Lịch sử truyền giáo và chữ quốc ngữ Chương 11.2 Trương Vĩnh Ký (1837-1898)
II- Sự phục hồi tên tuổi Trương Vĩnh Ký
Sau cái chết bất ngờ của Thống sứ Paul Bert ngày 11-11-1886, Trương Vĩnh Ký gần như bị loại khỏi môi trường thuộc địa. Ông sống những ngày còn lại trong nghèo túng bệnh hoạn và quên lãng của chính quyền thực dân cho đến khi qua đời. Thời gian đầu, một số bạn bè có nhã ý đưa ông vào quốc tịch Pháp, nhưng ông từ chối. Trong thư viết ngày 15-9-1888, cho Pène Siefert (cộng sự viên của Paul Bert) làm việc với ông tại Huế, và đã rời Việt Nam sang Tân Gia Ba[1], Trương Vĩnh Ký nói rõ những lý do khiến ông không nhập Pháp tịch: «Người ta viết cho tôi ba kỳ thư liền nay để bảo tôi nhập Pháp tịch (những bằng hữu săn sóc đến phận mệnh của tôi). Tôi quả quyết từ chối: 1- Tôi không đổi ý kiến. 2- Làm như vậy tôi hành động trái với huấn tắc (…) 3- Tôi sẽ bị người ta cho là nhu nhược (…). 4- Tôi sẽ không thể nào giúp ích cho nước Pháp, nước Pháp mà tôi là một phần tử và tôi phụng sự từ bấy lâu, vì lẽ nhập tịch dân Pháp, tôi sẽ mất hết cả uy danh, cả thế lực của tôi vì từ nay không còn tín nhiệm của Vua và Triều đình và dân tộc An nam.» (Nguyên văn tiếng Pháp: «Je ne serais plus jamais utile à la France, que je sers et à laquelle j'appartiens, car, étant naturalisé, je perdrais tout mon prestige, toute mon influence, n'ayant plus désormais la confiance du Roi, de la Cour et du peuple annamite[2]»). Người ta thường lấy lý do Trương Vĩnh Ký không vào quốc tịch Pháp, để chứng minh lòng yêu nước của ông, nhưng câu trích dẫn này chứng tỏ: dù bị bỏ rơi, ông vẫn nghĩ đến quyền lợi của nước Pháp nên ông không vào dân Pháp, bởi vì như thế ông sẽ không thể nào giúp ích cho nước Pháp, và ông vẫn coi mình là một phần tử của nước Pháp. Tuy nhiên trong một bài viết khác, ông trình bày những nguyên nhân sâu xa tại sao một người Việt không thể vào dân Pháp của ông (và của cả dân tộc Việt Nam), bài này sẽ nói đến sau.
Lê Thanh đã đọc nhật ký của Trương Vĩnh Ký, ông chép lại những dòng dưới đây, nhưng không chép hết câu, nên hơi khó hiểu, tuy vậy cũng cho biết tình trạng tuyệt vọng của ông, trong những năm tháng cuối đời: «Bị hai cái khánh tận, nhà in... nối nhà... mất hơn năm sáu nghàn đồng bạc. Phần thì sách vở bán không chạy, mắc nợ nhà in Rey et Curiol phần thì bị... phải bảo lãnh nợ cho nó hết hơn... Lại thêm phát... đau hư khí huyết...»[3].
Và sau cùng là bài thơ Trương Vĩnh Ký làm để kết toán đời mình: «Quanh quanh quẩn quẩn lối đường quai. Sô đẩy người vô giữa cuộc đời Học thức gửi tên con sách nát, Công danh rút cục cái quan tài, Dạo hòn lũ kiến men chơn bước, Bò sối con trùng chắc lưỡi hoài. Cuốn sổ bình sinh công với tội, Tìm nơi thẩm phán để thừa khai»[4].
Ông qua đời ngày 1-9-1898.
Trương Vĩnh Ký để lại một sự nghiệp văn học và lịch sử có ảnh hưởng lớn trong dân tộc, gồm hai phần: - Phục hồi và quảng bá chữ quốc ngữ, để thay thế chữ Hán, chữ Nôm, xoá bỏ hai mươi thế kỷ văn học Hán Nôm của người Việt và vô hiệu hoá tầng lớp trí thức nho học đang cai trị đất nước và chống Pháp. - Viết lại lịch sử về Minh Mạng và nhà Nguyễn, trong bộ Cours d'histoire annamite (Giáo trình lịch sử An Nam), hai tập, in năm 1875 và 1879. Bộ sử này được người Pháp khen thưởng, đặc biệt lời khen của nhà văn Ernest Renan, trong bản báo cáo hàng năm (đọc ngày 30-6-1880) tại Hội Á Châu, được các tác giả Việt Nam chép lại như một vinh dự lớn lao. Từ đó, thừa sai và sử gia Pháp đồng loạt sử dụng bô sử này để chứng minh: vì nhà Nguyễn «tham ô» và «tàn sát» đạo Chúa, nên người Pháp phải «can thiệp» để cứu nhân dân Việt Nam. Mặc dù ông bị chính quyền Pháp bỏ rơi, nhưng sách lịch sử và địa lý của ông, vì lý do đó, vẫn tiếp tục được phổ biến, sau khi ông qua đời, và trở thành «lịch sử»: - Đầu tiên là Linh mục Louis-Eugène Louvet, dựa vào sách Giáo trình lịch sử An nam để «tuyên bố» vua Minh Mạng là «bạo chúa Néron» trong bộ sách nổi tiếng La Cochinchine Religieuse (Đạo giáo ở nước Nam) (1885), ra đời sau sách của Trương Vĩnh Ký sáu năm. Louvet còn lượm lặt tất cả những thông tin bịa đặt về việc giết đạo, để «tố cáo» đạo Thiên Chúa bị «đàn áp bạo ngược» không ngừng ở Việt Nam trong 240 năm, từ thời Alexandre de Rhodes đến ngày nay, tức là từ 1644 đến 1884[5]. - Linh mục Cadière có «tài liệu» để xác nhận trong tập san Đô Thành Hiếu Cổ (Bulletin des Amis du Vieux Huế (BAVH) rằng tất cả thành trì ở nước ta [xây đắp dưới thời Gia Long và Minh Mạng] đều là thành Vauban do Olivier de Puymanel xây cả. Một vấn đề quan trọng không kém nữa là hầu hết cả các sử gia quốc ngữ, từ Trần Trọng Kim trở về sau, mặc dầu có đọc Đại Nam thực lục, nhưng không đọc kỹ các dụ cấm đạo, và cũng không tìm hiểu nguyên nhân sâu xa việc cấm đạo ở Á Châu (ở Nhật Bản từ 1614, và các nước khác từ 1645) là để trả lời việc cấm nghi lễ của Vatican trong ba thế kỷ, từ khi Giáo hoàng Inocent X (1644-1655) ra sắc lệnh cấm Nghi lễ và cấm thờ cúng tổ tiên đến năm 1939, Giáo hoàng Pie XII (1939-1958) mới bãi bõ sắc lệnh này. Vì không biết hay không tìm hiểu đến nguồn cội này, chỉ nhìn cái ngọn, nên sử gia người Việt đồng tình với sử gia thực dân, coi việc cấm đạo là hành động vô cớ và tàn ác của nhà Nguyễn, và cho đó là nguyên nhân chính của cuộc xâm lăng. Nói đúng ra, họ cũng không đọc sách sử của Trương Vĩnh Ký, mà chỉ chép lại những điều sách Tây chép lại Trương Vĩnh Ký. Thậm chí sử gia Nguyễn Thế Anh, mãi đến sau này, còn ghi con số «hai vạn giáo dân bị tàn sát hay lưu đầy» từ 1848 đến 1860 (thời Thiệu Trị và đầu đời Tự Đức) mà không điều tra đến nơi đến chốn, theo một nguồn tư liệu đáng tin cậy nào.[6] Vì vậy, ngoài trách nhiệm về việc truyền bá quốc ngữ theo đòi hỏi của thực dân, Trương Vĩnh Ký còn có trách nhiệm đối với những điều ông viết về lịch sử nữa. Nhưng trước khi nghiên cứu hai vấn đề chính này của Trương Vĩnh Ký, còn một câu hỏi không kém phần quan trọng cần tìm hiểu trước, đó là: Tại sao chính quyền thuộc địa phục hồi tên tuổi Trương Vĩnh Ký?
