Lịch sử truyền giáo và chữ quốc ngữ Chương 11.3 Trương Vĩnh Ký (1837-1898)
III- Vinh dự lầm than
Cuốn sách tựa đề Un savant et un patriote cochinchinois - Petrus J.B Truong Vinh Ky (1837-1898) (Một nhà bác học và nhà ái quốc Nam Kỳ - Petrus J.B Trương Vĩnh Ký 1837-1898) của Jean Bouchot, xin gọi tắt Petrus J.B Trương Vĩnh Ký, là tác phẩm duy nhất đầy đủ mà người ta cần đến để nghiên cứu về Trương Vĩnh Ký, đồng thời cũng là cuốn sách nguồn cội của những sai lầm, được viết với chủ đích tôn sùng một nhân vật, rồi những người sử dụng cũng chọn trích dẫn những câu, những đoạn «thích hợp» với quan điểm của họ về Trương Vĩnh Ký, cho nên không hẳn đã phục vụ sự thực lịch sử. Ở đây, chúng tôi dùng sách này để làm ba việc: - Bổ sung những thiếu sót trong phần tiểu sử đầu tiên viết về Trương Vĩnh Ký. - Trình bày cách viết của Jean Bouchot để thấy «cái nhìn thực dân» về những sự kiện lịch sử. - Đọc tác phẩm với tinh thần phê bình: Dùng những thông tin khả tín và chỉ ra những chỗ bịa đặt hoặc vô lý, mà phần đông những người nghiên cứu Trương Vĩnh Ký đã đọc, đã im lặng chấp nhận và đã chép lại.
Về việc «tàn sát» đạo Chúa: Gia đình Trương Vĩnh Ký có bị đàn áp không? Trương Vĩnh Ký sinh năm 1837, con ông Trương Chánh Thi, làm quan võ và bà Nguyễn Thị Châu. Ba tuổi, cha mất (1840). Năm tuổi, học chữ nho với thầy đồ Học (1842). Chín tuổi (1846) được cố Tám, ngày trước chịu ơn ông Thi che chở khỏi những «vụ đàn áp» đạo, cho Ký vào học ở chủng viện Cái Nhum và dạy chữ quốc ngữ. Cố Long (Bouillevaux) từ Pháp sang, dẫn Ký sang Nam Vang học trường Pinha-lu, do cha Hòa (Borelle) người Pháp, cai quản. Năm 14 tuổi (1851), Ký được nhận vào trường Nhà chung của Hội Thừa Sai Viễn Đông (Séminaire général des Missions étrangères en Extrême-Orient)[1] ở Poulo-Pinang (Mã Lai). Việc đi Poulo-Pinang khá vất vả, nên năm sau (1852) Ký mới vào học, đến năm 1858 (21 tuổi), mẹ mất, về chịu tang rồi ở lại Cái Mơn. Tóm lại: Trương Vĩnh Ký học chữ nho từ 5 tuổi đến 9 tuổi. Từ 9 đến 14 tuổi, học ở trường đạo Cái Nhum và Pinha-lu (tiểu học). Từ 15 đến 21 tuổi, học trường Dòng phổ thông ở Poulo-Pinang, là một đảo thuộc Anh, trong 6 năm (trung học). Vậy Trương Vĩnh Ký chỉ học tới lớp 10 hay 11, rồi bỏ dở, về quê, không trở lại Pinang nữa. Tuy được học chữ quốc ngữ với cố Tám, nhưng căn bản đầu tiên là chữ Hán, học từ 5 tuổi đến 9 tuổi. Điểm này giải thích việc Trương Vĩnh Ký dịch và giảng sách chữ Hán sang tiếng Pháp sau