Thụy Khuê

Trả lời Dương Thu Hương

 

Ngày 22.4.1991 ba ngày sau khi Dương Thu Hương bị bắt được các hãng thông tấn loan đi, tôi được một anh bạn, anh X, cũng là bạn của Dương Thu Hương, trao cho tập bản thảo "Tiểu Thuyết Vô Đề", nhờ tôi viết tựa và tìm cách xuất bản với lời yêu cầu: trong bất cứ hoàn cảnh nào, xin chị đừng tiết lộ vì đâu và vì ai mà chị có tập bản thảo này (trong hoàn cảnh lúc đó, tôi chấp nhận điều kiện này)

Cần nhắc lại rằng khi Dương Thu Hương bị bắt, không khí rất căng thẳng, những người theo dõi tình hình Việt Nam và ủng hộ việc đấu tranh dân chủ hóa đất nước của Dương Thu Hương, ai cũng muốn làm việc gì đó cho bà. Mọi quyết định phải nhanh.

Tôi đã nhận lời anh X trong không khí sôi nổi và khẩn thiết -việc mà trong trường hợp bình thường tôi sẽ từ chối- vì tôi không quen Dương Thu Hương, không đồng chính kiến với Dương Thu Hương và Dương Thu Hương không trực tiếp nhờ tôi in ấn gì cả (cơ sở duy nhất mà tôi dựa vào là bản sao một lá thư Dương Thu Hương viết cho hai người bạn -anh Giao và anh Đường -, nội dung ngỏ ý muốn xuất bản Tiểu Thuyết Vô Đề tại hải ngoại). Nhưng cuối cùng tôi cũng đã nhận lời anh X, với nhiều lý do và trăn trở:

- Một trong những chủ đích của việc xuất bản sách ngay là để gióng một tiếng vang trong dư luận, khiến chính quyền cộng sản phải e dè trước mọi quyết định đàn áp Dương Thu Hương. Chủ đích ấy có thể tác dụng ngược lại - nghĩa là nhà cầm quyền căn cứ vào đó mà buộc tội Dương Thu Hương một cách gay gắt hơn.

Một mặt khác, tôi tin rằng:

- Điều cần thiết cho văn học là tác phẩm đến tay người đọc, còn vì đâu mà đến, do ai mà đến, không quan trọng.

- Về những tác phẩm viết trong nước mà tôi được đọc cho tới nay: Tiểu Thuyết Vô Đề có giá trị tiên phong trong việc nhìn nhận lại cuộc chiến một cách sáng suốt và mạnh dạn. Ngoài ra, Tiểu Thuyết Vô Đề còn có giá trị nghệ thuật nhất định. Tuy nhiên, vì lo ngại phản ứng của chính quyền mà trong bài tựa tôi khẳng định: không biết bản thảo từ đâu tới để xác quyết việc Dương Thu Hương không nhờ tôi làm bất cứ việc gì, do đó chính quyền Việt Nam không thể căn cứ vào đó mà buộc tội Dương Thu Hương chuyển bản thảo sang Mỹ.

 

Tôi đã giao phó tác phẩm cho nhà xuất bản Văn Nghệ của thầy Từ Mẫn Võ Thắng Tiết vì hai lý do:

- Qua những đóng góp vào văn học nước nhà từ trên mười năm nay, Văn Nghệ là nhà xuất bản uy tín tại hải ngoại hiện giờ.

- Giữa thầy Từ Mẫn và tôi đã có hợp tác và tin cậy.

Mặc dù phản ứng chống đối việc in sách trong nước lúc đó còn mạnh, thầy Từ Mẫn đã nhận lời. Đó là một cố gắng của nhà xuất bản Văn Nghệ cần được ghi nhận mà thầy Từ Mẫn, bây giờ, đã phải trả giá khá đắt.

 

 

Về một vài điểm trong bài Tự Bạch của DƯƠNG THU HƯƠNG

Có nhiều mức độ để đọc một tác phẩm hay một văn bản:

- Độc giả, một số -rất ít- thẩm xét cái hay cái dở để đánh giá và phân định giới hạn tác phẩm và tác giả. Lớp độc giả này chắt lọc những điều hay trong tác phẩm lưu lại cho mình và sa thải hoặc quên đi những cái dở trong tác phẩm - đó cũng là chủ đích của những bài tựa.