Tiến trình xây dựng nhà nước thực dân Đọc sách của các Toàn quyền Đông Dương, ta thấy ngay một điều mà trước đây 62 năm (1963) giáo sư Nguyễn Văn Trung đã nhận ra: «Tôi nghĩ rằng có một niềm tin và người Pháp đi thực dân dựa vào niềm tin đó để biện minh cho hành động xâm lăng thuộc địa. Đó là niềm tin họ có quyền xâm lăng và cái quyền này là tự nhiên; sở dĩ họ tin có quyền tự nhiên đi xâm lăng là vì một quan niệm kỳ thị chủng tộc mà bầu không khí văn hoá Âu châu đã nuôi dưỡng, kết đúc từ khi Âu châu bắt đầu liên lạc với các châu khác[7].» Đúng vậy, nếu bây giờ ta nhìn lại lịch sử xâm lăng Việt Nam, thì cái quyền xâm lăng này dẫn đến quyền tội ác và quyền gian dối, trong tiến trình hình thành nhà nước thực dân. Tháng 9-1848, Rigault de Genouilly đánh Đà Nẵng. Không thành công. Bèn xuống tấn công Sài Gòn. Chiếm được rồi, họ đoạt kho khí giới, đốt kho lương thực, đốt kho gạo, chiếm kho tàng và phá thành Gia Định thành bình địa. Đó là họ thực thi quyền tội ác. Nhưng họ cũng chưa làm gì được. Phải đến ngày 24 và 25-2-1861, Charner đem đại binh Pháp-Y, từ Trung Hoa xuống đánh Việt Nam gồm hơn 600 chiến thuyền, tập hợp với quân của Page, đã đóng tại Sài Gòn, tổng tấn công đại đồn Chí Hòa[8]. Nguyễn Tri Phương thua trận. Pháp bắt đầu chiếm được một phần của Nam Kỳ. Vấn đề di dân kiếm ăn, từ Hán-Việt gọi thực dân, Tây gọi là colon, mới đề ra, và những người đi kiếm ăn như thế, được gọi là người đi thực dân (chữ của Nguyễn Văn Trung). Ngay từ lúc đầu, họ đã để lộ chính sách văn hóa thực dân của họ và cũng từ đây Trương Vĩnh Ký bắt đầu cộng tác với họ trong việc thể hiện chính sách văn hóa thực dân này: Chiếm xong đồn Chí Hoà (tháng 2-1861), hai tháng sau (ngày 8-5-1861), Charner ký nghị định sáng lập Collège d'Adran (Trường Bá Đa Lộc) tức Trường Thông ngôn, do linh mục Croc là thông ngôn riêng của Charner đảm nhiệm. Năm 1866 giao cho Trương Vĩnh Ký điều khiển trong 22 năm đến khi trường đóng cửa năm 1888. Vậy Trương Vĩnh Ký là người thầy đầu tiên, sau các giáo sĩ, dạy cho nhiều lớp binh lính thực dân, học tiếng Việt, qua chữ quốc ngữ, để họ khỏi bị câm, bị điếc. Đó là công đầu. Lý do tiên quyết phải có ngay chữ quốc ngữ bằng mẫu tự La tinh, vì người đi thực dân không thể học chữ Nôm, chữ Hán, là thứ chữ rối mù với họ, nên bắt buộc phải có chữ quốc ngữ với mẫu tư La tinh quen thuộc, họ có thể nhận được mặt chữ và học được, ít nhất để ra lệnh và để kiểm soát hoàn toàn mọi việc (độc giả sẽ đọc những lời của Paulin Vial nói về quyết định này, ở phần sau). Không phải vì lòng tốt, họ muốn «khai sáng» dân ta, mà có chữ quốc ngữ, gần với văn học Pháp, dễ đọc, dễ học, như mọi người vẫn lầm tưởng. Đầu năm 1862, khi hòa ước Nhâm Tuất (5-6-1862) chưa ra đời, chính quyền thuộc địa cho phát hành tờ công báo bằng tiếng Pháp Bulletin officiel de l'expédition de Cochinchine (Nam Kỳ Viễn Chinh Công Báo). Tên tờ báo đã có chữ Viễn chinh (l'Expédition) không hề giấu diếm. Ta thấy ngay tầm quan trọng của chữ quốc ngữ: Người đi thực dân được học tiếng Việt qua chữ quốc ngữ trước, rồi mới có công báo tiếng Pháp, để họ đọc tiếng mẹ đẻ, sau. Năm sau, 1863, Grabriel Aubaret, được lệnh của Bộ trưởng Thuộc địa Chasseloup-Laubat dịch sách Gia Định Thành Thông Chí của Trịnh Hoài Đức sang tiếng Pháp[9], để trình với chính phủ Pháp sự giàu có của miền Nam, và để «xác định» rằng các thành trì ở Việt Nam là do Pháp xây. Đây là quyền gian dối công khai thực hiện trên sách vở [và trên các hòa ước nưã]. Aubaret khi dịch sách này ra tiếng Pháp đã làm ba việc: 1- Biến tên đích thực của cuốn sách: Gia Định thành thông chí (Ghi chép thông suốt về thành Gia Định) thành: Gia Định tùng chi (Gia định, nhiều chi họp lại). Không đề tên tác giả Trịnh Hoài Đức, mà để «Dịch theo bản chữ Hán». 