi là ông tổ Hiện Sinh
vô thần và Husserl là ông tổ văn chương triết lý hiện tượng
luận.
Frédéric Nietzsche sinh ngày 15 tháng 10 năm 1844 tại Roecken, miền trung nước Ðức; cha là mục sư. Từ hồi nhỏ, Nietzsche đã say mê âm nhạc, soạn nhiều bài thơ và bản nhạc để ca tụng thiên chúa. Năm 20 tuổi, Nietzsche theo học ngành triết học và thần học tại đại học Bonn, rồi chuyển sang đại học Leipzig. Những năm ở đại học đã khiến Nietzsche xa dần tôn giáo. Ông say mê học thuyết của Schopenhauer và âm nhạc Wagner. Từ năm 1869, Nietzsche giảng dậy ở đại học Bâle. Ba năm sau, ông cho in tác phẩm đầu tiên, tựa đề Nguồn Gốc Của Bi Kịch (La naissance de la tragédie). Sau mười năm dậy học Nietzsche từ chức giáo sư đại học và bắt đầu cuộc đời phiêu bạt, nay đây mai đó giữa Ðức, Pháp, Ý. Từ 1889 trở đi, hoạt động tinh thần của Nietzsche ngày càng phong phú. Ông viết không ngừng. Hầu như mỗi năm đều có sách phát hành. Từ 1879, mang bệnh nhức đầu kinh niên, nhức mắt, buồn nôn. Nietzsche mất năm 1900, trong điên loạn và tê liệt hoàn toàn tại Weimar ở tuổi 56. Trần Thái Ðỉnh viết: Tư chất của Nietzsche thực là họa hiếm. Nietzsche đã nhằm một cuộc cách mạng tinh thần như chưa từng thấy: Ông nhằm đổi lại cái bảng giá trị luân lý và xã hội. Những gì người ta vẫn tôn trọng tự trước đến nay sẽ bị ông thóa mạ và lên án; tóm lại ông sẽ đặt lại và tạo ra những nhận định hoàn toàn mới về thiện và ác. Cho nên triết học của ông có thể mệnh danh là "Ðảo lại tất cả các giá trị". Thay vào những giá trị tư tưởng hoàn toàn duy niệm của truyền thống Socrate, Nietzsche đã đề cao những giá trị của Hiện Sinh, và thay vào những giá trị "yếm thế" của các tôn giáo, Nietzsche đã thay vào cái lý tưởng của người hùng (le surhomme) và ý chí hùng cường (volonté de puissance). (trang 114) Nietzsche chịu ảnh hưởng sâu sắc tư tưởng của Schopenhauer, triết gia Ðức đầu thế kỷ XIX. Tư tưởng Schopenhauer có ba điểm chính:
Tóm lại, ba yếu tố chủ thể, ý chí và thân xác trong triết học Schopenhauer sau này sẽ là những thành tố quan trọng của triết học Hiện Sinh. Từ ảnh hưởng Schopenhauer, Nietzsche đã xây dựng nền triết học của mình trên hai cơ sở:
*
Ðể phê bình nền luân lý cổ truyền, Nietzsche chia nền luân lý này làm hai loại: Luân lý chủ ông và luân lý nô lệ. Luân lý chủ ông là luân lý của giai cấp thống trị. Cái gì liên lạc tới bọn quý tộc, thống trị là tốt. Quý tộc thống trị có bản tính ngang tàng, kiêu hãnh, cho nên luân lý chủ ông xây dựng trên lòng tự tín, tự đại, kẻ hào hùng. Luân lý nô lệ thì ngược lại, người nô lệ bị đàn áp, yếu hèn, cho nên họ lập ra bảng giá trị riêng của họ, họ lập ra đức nhẫn nại, khiêm tốn, từ bi ... đó là đức của những người bất lực. Nietzsche khinh bỉ các tôn giáo như Do Thái, Ki Tô và Phật giáo, ông cho rằng tôn giáo là sản phẩm của những kẻ bệnh tật, hèn yếu, không có can đảm để đấu tranh, sống cuộc sống hiện sinh ở đời này nên mới tạo ra những giá trị yếm thế, chối bỏ cuộc hiện sinh để mưu cầu cuộc sống hạnh phúc ở đời sau. (trang 126) Trong cuốn Ainsi parlait Zarathoustra (Zarathoustra Ðã Nói Như Thế), một trong những tác phẩm nòng cốt của ông, Nietzsche mượn miệng Zarathoustra để nói ra những mặc khải mới của ông về con người. Zarathoustra là một bậc thánh hiền, có dòng máu Arya đã sống trên đất Ba Tư hồi thếkỷ thứ VI trước Tây lịch, và đã rao giảng một thứ đạo gần giống Bà La Môn ở Ấn Ðộ. Nietzsche mượn miệng Zarathoustra để nói lên tư tưởng hiện đại của mình. Ðối với những hình thức luân lý hoặc tôn giáo cổ truyền khinh chê thân xác, Nietzsche bảo: thế thì đừng sống nữa, sống để chờ chết như thế là sống thừa, và ông tuyên bố: "Tôi là xác và hồn". Hoặc: "Tôi chỉ là thân xác mà thôi", câu này dẫn tới quan niệm tư thân (corp propre) của Marcel và Ponty sau này. (trang 130) Triết lý người hùng (surhomme) của Nietzsche nhằm đả phá tất cả những học thuyết nào không giúp cho con người phát triển khả năng vô tận của cuộc hiện sinh, trong đó ông coi hiện sinh tôn giáo là hiện sinh nô lệ, vô bổ. Bởi vậy, phải giết Thượng Ðế thì con người siêu nhân mới có cơ xuất hiện. Mà siêu nhân là gì? Ðây là định nghĩa của
Nietzsche: Siêu nhân hay người hùng là
con người hoàn toàn tự chủ, không lệ thuộc vào
những thói tục do luân lý cổ truyền tạo nên để nô lệ
hóa con người. Người hùng có ý thức sâu xa về tính cách
tự chủ của mình, hắn muốn dùng cuộc đời của hắn để
thể hiện quyền tự chủ vô cùng quý báu đó. Nietzsche viết:
Hãy luôn luôn trở nên chính mình, hãy
là ông chủ và nhà điêu khắc để tạc nên chính mình.
Nói tóm lại, đừng nhắm mắt làm nô lệ kẻ khác, đừng
để bảo sao làm vậy, phải có ý chí tự quyết, tự tìm
lấy lối đi. Tự quyết, tự chọn là những ý chí căn bản
của cuộc hiện sinh. Con người phải
tự vượt mình.
* Theo Nietzsche, quần chúng tuy đông về số nhưng không có ai là người hết, họ chỉ là những bóng vật vờ, bảo sao nghe vậy. Nietzsche viết: "Ở ngoài công trường, ta nói với hết thảy mọi người mà kỳ thực không nói với người nào hết". Quần chúng chỉ là cái miệng để hoan hô, đả đảo. Những tay lãnh đạo bảo hoan hô thì quần chúng hoan hô, bảo đả đảo thì quần chúng lại đả đảo ngay. Quần chúng thực là một cái máy khổng lồ và vô hồn". (trang 141) Ai muốn sống cuộc hiện sinh của mình thì phải thoát ra ngoài cuộc sống vô hồn ấy, phải dám suy nghĩ lấy, không để cho ai nghĩ hộ, phải luôn luôn tìm cách vượt chính mình, phải tìm con đường đi của mình, sống phải sáng tạo, phải dám nghĩ những cái chưa ai nghĩ, phải tự giác và tự giải thoát ... không cảnh nô lệ nào nhục nhã bằng nô lệ tinh thần. Kể cả nô lệ người thầy. Cho nên Zarathoustra nói rằng: "Ông thầy dậy ta làm người chứ không dậy ta làm học sinh suốt đời. Chư đệ phải xa ta ra. Phải chống lại ta. Biết đâu ta đã chẳng là một kẻ bịp bợm". "Hãy coi chừng đừng để cho thần tượng đè chết". Tư tưởng của Nietzsche không phải là một học thuyết khép kín mà chỉ cho ta lối mở, lối đạp đổ tất cả những học thuyết đã có, phá tan những căn nhà tiền chế về tư tưởng, để lại bắt đầu. Bài học của Nietzsche là sự bắt đầu miên viễn, l'éternel retour. Con người phải bước qua Thượng Ðế, bước qua thánh thần, bước qua Nietzsche, bước qua chính mình mà đi. Tác phẩm của Nietzsche là tác phẩm mở. Từ một điểm nào đó trong tác phẩm của ông, chúng ta đều có thể bắt đầu làm lại, đi con đường khác, cho nên tác phẩm của ông luôn luôn là đề tài cho các cuộc tranh luận không ngừng, mỗi người có thể tìm thấy ở đó những cách đọc, cách hiểu khác nhau, kể cả Hitler lẫn Mussolini đều đã chịu ảnh hưởng thuyết người hùng của Nietzsche. Cho nên Trần Thái Ðỉnh đã có lý khi ông viết: Mặc dù các tội ác của bọn Ðức