này. Là người có khiếu về ngôn ngữ, lại được học liên tục trường dòng từ 9 đến 21 tuổi với những học sinh các quốc tịch khác nhau ở Á châu, Trương Vĩnh Ký, ngoài tiếng La-tinh và tiếng Pháp học trong trường đạo, còn học thêm tiếng Anh và biết các thứ tiếng khác với bạn bè chung lớp, chung trường. Jean Bouchot cho rằng Trương Vĩnh Ký đã học: ngữ học, triết học và thần học. Điều này cần xem lại: Vì trường Pinang có thể có những môn đó, nhưng chắc chỉ dành cho những lớp trên, ở trình độ tú tài, mà Trương Vĩnh Ký chưa học đến tú tài. Đó là vấn đề khác. Ở đây, chúng tôi chỉ muốn xét xem gia đình Trương Vĩnh Ký có bị «đàn áp» vì theo đạo Chúa hay không? Bouchot viết: «Trong hai năm, qua cái yên tĩnh bề mặt của một trường đạo trong lòng một xứ mà «những sự đàn áp lúc nào cũng dẫn đầu, luôn luôn phải coi chừng». «Ông Nicholas Trương Vĩnh Tống cho tôi biết gia đình ông cũng bị đàn áp dưới thời Minh Mạng và Tự Đức»[2]. Khi viết những dòng này, Bouchot không để ý đến một chi tiết nhỏ rất quan trọng: ông Trương Chánh Thi, cha Trương Vĩnh Ký, làm quan dưới hai triều Minh Mạng và Thiệu Trị, và được cử làm sứ thần đi Nam Vang, rồi bị bệnh qua đời tại đó.[3] Vậy nếu gia đình Trương Vĩnh Ký có người cha làm quan dưới hai triều Minh Mạng và Thiệu Trị, mà cả nhà vẫn theo đạo, thì cũng đã là một đặc điểm về việc cấm đạo thời ấy, cần nêu ra. Ngoài ra, cha Tám đỡ đầu cho Trương Vĩnh Ký vào trường đạo Cái Nhum năm 9 tuổi, là để trả ơn ngày trước đã được ông Thi, cha Trương Vĩnh Ký che chở khỏi bị «đàn áp» (Bouchot, trang 4). Vậy nếu ông Trương Chánh Thi che chở cho cha Tám, tại sao không che chở cho gia đình mình? Tóm lại, dù ông Trương Vĩnh Tống có nói câu: «gia đình ông bị đàn áp dưới thời Minh Mạng và Tự Đức» hay ông Bouchot tự ý viết ra, thì câu này cũng không thể tin được. Năm 1847, vua Tự Đức kế vị vua Thiệu Trị. Bouchot viết tiếp: «Tánh tình Tự Đức giống Minh Mạng và máu lại bắt đầu chẩy» như lời Pétrus Ký kể trong sách Lịch sử» (trang 5). Sách Lịch sử mà Bouchot nói đến ở đây, là sách Giáo trình lịch sử An Nam của Trương Vĩnh Ký, và lối viết sử này rất lạ, bởi vì sử gia biết cả đến: Tánh tình Tự Đức giống Minh Mạng, và máu lại bắt đầu chẩy, tức là sử gia biết Tự Đức cũng «giết người» như Minh Mạng. Cái lối viết sử như thế, người Pháp đọc thích lắm, cho nên nhà văn viện sĩ Ernest Renan vội vàng viết lời khen (sẽ nói đến sau) và lời «vàng ngọc» này sẽ được rất nhiều tác giả Việt Nam chép lại.