2- Trong bài Nhập đề, Aubaret kết tội Trịnh Hoài Đức đã không ghi lại: cái công «Bá Đa Lộc mộ quân và mua súng đạn», và «các sĩ quan Pháp xây dựng quân đội cho Gia Long»: Những tin này do de la Bissachère sáng chế ra trong cuốn sách Ký sự Bissachère, in năm 1810, ở Paris (Đây là sự bịa đặt lần thứ nhất, 1810)[10]. Làm sao Trịnh Hoài Đức biết được «ơn nghiã trời biển bịa đặt này», để ghi lại trong Gia Định thành thông chí? Aubaret còn lớn lối «mắng mỏ» tác giả bằng những lời bịa đặt, vô lễ (đây là sự bịa đặt lần thứ hai, 1863) như sau: «Độc giả sẽ kinh ngạc thấy sự vong ân bội nghiã của tác giả [Trịnh Hoài Đức], không những không nói gì đến Bá Đa Lộc mà cũng không nhắc gì đến những sĩ quan lỗi lạc của Pháp mà Gia Long đã hoàn toàn dựa vào để khôi phục lại ngai vàng. Nhưng độc giả cũng đừng quên rằng, cuốn sách này được viết dưới triều Minh Mạng, ông hoàng bẩm sinh có tánh vô ơn, cho nên nếu [tác giả] viết theo đúng ý mình, thì có thể rất nguy hiểm […] Mục đích của chúng tôi khi dịch cuốn sách này, trước hết rất thực tiễn: là để giới thiệu một xứ đáng chú ý trên nhiều bình diện, về địa thế cũng như về sự giàu có của đất đai, có thể trở nên nguồn lợi tức quan trọng đối với nước Pháp». Gia Định thành thông chí là một tác phẩm có tính cách bách khoa, tương tự như Lịch triều hiến chương của Phan Huy Chú, nhưng viết riêng cho miền Nam, kê khai đầy đủ mọi địa hạt, đặc biệt về lịch sử thành trì và toàn bộ tài nguyên quan trọng của miền Nam. Trịnh Hoài Đức, Lê Quang Định và Ngô Nhơn Tĩnh, là ba học trò của Võ Trường Toản, ba học giả đầu tiên xuất hiện sau khi Nguyễn Ánh chiếm lại Gia Định. Lê Quang Định soạn Hoàng Việt Nhất Thống Điạ dư chí, bộ sách địa lý đầu tiên, làm xong năm 1806, dâng vua Gia Long, sau khi thống nhất đất nước. Gia Định thành thông chí là tác phẩm thứ nhì (được viết cùng lúc bắt đầu soạn Đại Nam thực lục theo chỉ dụ của vua Minh Mạng). Hai bộ sách này xác định địa dư và lịch sử miền Nam, khi chưa bị các tác giả thực dân viết sử giả của họ thay vào. Aubaret dịch Gia Định thành thông chí là bước đầu của tiến trình ngụy tạo lịch sử. Ngày 1-7-1863, dịch xong. 3- Không chỉ có dịch, Aubaret còn tự ý cắt bỏ chương quan trọng nhất là Thành trì chí, trong đó Trịnh Hoài Đức mô tả rất rõ tất cả các thành trì ở miền Nam, như thể ông vẽ bản đồ để trước mắt ta. Các đồn lũy lớn nhỏ, lớn như thành Gia Định, nhỏ như đồn Cá Trê, đồn Thảo câu... Luỹ Bán Bích... đồn trấn Vĩnh Long, An Giang, Châu Đốc... do ai đắp trong điều kiện như thế nào, nhất nhất đều được ghi lại rõ ràng[11]. Thành trì của nước ta dưới thời Gia Long đều đắp bằng đất nhưng rất bền bỉ, đó là kỹ thuật đắp thành ở Á châu, đến thời Minh Mạng mới xây thêm gạch ra ngoài. Không thể xoá đi và điền tên Olivier de Puymanel và Lebrun vào như Trương Vĩnh Ký đã làm và Nguyễn Đình Đầu nối gót đưa ra những bản đồ Pháp vẽ về sau, toàn là thành Vauban có răng cưa, để làm chứng! Việc này sẽ nói đến sau. Cần phải thêm rằng: Một người như Aubaret có thể gọi là «chuyên gia gian dối« được dùng làm thông dịch viên chính trong các buổi hòa đàm, cho thấy định hướng của chính phủ Pháp. Thực vậy, trước khi dịch sách Gia Định thành thông chí, Aubaret, Đại tá hải quân, từ năm 1862, đã được Bonard chỉ định làm thông ngôn chính thức cho cuộc điều đình hoà ước Giáp Tuất (1862) mà Phan Thanh Giản và Lâm Duy Thiếp ký nhường đứt cho Pháp ba tỉnh miền đông Nam Kỳ. Rồi năm sau (1863), vua Tự Đức sai Phan Thanh Giản đi Pháp điều đình chuộc lại ba tỉnh Gia Định, Biên Hoà, Định Tường, cũng lại Aubaret làm thông ngôn chính, tại Pháp. Pháp hứa hẹn sẽ trả lại ba tỉnh với số tiền «bồi thường» 80 triệu quan, sẽ bàn chi tiết và ký hiệp định ở Huế. Aubaret ký xong hòa ước 1864, ở Huế. Sáu ngày sau, nhận lệnh từ Pháp: giữ nguyên hòa ước Nhâm Tuất (1862), không trả ba tỉnh miền Đông. Aubaret sang Xiêm làm lãnh sự. Pháp chiếm nốt ba tỉnh miền Tây. Phan Thanh Giản làm Kinh lược sứ, không chống cự, trao thành, rồi uống thuốc độc tự vận. Về vai trò của Aubaret, Cultru cho rằng: Thừa sai thông ngôn Legrand de la Liraye (Cố Trường) cũng đi theo tầu Forbin [trong hòa đàm Nhâm Tuất, 1862], «nhưng có điều chắc chắn là từ thời Charner cũng như dưới thời Bonard, các thừa sai thông dịch viên không được sử dụng trong các cuộc hòa đàm. Aubaret là thông dịch viên chính, nhưng một mình Aubaret không đủ sức, chắc chắn phải có Trương Vĩnh Ký[12]». Aubaret đã thực hiện quyền gian dối trên các văn bản hòa ước, từ hòa ước Nhâm Tuất (1862) (mà kỳ trước chúng tôi nghi là Trương Vĩnh Ký làm) nay được biết Aubaret chủ động, Trương Vĩnh Ký đi theo. Linh mục Trương Bá Cần viết: «Nói tóm lại là Trương Vĩnh Ký đã được đào tạo trong một tình hình và