Quốc Xã không thể đổ cả cho Nietzsche, nhưng ai cũng biết rằng quân đội Hitler đã trao tay nhau những trang sách Nietzsche ca tụng người hùng và con người siêu nhân. Tuy nhiên ảnh hưởng của Nietzsche đối với Tây phương ngày nay thực là lớn lao [...] Nietzsche đã xuất hiện như một trận bão táp kinh thiên động địa: những lời lẽ tuy ngạo mạn nhưng thống thiết của ông đã lay chuyển tư tưởng nhân loại, như ít khi thấy trong lịch sử. Ðọc Nietzsche, chúng ta thấy như bị tát vào mặt, ta thấy hổ thẹn vì thói ươn hèn của tư tưởng ta, ta thấy hổ thẹn vì thái độ nô lệ và thụ động của ta, ta chưa vươn tới mức làm người tự do." (trang 150) Ta thấy ta như lũ trẻ con ngày ngày nhai đi nhai lại những lời lẽ của thánh hiền, coi đó là những bùa hộ mệnh, tưởng chừng như những lời kinh hoa mỹ kia có phép màu để giải quyết cuộc nhân sinh của ta, mà ta không biết rằng ỷ lại như thế là sống thêm nô lệ. (trang 151) Một lời răn của Nietzsche trong Zarathoustra Ðã Nói Như Thế: "Anh đã đi con đường từ giun lên làm người, nhưng vẫn còn rất nhiều giun dế trong anh. Xưa kia, anh là khỉ, và ngày nay, loài người vẫn còn khỉ hơn bất cứ con khỉ nào." Với những lời như thế, triết học của Nietzsche
trước ngưỡng cửa thế kỷ XXI vẫn còn là một liều thuốc
đắng cho những tâm hồn muốn vươn lên, thoát khỏi kiếp
nô lệ để sống kiếp người.
Hiện tượng luận Husserl Năm 2001 là năm kỷ niệm 100 năm ra đời của Hiện
tượng luận Husserl. Sinh nhật này đã được những người
làm văn học ở Tây phương đánh dấu một cách trân trọng
với những buổi hội thảo, những số báo đặc biệt nhắc
lại Hiện tượng luận và vai trò của nó trong văn học toàn
cầu. Vậy Hiện tượng luận là gì?
Như chúng ta đã biết, triết học cổ truyền đi đôi với văn học truyền thống và triết học Hiện Sinh đi đôi với văn học hiện đại. Triết học cổ truyền, vì mải tranh luận về con người phổ quát, vì mải tìm đến con người lý tưởng, cho nên dễ bỏ qua con người bằng xương bằng thịt đang sống cuộc hiện sinh này. Ngoài ra, triết học cổ truyền cũng đã quá thản nhiên với cuộc đời, coi cuộc đời là thiên nhiên, và thiên nhiên thì lúc nào cũng thế. Husserl gọi thái độ trên đây của triết học cổ truyền là thái độ duy nhiên (naturaliste); và vì thấy duy nhiên là lối bí, nên ông mới khám phá ra Hiện tượng luận. (trang 155) Có thể nói ngắn gọn, trước Husserl đã có hai quan niệm cổ điển về vũ trụ. Theo Aristote thì vũ trụ là tất cả. Vũ trụ bất biến, cho nên khi người quân tử đã đạt được cái nhìn đích thực về vũ trụ rồi, tức là đã đạt được chân thiện mỹ rồi, thì không cần học nữa mà chỉ cần truyền bá cái đạo của mình mà thôi. Quan điểm thứ hai là Hiện tượng luận Hegel. Ðó là Hiện tượng luận về tinh thần. Hegel chứng minh rằng: Tất cả vũ trụ hiện hữu này chỉ là phản ảnh tinh thần con người: tức là tôi nghĩ thế nào thì vũ trụ xuất hiện đúng như thế; vũ trụ Hegel là vũ trụ Kiều, người buồn cảnh có vui đâu bao giờ, cho nên nhà tâm lý học chỉ cần nghiên cứu tâm trạng của con người là có thể biết hết về vũ trụ. Tóm lại, có hai quan điểm về vũ trụ. 1) Vũ trụ
bất biến, con người phải tìm ra cái nhìn đích thực về
vũ trụ. 2) Chủ thể có quyền tuyệt đối về vũ trụ tức
là chủ thể xác định vũ trụ. Hiện tượng luận của Husserl
dung hòa hai quan niệm trên và đưa ra cái nhìn mới để ghi
nhận những biến thái muôn mầu của vũ trụ.