- Một số đông, có nhận xét chung chung tương đối đúng.

- Và một số khác hiểu lầm hoặc ngộ nhận, thậm chí đi đến chỗ xuyên tạc vô căn cứ.

Tự Bạch đề ngày viết trong tù, nhưng lời lẽ hoàn toàn tự do, đã được gởi ra ngoại quốc mới đây, vậy vẫn phù hợp với tâm trạng của tác giả. Độc giả sẽ thẩm xét Tự Bạch. Tôi không đi sâu vào nội dung bài viết, vì không phải là chủ đích của bài này. Chỉ đưa ra vài nhận xét:

Sau mười sáu năm thống nhất đất nước, mọi định danh, phân giới đội ngũ những người cộng sản / hàng ngũ những người chống cộng: tôi ở bên này / anh ở bên kia -ở thời điểm này- dường như đã lỗi thời, lạc hậu.

Một khi thắng trận, viết về những nhầm lẫn của mình, đã là khó. Một khi thắng trận, viết về những nhầm lẫn của đối phương lại càng khó hơn. Không mấy ai thành công trong cuộc phiêu lưu mạo hiểm ấy, cho dù viết với mục đích "để những ai thua trận không thể còn tiếp tục thù hận".

Ngôn ngữ văn học là một con dao hai lưỡi: nếu "Tiểu Thuyết Vô Đề" -qua sự kiểm nghiệm lại dĩ vãng- giải tỏa được một số vấn đề trong sự chia rẽ sâu xa của dân tộc và có một giá trị nhân bản cao, thì bài Tự Bạch Về Tiểu Thuyết Vô Đề, với những tố cáo "tội ác" của đối phương, giới hạn mọi giải tỏa chia rẽ và triệt tiêu giá trị nhân bản.

 

*

 

Chủ đích của bài này là nhìn nhận một vài khía cạnh nhỏ liên quan đến việc in ấn Tiểu Thuyết Vô Đề mà tôi có phần trách nhiệm. Dương Thu Hương muốn chọn một nhà xuất bản thuần tuý văn hóa và phi chính trị tại Pháp: khó đấy! Ở hải ngoại, kiếm một nhà xuất bản thứ nhì - không dây dưa với chính trị - và có uy tín lớn như nhà xuất bản Văn Nghệ, không phải chuyện dễ. Xác quyết trong sự thiếu thông tin cũng là một giới hạn nữa, đáng ghi nhận của Tự Bạch.

Tránh dài dòng, tôi xin vắn tắt trả lời hai điểm có liên quan trực tiếp đến tôi trong bài viết:

1. Về câu "Tiểu Thuyết Vô Đề nhắm vào cốt tủy của huyền thoại "chống Mỹ cứu nước", vạch trần mặt trái của những lý tưởng cao đẹp, mặt sau của những Khải Hoàn Môn, mặt nạ của những mỹ từ đã trở nên những khẩu hiệu trống rỗng: Tổ Quốc - Nhân Dân - Chính Nghĩa - Tự Do - Quốc Gia - Dân Tộc... Vì người ta đã lạm dụng và dày xéo quá nhiều lần" trong bài tựa Tiểu Thuyết Vô Đề.

Câu văn trên, cũng như chủ ý toàn bài tựa của tôi - cần được hiểu trên hai mức độ:

1) Vì viết về Tiểu Thuyết Vô Đề -một cuốn tiểu thuyết chống chiến tranh, nhìn từ phía Bắc- nên tôi đề cập đến huyền thoại "chống Mỹ cứu nước". Nếu viết về một tác phẩm chống lại cuộc "chiến tranh chống cộng sản", nhìn từ phía Nam, tất nhiên tôi sẽ đề cập đến huyền thoại "chống cộng".