trong một tâm trạng Công giáo bị vua quan nhà Nguyễn bách hại: trong ý nghĩa của các thừa sai cũng như của tất cả các giáo hữu Việt Nam lúc bấy giờ, vua quan nhà Nguyễn bị coi như là những kẻ thù của Công giáo. Bản thân Trương Vĩnh Ký đã phải chạy thoát chết trong vụ vây bắt ở Cái Mơm và Cái Nhum trong đêm 09-12-1858 (1). Qua những gì Trương Vĩnh Ký viết cho bạn bè trong bức thư ngày 04-12-1859 (…) việc Pháp và Tây Ban Nha đến đánh chiếm Việt Nam được coi như là cơ hội, có thể là ý Chúa, để đem bình an lại cho Giáo hội Việt Nam, tức thoát khỏi sự bách hại của vua quan nhà Nguyễn»[13]. Việc vì sao Trương Vĩnh Ký phải trốn chạy ở Cái Mơn sẽ nói đến sau. Ở đây chỉ xét câu văn của Trương Bá Cần. Vị Linh mục này nói khá rõ cái ý: «Việc Pháp và Tây Ban Nha đến đánh chiếm Việt Nam được coi như là cơ hội, có thể là ý Chúa, để đem bình an lại cho Giáo hội Việt Nam». Nhưng chúng tôi cho rằng câu: «việc đánh chiếm Việt Nam có thể là ý Chúa» do ông Trương Bá Cần nghĩ ra, cùng lắm là các thừa sai và giới thầy tu người Việt thân cận có thể nghĩ như thế, nhưng không thể coi đó là ý nghĩ của tất cả mọi người Công giáo Việt Nam. Bởi vì, khi quân Pháp-Y tấn công Đà Nẵng, giáo dân không hề nổi lên chống lại triều đình, như lời Giám Mục Pellerin cam kết với Rigault de Genouilly. Vì vậy ta càng phải thận trọng xem xét lại cái gọi là việc tàn sát giáo dân mà các thừa sai đưa ra với dụng ý của họ, chỗ nào xác thực, chỗ nào bịa đặt. Trở lại với sinh hoạt tinh thần của những người đi thực dân, mà chúng ta đang bàn: - Ngày 1-1-1864, Pháp cho ra đời tờ Courrier de Sài Gòn (Tây Cống Nhật báo). - Về phần Trương Vĩnh Ký, sau khi theo phái đoàn Phan Thanh Giản đi Pháp, trở về Sài Gòn tháng 3-1864, ông tiếp tục làm thông ngôn và dịch tài liệu cho tờ Le Courrier de Saigon. - Ngày 1-4-1865, Pháp ký nghị định cho xuất bản Gia Định Báo, tờ báo quốc ngữ đầu tiên, do Ernest Potteaux, thông ngôn của Soái phủ Nam Kỳ làm chủ bút. Đến ngày 16-9-1869, ký nghị định cho Trương Vĩnh Ký đảm nhiệm[14].
Mở trường học Khi Pháp chiếm xong Lục tỉnh, triều đình phải ký hòa ước Giáp Tuất (1874) nhường đứt cho Pháp sáu tỉnh Nam kỳ, chính quyền Pháp đã nắm chắc thành quả xâm lăng, số người đi thực dân bắt đầu đáng kể, họ quyết định xây trường trung học cho con cái những người này: Năm 1874, Thống đốc Duperré mở trường trung học dành riêng cho con cái các gia đình thực dân (enfants des colons) ở Sài Gòn, đường Chasseloup-Laubat (nay là Nguyễn Thị Minh Khai) mới đầu gọi là Le collège indigène (Trường trung học cấp 1 bản xứ). Năm 1877, đổi tên là Collège Chasseloup-Laubat, để tưởng niệm nhà thực dân khét tiếng Prosper de Chasseloup-Laubat, Bộ trưởng Hải quân và Thuộc địa (1860-1867) đã qua đời năm 1873; năm 1927, được nâng thành Lycée Chasseloup-Laubat [Lycée là Trường Trung học dạy tới tú tài]. Không rõ năm nào cấp quota 20% cho người bản xứ -có quốc tịch Pháp và một số qua thi tuyển đặc biệt- được vào học. Học sinh nổi tiếng nhất của trường Chasseloup-Laubat là nhà cách mạng Nguyễn An Ninh. Năm 1958 trường đổi tên là Jean-Jacques Rousseau và năm 1970 trở thành Lê Quý Đôn.
Nửa thế kỷ sau khi lập trường trung học cho con cái các gia đình thực dân, năm 1925, Toàn quyền Varenne xây trường trung học đầu tiên cho người bị trị[15] ở Chợ Quán, được coi là chi nhánh của trường Chasseloup-Laubat, do kiến trúc sư Hébrard de Villeneuve thiết kế, khai giảng tháng 9-1927, với tên Lycée Pétrus Trương Vĩnh Ký còn được gọi là Lycée Pétrus Ký (Hiệu trưởng là người Pháp đến năm 1947). Branchard de la Brosse đặt tên trường là Petrus Trương Vĩnh Ký, «nhà bác học lừng danh cuối thế kỷ XIX» (savant éminent à la fin du XIXe siècle)[16]. Branchard de la Brosse là một bộ mặt thực dân lâu đời, đăng lính viễn chinh từ năm 1905, leo dần các thang bực: Trưởng phòng Chính trị của Albert Sarraut, Giám đốc Học chính, Thống sứ Nam Kỳ. Trường Petrus Ký được xây từ 1925 đến 1927, dưới thời Toàn quyền Varenne. Việc xây dựng và khánh thành trường Pétrus Ký tưởng như nằm trong chính sách «cải tiến giáo dục» cho người dân bị trị, theo chính sách Pháp Việt đề huề của Toàn quyển Albert Sarraut, kỳ II (1916-1919), nhưng nếu nhìn kỹ hơn, sẽ thấy ý đồ không hoàn toàn cao thượng như vậy.