*
Theo Husserl, chủ thể không có quyền tự đặt mình làm tuyệt đối và đối tượng (tức sự vật) cũng không phải là bất biến. Bởi vì cùng một sự vật mà mỗi người chúng ta thấy nó một cách khác nhau. Ðối với Husserl, thì tôi coi sự vật là đối tượng, tức là môt hiện diện, sự vật là một hữu thể đang đối diện và đối thoại với tôi. Cho nên tôi và sự vật (hay vũ trụ) là đồng hạng với nhau, không ai có quyền tuyệt đối trên ai. Cái học thời cổ, là học trò lập lại những lời của thánh hiền. Tử viết, Aristote viết, Tử nói, Aristote nói, Socrate nói, bởi vì đó là những lời của người quân tử đã đạt tới chân thiện mỹ rồi. Học trò không cần xét lại. Chỉ học như con vẹt. Nhưng nếu lấy Hiện tượng luận mà xét lại thì
sẽ thấy ngay những lời Tử viết ấy, lời Platon, Socrate
ấy, ngày nay còn chỗ nào có giá trị, chỗ nào đã lỗi thời.
Cũng như nếu lấy Hiện tượng luận mà xét thì câu ca dao
"Ta về ta tắm ao ta, vừa trong vừa đục ao nhà vẫn hơn" hủ
lậu và thoái hóa vô cùng. Nếu triết học cổ điển công
nhận có chân lý hiển nhiên và coi cái nhìn của ta về vũ
trụ là hiển nhiên và tất nhiên, thì trái lại, với Husserl,
không có cái gì là hiển nhiên và bất
biến hết. Hiện tượng luận không dành ưu tiên
cho bất cứ một cách nhìn nào về sự vật, về vũ trụ,
nhưng nó quyết tâm tra vấn những cái nhìn đó, không coi cái
nhìn nào là tất nhiên nữa, và quyết chí tìm cho ra cái nền
tảng căn do đã làm cho ta nhìn thế này mà không nhìn thế
kia. (trang 160) Thành thử nếu muốn nhập môn Hiện tượng
luận, chúng ta phải lột xác, bỏ những ý kiến cố định
đi để theo Husserl đứng vào những cách nhìn như ta chưa từng
làm bao giờ hết. (trang 160)
* Nhìn lại văn học thế kỷ XX, hầu như những tác giả lớn đều ít nhiều chịu ảnh hưởng của Hiện tượng luận. Jean Paul Sartre đã áp dụng Hiện tượng luận vào mọi thể loại văn học của ông, từ phê bình đến truyện ngắn, kịch ... Ví dụ cách mô tả nhân vật của Sartre qua Roquentin trong Buồn Nôn. Ông đã mổ xẻ đến kiệt cùng sự nhận thức của Roquentin về chính mình, về từng động tác, từng cảm giác, từng tri giác của chính mình. Trong truyện ngắn Le mur, Bức Tường, Sartre đã dùng Hiện tượng luận để mổ xẻ nỗi sợ của con người, chủ yếu là của những tử tù trước khi chết. Trong Les Mots, Chữ Nghĩa, Sartre đã dùng Hiện tượng luận để mổ xẻ xã hội trưởng giả mà ông xuất thân, qua ngôn ngữ của chính nó. Trong Qu'est ce que la littérature, Văn Chương Là Gì?, Sartre dùng Hiện tượng luận để tra khảo văn chương, tìm đến nguồn cội của sự viết, cách viết, tại sao viết ... Tóm lại, Hiện tượng luận cho phép tác giả đi đến kiệt