Về cuộc «tàn sát» ở Cái Nhum Bouchot thấy có hai thoại «y như thật» về tiểu sử Trương Vĩnh Ký, đều do gia đình đưa ra, ông không biết tin thoại nào, nên ông chép lại cả hai: 1- Văn khố gia đình cho biết: «Khi rời Pinang, Petrus Ký vẫn chưa biết làm gì, và ông về Gia Định đợi xem có cảm hứng gì không. Điều này giải thích việc Ký làm việc với Giám mục Lefèbvre, giao dịch với các thày tu thân cận vị giám mục. Chỉ quyết định không đi tu vào khoảng cuối năm 1859, vì, qua cha Đoan, Ký quen cô gái sẽ trở thành vợ.»[4] 2- Tiểu sử bằng thơ tiếng Việt (Biographie en vers annamites) cũng thuộc văn khố gia đình, lại ghi: «Petrus Ký chỉ ở Cái Mơn [Bến Tre] một thời gian ngắn, rồi đi sang giáo khu Cái Nhum [Vĩnh Long] giúp cha Hòa dạy học[5]. Tại đây như một phép lạ ông thoát khỏi cuộc tàn sát. Tấm giấy kỳ lạ này (cette curieuse pièce) viết rằng: «Người ta đã báo cho các quan hay rằng các thừa sai người Âu đang họp ở Cái Nhum, may mà các vị này được thông báo kịp thời, nên đã cẩn thận trốn thoát khỏi hàng ngàn kẻ thám thính (millier de satellites) được gửi đến để bao vây xóm. Giám mục ra lệnh cho Petrus Ký về Sài gòn làm thông ngôn và chuyến đi này gặp những cản trở lớn lao [...] Petrus Ký mất hơn 5 tháng mới từ Cái Nhum về tới Chợ Lớn [...] Petrus Ký dạy học ở giáo xứ và làm phụ thêm việc thông ngôn trên tàu đô đốc.»[6] Thoại số 1 không có gì đặc biệt. Trong thoại số 2, Bouchot nói đến mảnh giấy kỳ lạ, tại sao kỳ lạ? Tại vì nó ghi việc các thừa sai đang họp tại Cái Nhum, mà bình thường các cha thường chối biến việc họ tụ họp, luôn luôn nói là họ bị ruồng bố vô cớ. Lần này chắc họp to lắm nên mới có hàng ngàn thám tử đến dò la vây bắt. Nhưng bắt hụt thì không thể gọi là cuộc tàn sát. Nhưng tại sao các thừa sai lại tụ họp ở Cái Nhum? Bởi vì Cái Nhum (thuộc Vĩnh Long) là Trung tâm Công giáo do Giám Mục Lefèbvre, giám mục Tông Toà cai quản. Vĩnh Long có sông Tiền đi thẳng sang Nam Vang, là đường giao thông ngắn nhất với Giám mục Miche, ở Nam Vang, Trương Vĩnh Ký được đưa sang học ở Pinha-lu, là vì thế. Pinha-lu là tên Toà nhà của Giám mục Miche, có trường học đạo bên cạnh. Trường này do cha Hòa (Borelle) điều khiển, dạy học trò các xứ Việt, Mên, Lào, Miến điện, Xiêm la, Trung Hoa. (Bouchot, trang 6). Trương Vĩnh Ký được tiếp xúc với 5 thứ tiếng này qua những người bạn nhỏ. Đến thời trung học, vào trường dòng quốc tế Pinang «học trò Âu Á có tới hơn 300», được tiếp xúc với tiếng Anh, Nhật, Ấn Độ, và «cũng chỉ là học miệng»[7]. Ở Pinang trở về, năm 1858, Trương Vĩnh Ký bình yên dạy học tại quê nhà Cái Mơn (Bến Tre). Nhưng từ khi Pháp đánh Đà Nẵng, có Giám mục Pellerin ở trên tàu đô đốc chỉ huy, mọi sự mới thay đổi. Năm sau, 1859, Rigault de Genouilly đánh Sài Gòn, các thừa sai phải chạy về Trung tâm Công giáo Cái Nhum của Giám Mục Lefèbvre để ẩn náu, ở đây họ bị bao vây, nên phải chạy mỗi người đi một nẻo. Trương Vĩnh Ký mất năm tháng mới về tới Sài Gòn, và Giám mục đã tìm được cho ông một chân thông ngôn trên tàu đô đốc. Thời kỳ đầu lương 20 quan một tháng. Chính Trương Vĩnh Ký xác định năm 1860, ông ra cộng tác với Pháp.[8]