Sự hồi phục tên tuổi Trương Vĩnh Ký Đến đây, một câu hỏi quan trọng cần nêu ra: Tại sao sau ba mươi chín năm bị quên lãng (1886-1925), Trương Vĩnh Ký lại được chính phủ thực dân phục hồi tên tuổi dưới danh nghiã Nhà ái quốc và Nhà bác học? Thực vậy, ông bị cách chức cuối năm 1886, và ông qua đời 12 năm sau (1898), tiếp đó, trong 27 năm im lặng, không có tiếng vang gì. Bỗng năm 1925, xuất hiệu cuốn sách của Jean Bouchot, tựa đề: Un savant et un patriote cochinchionois - Petrus J.B Truong Vinh Ky (1837-1898) (Một nhà bác học và nhà ái quốc Nam Kỳ- Trương Vĩnh Ký (1837-1898). Đây là tác phẩm đầu tiên viết về Trương Vĩnh Ký, nội dung vinh danh khác thường với những chữ nhà ái quốc, nhà bác học. Sách được tái bản trong hai năm kế tiếp, 1926 và 1927. Năm 1927, thêm hai sự kiện quan trọng khác: Dựng tượng Trương Vĩnh Ký ở đường Norodom (nay là Lê Duẩn) ngang dinh Thống đốc Nam Kỳ (nay là dinh Độc Lập). Nhân dịp khánh thành trường trung học Pétrus Trương Vĩnh Ký, ở Chợ Quán, trường trung học lớn nhất Việt Nam, Đặng Thúc Liêng có cuốn Trương Vĩnh Ký hành trạng viết xong đã lâu, nay lấy ra «in 10.000 bổn đặng dưng [dâng] cho công chúng tường lãm» (Tựa). Tóm lại, Trương Vĩnh Ký được phục hồi năm 1925, với việc cho in cuốn Một nhà bác học và nhà ái quốc Nam Kỳ- Trương Vĩnh Ký (1837-1898) của Jean Bouchet, và năm 1927, được lập tượng đài và cùng trong năm này lấy tên Trương Vĩnh Ký đặt cho trường trung học đầu tiên[17] dạy người bản xứ, lớn nhất nước. Thời gian này Đông Dương ở dưới sự cai trị của Toàn quyền Varenne, nhưng có thể Paul Branchard de la Brosse là người «cầm cân nẩy mực» tinh thần, bởi vì Varenne, ngày 18-11-1925 mới nhậm chức. Trong khi, Branchard de la Brosse, ở tại chỗ, và lại là Giám đốc Học chánh (1925), rồi Thống sứ Nam kỳ (1926-1929). Những «ưu đãi về giáo dục» trên đây, chắc do Branchard de la Brosse, cựu Trưởng phòng Chính trị của Albert Sarraut, tiếp tục thực hiện chương trình giáo dục Pháp Việt đề huề của Albert Sarraut, nhưng mọi việc cũng không phải tình cờ xẩy ra mà có liên hệ sâu xa với những biến cố lịch sử thời ấy.
Nguyễn An Ninh (1900-1943)
Ngày 19-6-1924, Phạm Hồng Thái bỏ bom ám sát hụt Toàn quyền Merlin ở Sa Diện (Quảng Châu). Merlin (1923-1925) dù có tàn bạo, nhưng ông ta cũng chỉ theo chân những người đi trước, đặc biệt Toàn quyền Albert Sarraut (đảng Xã hội), với hai nhiệm kỳ (1911-1914) và (1916-1919). Albert Sarraut, là một vị toàn quyền lớn, ngang tầm vóc với Paul Doumer. Sarraut đã sáng chế ra chủ thuyết «Pháp-Việt đề huề» (mà Paul Bert đã chớm nghĩ vài chục năm trước nhưng chưa kịp thực hiện), thành một «học thuyết» mới. Trước tiên, Sarraut thành thực «nhận lỗi»: Ngày trước chúng ta đi thực dân chỉ biết dùng bạo lực để kiếm ăn. Bây giờ không thể tiếp tục như thế được, phải «yêu mến nhân dân thuộc địa», vì An Nam có một nguồn cội văn hóa lớn rất giống La Mã cổ của chúng ta, vì thế ta phải có chính sách hợp tác (politique d'association), và thực hiện đường lối Pháp Việt đề huề (Entente Franco-Annamite) như «chim liền cánh như cây liền cành». Nước Pháp, tác giả bản tuyên ngôn quốc tế nhân quyền, đầy lòng nhân đạo vị tha, phải theo «sứ mệnh thực dân» (vocation coloniale) để «khai hoá» (civiliser) các dân tộc kém cỏi, sẵn sàng dơ tay kéo họ [dân Việt Nam] ra khỏi vũng bùn lầm than đói rách, bị bọn quyền thần bóc lột (như Paul Bert đã hứa từ năm 1886, mà chưa kịp làm thì rủi thay bị chết, khiến Trương Vĩnh Ký suốt đời tin tưởng và tiếc nuối). Vậy mà ở Paris lại có bọn «phản động» Ngũ Long (Phan Văn Trường, Phan Châu Trinh, Nguyễn Thế Truyền, Nguyễn An Ninh, Nguyễn Tất Thành), tháng 6-1919 dám công bố Bản Thỉnh nguyện của dân tộc An Nam (Les revendications du peuple annamite) ký tên Nguyễn Ái Quấc, mở đầu cuộc cách mạng hiện đại bất bạo động công khai đầu thế kỷ XX bằng ngòi bút, chống Pháp trên đất Pháp, rồi tới những bài báo châm biếm sắc sảo ký tên Nguyễn Ái Quốc đăng trên các báo phe tả ở Paris mà Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền, Nguyễn An Ninh, thay phiên nhau chấp bút từ 1919. Thực ra, từ năm 1912, luật sư Phan Văn Trường đã lập ra Hội Đồng Bào Thân Ái ở Paris, với Phan Châu Trinh và Nguyễn Thế Truyền. Albert Sarraut lúc ấy đang làm Toàn quyền ở Hà Nội, lập tức ra lệnh lùng bắt gia đình Phan Văn Trường, bắt người anh cả Phan Tuấn Phong, trí thức nho học, cùng với con trai ông, 13 tuổi Phan Trắc Cư và người em thứ Phan Trọng Kiên, vì tìm thấy những «thư từ liên lạc với ông Trường», cho đi đầy chung thân biệt xứ ở Nouvelle Calédonie. Mãi sau nhờ luật sư Marius Moutet can thiệp mới đước trở về. Đồng thời Albert Sarraut viết thư về Bộ thuộc địa tường trình họat động của Hội Đồng Bào Thân Ái và xin Bộ trưởng hạ lệnh theo dõi Phan Văn Trường chủ tịch hội này[18]. Khoảng 1922, nhóm Ngũ Long quyết định trở về tranh đấu tại nước nhà, trừ Nguyễn Tất Thành đi Nga, ký tên Nguyễn Ái Quốc thêm một thời gian nữa, sau đổi thành Hồ Chí Minh. Nguyễn An Ninh, sang Pháp du học năm 1918, làm người mẫu kiếm tiền, học xong cử nhân luật, về nước tháng 10-1922. Đêm 15-10-1923, diễn thuyết ở hội Khuyến học Sài gòn bài Cao vọng thanh niên, đòi tự do dân chủ cho người Việt y như người Pháp, có tiếng vang lớn, bị Thống đốc Nam kỳ Cognacq gọi lên cảnh cáo. Ngày 10-12-1923, Ninh phát hành số báo La Cloche Fêlée (Chuông Rè) đầu tiên, tự mình đem đi bán dạo ngoài đường với dầu cù là. Rồi lại sang Pháp đón các đàn anh về nước. Phan Văn Trường về ngày 21-1-1924, ngày 6-2-1925, lập văn phòng luật sư và làm tờ Chuông Rè với Nguyễn An Ninh. Ngày 28-5-1925, Ninh sang Pháp đón Phan Châu Trinh về nước, cụ Phan qua đời ngày 24-3-1926 tại Sài Gòn. Ngày 8-8-1927, Ninh lại sang Pháp đón gia đình Nguyễn Thế Truyền về nước, tới Sài Gòn ngày 7-2-1927[19]. Chính sách Pháp Việt đề huề của Albert Sarraut được Phan Châu Trinh, dù không đọc được tiếng Pháp, tin tưởng và thích lắm, ông thường «mắng mỏ» bọn trẻ (Truyền, Ninh) viết báo ký tên Nguyển Ái Quốc nói bậy; ông thường đến văn phòng Bộ thuộc địa, xin điều này điều nọ, Phan Văn Trường khuyên không được, sau hai người giận nhau luôn. Trên báo Chuông Rè, Nguyễn An Ninh viết bài chế diễu Pháp-Việt đề huề là Culte du bluff (Đạo Xạo), Phan Văn Trường viết bài Les chiffons de papiers Franco-Annamite (Giấy rác Pháp-Việt) và La Plaisanterie de l'entente franco-annamite) (Chuyện diễu Pháp-Việt đề huề), tố cáo chính sách lừa bịp của Albert Sarraut. Những hoạt động sôi nổi này tiến hành trong thời điểm (1925-1927) thời kỳ Varenne làm Toàn quyền. Nguyễn An Ninh trẻ nhất trong nhóm, tiểu sử «gần giống» Trương Vĩnh Ký, tức là thủa nhỏ cũng học chữ nho với cha và cô [Cha là cụ Nguyễn An Khương, Đông Kinh Nghiã Thục] học Pháp văn ở trường Sở Cọp (gần vườn Bách Thú), rồi trường Dòng Tabert và Lycée Chasseloup-Laubat. Năm 1918, đi Pháp, học luật, viết báo, làm người mẫu. Năm 1922, trở về, thành nhà cách mạng bất bạo động kiên cường nhất trong thế hệ ông: 5 lần bị bắt, bị cầm tù. Lần 1: bị bắt ngày 20-3-1926, bị kết án 18 tháng tù vì tội phá rối trị an, làm báo Chuông Rè và rải truyền đơn xúi dân làm loạn. Lần 2: Tháng 9-1928: bị kết án ba năm tù về tội lập hội kín [đảng] Nguyễn An Ninh, quy tụ 500 người. «Đảng viên» Phan Văn Hùm, bị bắt, viết tác phẩm bất hủ Ngồi tù khám lớn. Lần 3: Tháng 4-1936, lại bị bắt về tội viết báo La Lutte (Tranh đấu) với nhóm Trốt kít Tạ Thu Thâu, Nguyễn Văn Tạo. Bị kết án 18 tháng tù. Lần 4: Tháng 7-1937, bị bắt, bị kết án 5 năm tù, 5 năm biệt xứ, về tội tổ chức biểu tình ở quận Càn Long «xúi dục dân chúng nổi loạn», tháng 1-1939, được ân xá. Lần 5: Ngày 5-10-1939, đệ nhị thế chiến bùng nổ, bị bắt cùng tất cả các tổ chức cách mạng khác, bị kết án 5 năm tù, 10 năm biệt xứ. Lần này nhà cách mạng Nguyễn An Ninh không thoát khỏi tử thần, ông mất ngày 14-8-1943, ở tuổi 43, tại Côn Đảo.
Nguyễn An Ninh và Trương Vĩnh Ký Toàn quyền Varenne sang Đông Dương, trong lúc nhóm Nguyễn An Ninh-Phan Văn Trường hoạt động sôi sục nhất. Alexandre Varenne, sinh năm 1870, xuất thân luật sư và nhà báo, năm 1901, vào đảng Xã Hội của Jean Jaurès, viết báo L'Humanité từ 1902, chủ trương ôn hoà, bênh vực dân thuộc địa. Sau khi Merlin bị ám sát hụt, ngày 28-7-1925, Varenne được bổ nhiệm Toàn quyền Đông Dương (từ 18-11-1925 đến 22-8-1928). Ông tuyên bố sẽ sửa đổi hoàn toàn chính sách cai trị. Đến Việt Nam, việc đầu tiên là ân xá cho Phan Bội Châu (ngày 24-12-1925); nhưng ba tháng sau, ông hạ lệnh bắt Nguyễn An Ninh lần thứ nhất, ngày 20-3-1926. Nguyễn Thái Học, cũng đã viết nhiều thư cho Varenne kêu gọi cải cách. Không được hồi âm và cũng không thấy dấu hiệu thay đổi, tháng 12-1927, Việt Nam Quốc Dân Đảng họp đại hội lần đầu. Ngày 9-2-1929, trùm mộ phu Bazin bị ám sát (ngoài lệnh của Quốc Dân Đảng). Ngày10-6-1930, khởi nghiã Yên Bái. Ngày 7-6-1930 Nguyễn Thái Học và 12 đồng chí lên đoạn đầu đài. Việc duy trì chế độ mộ phu tàn ác, tiêu diệt cuộc khởi nghiã Yên Bái, đàn áp phong trào Xô Viết Nghê Tĩnh, ở dưới thời hai toàn quyền Varenne (1925-1928) và Pasquier (1928-1934). Như vậy, người của đảng nào lên nắm chức Toàn quyền Đông Dương cũng phục vụ quyền lợi của nước Pháp: họ không phục vụ quyền lợi người bản xứ, như Trương Vĩnh Ký lầm tưởng và kêu gọi: Phải hết lòng dơ cả hai tay ra nắm lấy tay người Pháp, để họ cứu ta ra khỏi vũng lầy. Nhất là Paul Bert đã viết rõ điều này trong thư gửi cho Trương Vĩnh Ký ngày 29-6-1886: «Pháp-quốc không bao giờ chịu bỏ xứ nầy mà về đâu; đừng có trông mong như vậy mà lầm lạc (…) dầu bên phương Tây có nổi giặc, chúng tôi cũng không lui bước được (...) mà chừng thái bình rồi, thì chúng tôi sẽ chinh phục lại còn dữ dội hơn nữa»[20]. Việc này sẽ xẩy ra đúng như vậy: Pháp bị Đức chiếm năm năm, khi được đồng minh giải phóng, việc đầu tiên của De Gaulle là sai Leclerc đổ bộ chiếm lại Sài Gòn, và đánh ra Bắc. Varenne không thể làm khác: một tay ông «phục hồi» Trương Vĩnh Ký, tay kia ông «bắt» Nguyễn An Ninh, chiến lược của ông vô cùng khôn khéo, nhất là việc ông cho «phục hồi» Trương Vĩnh Ký cũng chỉ là chiến thuật lâu dài để dẹp tan lòng ái quốc của người bị trị:
1- Công bố cuốn sách Trương Vĩnh Ký, Nhà bác học và Nhà ái quốc người Nam Kỳ của Jean Bouchot, làm phần thưởng tinh thần quý giá cho dân tộc bị trị tưởng mình có một «nhà bác học lừng danh khắp năm châu». Bouchot có chỗ đã đùa cợt nói mỉa: Trương Vĩnh Ký là quan Tây, nên có giá trị hơn nhiều vì người Việt chỉ sợ quan Tây, chứ không trọng quan Việt. Đúng như thế, cuốn sách của Bouchot đã được các tác giả Việt Nam coi như Thánh kinh, cũng vì «quan Tây» viết, «quan Tây» khen, nên họ thay phiên nhau chép lại, mà không kiểm chứng, cho tới ngày nay.