cùng một hiện tượng, một vấn đề mà tác giả muốn trình bầy cho người đọc. Trong tiểu thuyết mới, Alain Robbe Grillet là người chịu ảnh hưởng sâu sắc Husserl, ông áp dụng Hiện tượng luận để mô tả đến kiệt cùng một sự vật. Khác với Jean Paul Sartre, lối mô tả của Alain Robbe Grillet lả lướt và có nhiều hình tượng hơn, nhưng vẫn là Hiện tượng luận. Chỉ một màn cô gái xõa tóc chải đầu, trong cuốn La jalousie (Bức Mành Mành), Alain Robbe Grillet có thể viết thành một bài thơ dài, vừa mơ hồ, vừa chính xác. Ông nghe thấy "tiếng" tóc lao xao, bối rối mỗi lần bàn tay chuyển động, cái lược đưa lên, kéo xuống, da đầu xao động với cán ngà... Một vết con rết chết dí trên tường, cũng được ông quay đi quay lại đến mươi lần, và mỗi lần nhà văn lại lục lọi trong hồi ức, ra một kỷ niệm hay một nhận thức khác trước. Tóm lại, Hiện tượng luận bắt buộc nhà văn phải nhìn hiện tượng dưới nhiều góc độ khác nhau, bắt buộc đạo diễn phải quay một cảnh dưới những ống kính khác nhau, và mỗi khi đổi vị trí, nhà văn hay đạo diễn lại khám phá ra một khía cạnh mới của hiện tượng, của sự vật. Trường phái cái nhìn, Ecole du regard, trong tiểu thuyết mới thoát thai từ Hiện tượng luận; do vậy, nhà văn "mới" không mô tả như nhà văn cũ. Cái khác nhau của họ là: đối với các nhà văn cổ điển, cái bàn là cái bàn, cái ghế là cái ghế, chúng chỉ có bốn chân, và tả thêm nữa thì nó làm bằng gỗ lim, gỗ gụ, nó tập tàng hay nó còn mới toanh ... nhưng nếu ở dưới mắt một nhà văn chịu ảnh hưởng Hiện tuợng luận thì sẽ thấy cái bàn ấy có bao nhiêu vết nứt, mỗi vết nứt có hình thù gì và mỗi vết nẻ là dấu ấn của một cuộc ẩm thực nào, của một buổi tiễn đưa nào v.v... Hiện tượng luận bắt buộc nhà văn đặt đối tượng tức vật thể ở trước mắt để tra khảo trí nhớ, kỷ niệm của mình, tra khảo giác quan của mình mà mô tả. Như thể một người đã đỗ bằng bác sĩ, nếu học thêm về giải phẫu thì sẽ có thể mổ xẻ được những bộ phận của con người một cách tinh vi hơn, còn không thì anh ta chỉ là một bác sĩ toàn khoa, chuyên trị bệnh cảm cúm nhưng không thể đi sâu vào những khúc mắc bên trong mỗi phần thân thể riêng của con người. Khi mô tả như vậy, đối tượng hay hiện tượng
sẽ hiện ra dưới bộ mătï khác, khác hẳn với lối mô tả,
dù là tả chân- trong cách viết hiện thực cổ điển. Bởi
trong cách viết hiện thực cổ điển, nhà văn nhìn sự vật
như một điều bất biến: Cô Huyền là một cô Huyền do tác
giả tạo ra, tức là tác giả "hình dung" ra. Trong lối nhìn
Hiện tượng luận, tác giả mang cô Huyền để trước mặt
và chiếu nhiều ống kính hiển vi khác nhau vào cô Huyền.