Vào đời Bouchet bắt đầu chương hai với tựa đề Les Débuts (Vào đời), khi Trương Vĩnh Ký từ Pinang trở về Cái Mơn, bằng cuộc chiến xâm lăng, như sau: «Lúc đó, ta đang ở trong cuộc chiến Pháp-An Nam; hoàng đế Tự Đức vì từ chối nhận thông điệp của nước Pháp, nên đã buộc nước ông phải chịu sự báo thù của Đô đốc Rigault de Genouilly, diễn ra ở Đà Nẵng ngày 1-9-1858 và ở Sài gòn ngày 17-2-1859»[9] Đây là lối viết sử quen thuộc của những ngòi bút thực dân và thái độ «côn đồ» của Tướng tá Pháp khi đem tầu chiến đến Đà Nẵng, mượn cớ đưa «thông điệp» để thị uy. Trên nguyên tắc, từ thời Gia Long, triều đình chỉ nhận thư của vua các nước khác. Nếu tầu đến Đà Nẵng, mà thuyền trưởng không đem thư của vua thì không xin được yết kiến. Vậy mà dưới triều Thiệu Trị và Tự Đức [họ không dám làm với Minh Mạng] bọn Tướng tá Pháp đến Đà Nẵng, đều mượn cớ đem «thông điệp của nước Pháp» [thường chỉ là thư của Đô đốc, đậu ở ngoài khơi Thái Bình Dương, sai cấp dưới đem đến]. Loại «thông điệp» này thường viết với giọng hách dịch, vô liêm sỉ: ví dụ, thư của Đô đốc Cécille, Tổng Tư lệnh quân đội Pháp ở Thái Bình Dương viết ngày 15-5-1845, xin tha Giám mục Lefèbvre, [lúc đó đã được vua Thiệu Trị thả ra và cho dẫn độ đi Singapour rồi] Đô đốc «dạy» rằng: Thiệu Trị đã hạ lệnh giết từ 5 đến 600.000 giáo dân; Gia Long nếu không có nước Pháp giúp thì không thể có ngai vàng, mà nay lại dám vô ơn bạc nghiã; tại sao lại ngăn cản dân tộc mình không cho hưởng nền văn minh nhân đạo Tây phương... Lý Văn Phức nhận thư, đọc xong thấy biạ đặt quá quắt và vô lễ không thể dâng vua được. Việc này sẽ nói rõ hơn trong chương 13, viết về vua Thiệu Trị. Vậy cái «thông điệp của nước Pháp» như lời Bouchet, là cái gì mà người ta phải nhận? Nếu không nhận thì sai lính thảy lên bờ. Và nếu thảy lên bờ mà vẫn không nhận, thì báo thù? Chỉ vì tư cách của Tướng tá Pháp đến nước ta là như thế, cho nên họ bị triều đình coi là bọn «man di».
Nhiệm vụ và nơi ăn chốn ở của Trương Vĩnh Ký Bouchot viết rất rõ như sau: «Thiếu tá Jauréguibérry, chỉ có một thông ngôn là cha Croc của Hội Thừa Sai, bèn xin Giám mục Sài gòn kiếm cho một người An Nam để phụ giúp vị tu hành khả kính trong công việc đầy rẫy này. Giám mục Lefèbvre chỉ định Petrus Ký (1860)». «Ông [Petrus Ký] thuộc vào chính quyền Pháp, là công chức An Nam đầu tiên của chính quyền Pháp» «ông bắt đầu với số lương tháng là 20 đồng, nhưng chẳng bao lâu sẽ kiếm hơn rất nhiều»[10]. - Về nơi ăn chốn ở và công việc hàng ngày của Trương Vĩnh Ký, Bouchot viết: «Theo Văn khố gia đình (Tiểu sử bằng thơ), lúc ấy, ông xin đi Rome thì Giám mục bảo không nên và nên nhận chức thông ngôn mà chính phủ Pháp đề nghị. Vừa chiếm xong Sài gòn, người thủ lãnh của ông (son chef suprême) là một sĩ quan hải quân: M. Bari (sic). Pétrus Ký ở cùng nhà với chủ tướng. Khi thì làm thông ngôn cho ông, khi thì tháp tùng ông trong những cuộc tuần tra cảnh sát; tất cả thuyền bè từ miền Trung ra đều bị khám; nhiều người bị bắt nhầm, nhờ sự giải thích sáng suốt của ông mà được tha, đối với họ ông như Thánh»[11].