2- Mở trường Trung học đầu tiên và lớn nhất nước, tại Sài Gòn, cho người dân bị trị, để vinh danh «nhà bác học» theo Pháp Trương Vĩnh Ký và triệt hạ «kẻ phản động» chống Pháp Nguyễn An Ninh. Sự đề cao tinh thần «Pháp-Việt đề huề» của Trương Vĩnh Ký (trước Albert Saraut ba mươi năm) nay Varenne lấy ra dùng lại, tuy không dụ được Nguyễn An Ninh, nhưng đã thành công mỹ mãn đối với những người khác: các trí thức học giả, từ Nam ra Bắc, hầu hết đều ca tụng con đường hoà bình cộng tác với Pháp của Trương Vĩnh Ký. Việc đặt tên trường trung học lớn nhất nước là Trương Vĩnh Ký, còn là đòn quyết tử đánh vào thanh niên: những người học trường này, trừ một số rất ít, phần đông sẽ đi theo con đường «ôn hoà» và cộng tác của Trương Vĩnh Ký (mấy ai theo Nguyễn An Ninh để bị tù đày và chết trong ngục), họ sẽ bảo vệ tên tuổi của nhà «bác học» mà họ được hân hạnh học trường mang tên thầy, đến cùng. Tóm lại, ba điểm: - Đổ tội cho nhà Nguyễn làm mất nước vì giết đạo để bênh vực cuộc xâm lăng. - Dùng chữ quốc ngữ để xoá ký ức dân tộc về hai ngàn năm văn hoá chữ Nôm và chữ Hán. - Loại bỏ thành phần nho học khỏi vị trí cầm đầu việc cai trị và giữ nước. Ba điểm này trở thành căn bản, đã đắc lực giúp Pháp từ những ngày đầu cuộc xâm lăng, và trong những năm sau đó, con đường hợp tác Pháp-Việt của Trương Vĩnh Ký tiếp tục phát triển, rồi nhờ chiến sách kinh tế tài tình của Toàn quyền Paul Doumer (1897-1902) [ngay sau khi Trương Vĩnh Ký qua đời (1898)] đã mở xưởng nấu thuốc phiện ở tại Sài Gòn và xưởng cất rượu trên toàn quốc, để người đi thực dân được độc quyền khai thác rượu và ma tuý, đem lại nguồn lợi khổng lồ cho họ và cho mẫu quốc, đồng thời sản xuất ra một dân tộc, từ quan đến dân, bò lê bò càng vì nghiện ngập nha phiến, được mô tả cực kỳ nghệ thuật trong tiểu thuyết của Nguyễn Tuân. Việc xây dựng chế độ thực dân, như vậy, nhờ bàn tay của Doumer đã đạt tới đỉnh điểm, đem lại cho nước Pháp một nguồn lợi khổng lồ, và một dân tộc nghiện á phiện thì không bò dậy «phản kháng» ai được, cho nên từ Paul Doumer, người ta đã không cần đến Trương Vĩnh Ký làm tay sai nữa. Nhưng từ khi có cuộc cách mạng hiện đại bất bạo động dấy lên ở Pháp với nhóm Ngũ Long và ngòi bút Nguyễn Ái Quốc, tình hình đổi khác, nhất là, trước sự chống Pháp kiên trì, thông minh, trí thức của những người trẻ tuổi, từ Nguyễn An Ninh, đến Phan Văn Hùm, Tạ Thu Thâu sau này, Pháp thấy cần phải có một bộ mặt «phản cách mạng» để đối đầu. Trong bối cảnh này, Trương Vĩnh Ký được chính quyền thực dân khai quật trở lại, với một mục đích chính xác. Và trong giai đoạn thứ hai này, mặc dù Trương Vĩnh Ký qua đời từ 1898, tác động văn học và lịch sử của ông vẫn còn mạnh mẽ, nhờ tài quản trị tư tưởng của chính quyền thực dân.
Jean Bouchot và chân dung Trương Vĩnh Ký Nhờ cuốn sách Un savant et un patriote cochinchionois - Petrus J.B Truong Vinh Ky (1837-1898) (Một nhà bác học và nhà ái quốc Nam Kỳ- Trương Vĩnh Ký) của Jean Bouchot mà chúng tôi có thể viết những trang sau này[21] Đây là tác phẩm đầu tiên và đầy đủ nhất về Trương Vĩnh Ký, sau nửa thế kỷ bị quên lãng. Người nào trong chính phủ thực dân đã «đỡ đầu» cho quyển sách này? Đó là một câu hỏi chưa có câu trả lời dứt khoát, bởi vì chúng tôi chưa có đủ thông tin chắc chắn để xác định. Chỉ biết rằng năm sách ra đời là 1925, nhưng chưa biết rõ tháng nào. Thời kỳ đó, có nhiều thay đổi về nhân sự trong phủ toàn quyền. Henri Merlin làm toàn quyền từ tháng 8-1922. Ngày 19-6-1924 bị Phạm Hồng Thái ám sát hụt. Tháng 4-1925 bị chính phủ Pháp gọi về. Montguillot tạm thời thay thế, từ tháng 4-1925 đến tháng 11-1925 Varenne sang nhậm chức. Vậy có thể Merlin đã nghĩ ra việc in cuốn sách Trương Vĩnh Ký của Bouchet này, để mở đầu chương trình phục hồi Trương Vĩnh Ký, nhưng không chắc, Merlin có khả năng để làm việc này chăng? Lúc ấy Varenne chưa sang. Vậy aỉ? Chúng tôi nghĩ rằng, rất có thể là Paul Branchard de la Brosse đã điều khiển mọi việc, bởi vì ông đến Việt Nam từ 1905 (đi lính viễn chinh). Trước khi làm Giám đốc Học chánh (1925) và Thống sứ Nam kỳ (1926-1929), ông đã làm Giám đốc Chính trị cho Toàn quyền Albert Sarraut. Vậy có nhiều khả năng tác phẩm Un savant et un patriote cochinchionois - Petrus J.B Truong Vinh Ky (1837-1898) của Jean Bouchot do ông chỉ đạo. Việc Branchard de la Brosse chọn tên trường Petrus Trương Vĩnh Ký «nhà bác học lừng danh cuối thế kỷ XIX» (savant éminent à la fin du XIXe siècle), được ghi trong lịch sử của trường, có gì rất gần cận với tinh thần cuốn sách này. Lại chọn Jean Bouchot, một nhân viên Quản lý văn khố, làm tác giả, chứng tỏ ông muốn đánh vào thành phần trí thức, bằng lối viết hàn lâm, nghiêm túc. Ông ở Việt Nam lâu năm, nắm được «tinh thần» dân tộc này, nên ông khuyến khích tác giả nhắm vào nhược điểm của kẻ bị trị: tạo ra một «nhà bác học giả tưởng» để thoả mãn lòng mong ước của cả một dân tộc. Và ông đã đánh trúng, nên tác dụng của nó còn kéo dài đến ngày nay. Ngoài bìa sách, ghi rõ tên và chức vụ của tác giả: Jean Bouchot, Archiviste du Gouvernement de la Cochinchine-Correspondant de l'Ecole Française d'Extrême-Orient (Jean Bouchot, Quản lý văn khố của chính phủ Nam Kỳ- Cộng tác viên Trường Viễn Đông Bác Cổ). Trong bài Tựa, Jean Bouchot cho biết: ông đã gặp Nicolas Trương Vĩnh Tống, và được ông Tống mở kho văn khố gia đình, vì vậy, sách của ông dựa vào hai nguồn: Văn khố gia đình (Archives de la famille) và Văn khố Nam Kỳ (Archives de la Cochinchine). Xin nhắc lại: cho đến ngày nay, hầu như tất cả các sách và bài viết về Trương Vĩnh Ký đều dựa vào tác phẩm này, nhưng ít khi ghi rõ xuất xứ. Đáng chú ý hơn nữa, là phần lớn các tác giả đều chỉ chép lại những đoạn về tiểu sử thời thơ ấu, về sự thông minh lạ thường, «biết 26 thứ tiếng», trở thành «nhà bác học lừng danh được thế giới công nhận». Còn những trang Bouchet kết án triều đình «tàn sát giáo dân», «dại dột ngu xuẩn chống Pháp» khiến cho «nhân dân phải lầm than», và những hoạt động trung thành với Pháp của Trương Vĩnh Ký, trong thời điểm khắc nghiệt nhất của cuộc chiến xâm lăng, đều được bỏ qua, để tạo ra một Trương Vĩnh Ký «học giả yêu nước phục vụ dân tộc», trắng như tờ giấy. Vậy việc ngụy tạo lịch sử không chỉ ở phía những ngòi bút thực dân mà chính người Việt cũng góp phần đắc lực vào.