2) Khi nêu lên ý tưởng: những danh từ như tổ quốc, nhân dân, chính nghĩa, tự do, quốc gia, dân tộc... đã được người ta lạm dụng và dày xéo quá nhiều, tôi viết với tâm cảm hòa hợp Nam Bắc:

a) qua cách dùng chữ: người ta có nghĩa là một số người nào đó, không nhất thiết Nam hay Bắc (Nếu không, tôi đã viết rõ: chính quyền miền Bắc)

b) qua cách pha trộn danh từ thông dụng (Tổ quốc... dân tộc...) của cả hai miền, vì đối với tôi, sáu danh từ trên đều là tiếng... Việt cả. Ngoài ra, tôi không nghĩ: vì miền Nam hay dùng chữ quốc gia, miền Bắc hay dùng chữ nước hay đất nước mà những từ đó thành độc quyền ngôn ngữ Nam Bắc, lại càng không thể là độc quyền ngôn ngữ của chính quyền Nam Bắc.

c) Theo Dương Thu Hương, "Chính quyền miền Bắc không bao giờ sử dụng những danh từ: Quốc Gia - Tự Do - Dân Tộc trong các khẩu hiệu được coi là tôn chỉ của cuộc chiến". Vậy thì những khẩu hiệu "Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một, sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý ấy không bao giờ thay đổi", "Không có gì quý hơn độc lập, tự do", "Vì độc lập, vì tự do, đánh cho Mỹ cút đánh cho ngụy nhào"... những khẩu hiệu ấy ở đâu ra? Nhắc lại những khẩu hiệu ấy ở đây không phải để phủ nhận chân lý nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một, nhưng để cùng nhau tự hỏi: có chân lý nào đáng giá hơn hai mươi năm cốt nhục tương tàn, với những đau thương, chia rẽ, hận thù... mà ngày nay dân tộc vẫn còn phải trả? Kể cả chân lý nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một.

Vì viết vội, nên tôi viết vụng chăng? (Tôi đã đọc Tiểu Thuyết Vô Đề và viết Tựa trong năm ngày, từ 22 đến 27/4/1991. Cùng trong tuần lễ đó, thực hiện một chương trình phát thanh về Dương Thu Hương trên RFI dài 24 phút và viết hai bài về đề tài Dương Thu Hương để kịp đi trên Thông Luận số ra ngày 1/5/1991). Khiến Dương Thu Hương không thấy dụng ý hòa hợp của tôi, khiến Dương Thu Hương phải vất vả, mất nhiều thì giờ giảng giải về những điều tôi muốn nói và đã viết?

 

2. Khi viết: "Dương Thu Hương là một hiện tượng hiếm có, một viên ngọc trong đám sình lầy đang ô nhiễm quê hương."

Trong mạch văn và trong bối cảnh bài viết, thiết tưởng không một người Việt nào đọc câu trên lại có thể gán cho nó ý nghĩa mạ lỵ dân tộc. Có cần phải giải thích: viên ngọc ở đây chỉ là những hình ảnh tượng trưng cho những thái độ quả cảm, đã trồi lên và sẽ còn trồi lên trên đất nước, mà Dương Thu Hương là một trường hợp, và sình lầy tượng trưng cho sự độc tài, chuyên chế, than nhũng gian dối, đàn áp tư tưởng... hay không?

Không nhận lời khen là quyền của mọi người. Nhưng xuyên tạc lời viết lại là chuyện khác.

 

*

 

Tóm lại, việc xuất bản Tiểu Thuyết Vô Đề đã xảy ra là do lòng tin tưởng vào một việc chung và tốt giữa ba người: anh X, tôi và thầy Từ Mẫn.

Trách nhiệm và Thương tổn. Tôi nhận. Nếu tôi có sai lầm trong sự nhiệt tình thì tôi đã được trả giá đúng mức.

Ngày nay thẩm định lại: Thử hỏi việc xuất bản ấy có hại hay có lợi cho tác phẩm?

Dù sao chăng nữa, đây cũng là một dịp đối thoại. "Khôn không qua lẽ, khỏe không qua lời", biết vậy mà lễ độ trí thức và cái chừng mực của con người vẫn không không cho phép tôi đẩy lời lẽ đến cùng.

© Copyright Thuy Khue 1992