Ta sẽ thấy cha cô Huyền nhìn cô Huyền một cách khác, mẹ
cô Huyền nhìn cô Huyền một cách khác, anh cô Huyền nhìn
cô Huyền một cách khác, người yêu cô Huyền nhìn cô Huyền
một cách khác ... Và càng chiếu nhiều ống kính khác nhau
vào cô Huyền thì chân dung cô Huyền càng sống động, nó
không chỉ có một chiều duy nhất như tác giả cổ điển
nghĩ ra. Tóm lại, Hiện tượng luận không cho nhà văn nghĩ
ra, tức là bịa ra một cái gì đó để viết, mà nhà văn
phải khảo sát, phải kiểm nghiệm, phải để đối tượng
trước mắt để ngắm nhìn, phải cho đối tượng sống lại
bằng hồi ức, kỷ niệm, kinh nghiệm sống của nhà văn, phải
nhìn kỹ, nhìn đi, nhìn lại để khám phá ra những bí mật
của đối tượng.
Triết học cổ điển chủ trương con người có thể biết thấu bản tính, biết đến đáy lòng của sự vật và của con người. Nhưng triết học Hiện Sinh, đặc biệt là Hiện tượng luận của Husserl, cho rằng chúng ta không biết rõ bản tính của ai hết, kể cả của người lẫn vật, những cái nhìn của chúng ta về sự vật thường phiến diện, vì vậy chúng ta phải có cái nhìn trắc diện, đo, đạc và phải có nhiều cái nhìn trắc diện khác nhau, nhìn trước, nhìn sau, nhìn từ phía trên, nhìn từ phía dưới, tóm lại là luôn luôn đổi cái nhìn thì mới mong đi sâu vào sự hiểu biết sự vật, tìm thấy những sắc thái mới mẻ của nó, và cho đến mãi mãi, sự vật vẫn dành cho ta những bỡ ngỡ nếu ta biết thay cái nhìn để tìm hiểu nó hơn. (trang 166) Hiện tượng luận dựa trên phương pháp khoa học được Husserl gọi là những giảm trừ (reduction). Có ba giảm trừ chính:
*
Nhiều người làm văn học hay mượn cớ lãng mạn để viết phóng, viết bịa ra những tình cảm hoặc mô tả những con người không có thực trong đời sống, tóm lại tác giả nhầm lẫn sự hư cấu với sự bịa đặt, không sống thực, nhầm lẫn tưởng tượng văn học với tưởng tượng bịa đặt. Tưởng tượng văn học là vẽ lại những hình ảnh mình đã kinh qua trong đời sống một cách nghệ thuật. Nhà văn phải viết bằng tri giác và kinh nghiệm sống và khi họ bước ra ngoài hai lãnh vực ấy để bịa ra những mẩu đời, những mẩu tâm tình không ăn nhằm gì với cuộc sống, thì họ thất bại. Cũng phải nói thêm rằng lối mô tả trong hiện thực cổ điển chỉ là lối chụp ảnh thiên nhiên và hiện tượng theo lối nhìn cổ điển, tức là nhà văn trước hết đã thấu suốt hết mọi lẽ, mọi sự và anh ta chỉ việc đưa ra cái ảnh của cái gọi là sự biết ấy của anh về sự vật, về thế giới, là xong. Ngược lại, trong cái nhìn Hiện tượng luận, nhà
văn, trước hết, không biết gì về hiện tượng mà
anh mô tả và anh ta phải truy lùng, phải tìm kiếm, phải vật
lộn với tri giác và kinh nghiệm sống mới có thể viết về
đối tượng mà anh ta khảo sát, và những điều mà anh ta
đưa ra cũng không bao giờ là kết quả cuối cùng về
sự vật, về hiện tượng đó mà chỉ là một cách tìm
kiếm mà thôi.
Ðó là lý do mà một nhà văn như Alain Robbe Grillet
cứ viết đi viết lại một chủ đề án mạng, trong nhiều
tác phẩm, với những nhân vật giống nhau, và mỗi lần viết,
ông ta lại tìm ra những nhận xét mới. Cho nên, nếu đi sâu
vào Hiện tượng luận thì nhà văn sẽ khó có thể bí đề
tài, bởi bất cứ một đề tài nào, ta cũng có thể đào
bới nó bằng trăm cách nhìn, cách viết khác nhau: Một mái
đình làng, một cuộc lễ hội, một đám cháy v.v... tất cả
đều có thể được khảo sát đến vô cùng bằng phương
pháp nội soi vừa khoa học, vừa triết học, vừa văn chương
của Hiện tượng luận.
Thụy Khuê
Paris, tháng 11/2001 © Copyright Thuy Khue 2001
|