(Còn tiếp) [1] Theo thư của Trương Vĩnh Ký viết cho BS Chavanne, tháng 10-1887, in trong Trương Vĩnh Ký (con người và sự thật) của Nguyễn Văn Trấn, Nxb Ban Khoa Học Xã hội Thành uỷ Thành phố Hồ Chí Minh, 1993, trang 161. [2] Thư gửi Pène Siefert ngày 15-9-1888, in trong sách Un savant et un patriote cochinchionois - Petrus J.B Truong Vinh Ky (1837-1898) (Một nhà bác học và nhà ái quốc Nam Kỳ- Trương Vĩnh Ký) của Jean Bouchot, trang 90). Lê Thanh dịch lá thư này, in lại trong Trương Vĩnh Ký-Biên khảo, Phổ thông Chuyên san, Tân Dân, 1941, trang 26-27. [3] Lê Thanh, Trương Vĩnh Ký-Biên khảo, Phổ thông Chuyên san, Tân Dân, 1941, trang 68. [4] Lê Thanh, Trương Vĩnh Ký-Biên khảo, trang 69. [5] Louvet, Đạo giáo ở nước Nam, quyển I, Nxb Ernest Leroux, Paris, 1885, trang 239-241. [6] Nguyễn Thế Anh, Việt Nam dưới thời Pháp đô hộ, Lửa Thiêng, Sài gòn, 1970, trang 17-18. [7] Nguyễn Văn Trung, Chủ nghiã thực dân Pháp ở Việt Nam, Nam Sơn, Sài gòn, 1963, trang 98. [8] Georges Taboulet La Geste Française en Indochine, tome II, trang 459. [9] Xem Vua Gia Long và người Pháp, Thụy Khuê, trang 266-335. [10] Sự bịa đặt này được hầu như tất cả các sử gia thực dân chép lại. (Xem Vua Gia Long và người Pháp, Thụy Khuê, Chương 9: Ký sự Bissachère, thủy tổ sự bóp méo lịch sử, trang 215-232). [11] Xem Vua Gia Long và người Pháp, Thụy Khuê, trang 266-335. [12] Cultru, Histoire de la Cochinchine Francaise, Paris 1916, trang 79. [13] Trong chú thích số (1) trang 593, Trương Bá Cần ghi: «Trong bức thư 04-02-1859, khi viết về cuộc vây bắt ở Cái Mơn đêm 09-12-1858, Trương Vĩnh Ký viết: «Chúng tôi chạy trốn, cha Quyền Đại diện Tông tòa (tức Thừa sai Borelle đang ở Cái Mơn) và tôi, chạy trốn vào rừng», Trương Bá Cần, Cuốn sổ bình sanh của Trương Vĩnh Ký, in lại trong Petrus Ký nỗi oan thế kỷ của Nguyển Đình Đầu, trang 593. [14] Theo bài Gia Định Báo của Trần Văn Chi, in trong Kỷ yếu Triển lãm và Hội thảo Trương Vĩnh Ký, Ban tổ chức xuất bản năm 2019, tại California, trang 37 và 39. [15] Trường áo tím, dành cho nữ sinh, khánh thành năm 1915, sau đổi thành trường Gia Long, ban đầu chỉ có cấp Tiểu học, và không bao giờ có tầm quan trọng như trường Petrus Ký. [16] Theo Wikipédia tiếng Pháp, mục từ Lycée d'élite Le Hong Phong. [17] Như đã chú thích ở trên: Trường áo tím, dành cho nữ sinh, khánh thành năm 1915, chỉ là trường Tiểu học, và khi trở thành trường trung học, cũng không bao giờ có tầm quan trọng như trường Petrus Ký. [18] Xem Thụy Khuê, Phong trào Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc, Nxb Tiếng Quê Hương, Viginia, 2012, Chương 17: Hội Đồng Bào Thân Ái, phong trào ái quốc đầu tiên tại Pháp, trang 479-532. [19] Về hoạt động của nhóm Ngũ Long xin xem Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc, Thụy Khuê, Nxb Tiếng Quê Hương, Virginia, 2012, trang 479-565. [20] Nguyễn Văn Trấn, Trương Vĩnh Ký (con người và sự thật) của Nguyễn Văn Trấn,trang 68-69. [21] Chúng tôi có được cuốn sách Un savant et un patriote cochinchionois - Petrus J.B Truong Vinh Ky (1837-1898) (Một nhà bác học và nhà ái quốc Nam Kỳ- Trương Vĩnh Ký) của Jean Bouchot là nhờ sự giúp đỡ của chị Phạm Lệ Hương, chuyên gia thư viện, sau khi đọc kỳ trước về Trương Vĩnh Ký, thấy chúng tôi không có cuốn sách này, đã gửi cho một bản. Xin thành thật cảm ơn chị. Bản pdf của sách này do nhà xuất bản Nguyễn Văn Của in tại Sài Gòn năm 1927.
|