Nhiệm vụ của Giám mục Lefèbvre Về Giám mục Lefèbvre, Bouchot viết: «Dominique Lefèbvre, Giám mục d'Isauropolis, Giám mục Tông toà Nam Kỳ, suýt bị bắt nhân vụ tàn sát năm 1858 sau cuộc tấn công Pháp-Y. Được một người An Nam cứu, dẫn đến hạm đội Pháp. Sau khi chiếm được Sài gòn ông ở Xóm chiếu, và từ năm 1860, ông ở tại Sài gòn. Ông đã xây dựng ở Cái Mơn, quê Petrus Ký một tu viện, và một bệnh viện ở Chợ quán. Ông chết ở Marseille ngày 30-4-1865. Petrus Ký gắn bó với Toà Giám mục Sài gòn cùng cha Đoan, người bản xứ đã nói đến ở trên».[12] Tất cả thông tin trong đoạn này đều cần kiểm chứng lại, vì có chỗ viết sai, hoặc bịa đặt, hoặc mâu thuẫn: - Không thể có vụ «tàn sát» đạo nào ở Nam Kỳ sau vụ tấn công Pháp-Y, năm 1858, bởi vì năm 1858, liên quân Pháp-Y chưa đánh Nam Kỳ. Đến năm 1859, Rigault de Genouilly mới đánh Sài gòn. Nhưng nếu có việc vây bắt, thì như trên đã nói, bởi vì các thừa sai họp nhau tại Trung tâm Công giáo Cái Nhum ở Vĩnh Long, trong khi quân Pháp đã hoặc đang tiến tới Sài Gòn. - Tháng 2-1859, Rigault de Genouilly tấn công Sai gòn. Taboulet viết về ngày 16 tháng 2 này như sau: «6 giờ sáng, cuộc tấn công bắt đầu […] Buổi chiều, một chiếc thuyền tam bản ghé lại gần tầu Phlégéton, Đức ông Lefèbvre, Giám mục d'Isauropolis, đến chào Đô đốc. Những thông tin Giám mục cung cấp, nghe nói, không chính xác lắm, mặc dù, Đức Giám Mục ở làng Tam Hoi, ngay trên đồn hữu ngạn bên sông.»[13] Taboulet viết rất rõ: không những Giám mục Lefèbvre đến chào Trung Tướng Rigault de Genouilly mà còn cung cấp thông tin, tuy «nghe nói, không chính xác lắm», tức là Giám mục làm việc tình báo cho quân Pháp, nhưng bị họ chê là không chính xác. Xin nhắc lại: Giám mục Lefèbvre là nguyên nhân cuộc bắn đại bác tiêu diệt 5 chiếc thuyền đồng của vua Thiêu Trị đậu ở Đà Nẵng năm 1847. Trong khi ấy, ông lẻn trở lại Việt Nam, làm Giám mục Tông Tòa Nam Kỳ trong 18 năm. Các ngòi bút viết về ông, thường kể chuyện ông luôn luôn phải sống ẩn náu vì «bị truy lùng, bắt bớ», tuy vậy, theo Bouchot, ông vẫn xây được một tu viện ở Cái Mơn, một bệnh viện ở Chợ Quán. Vậy đâu là sự thực? Về Giám mục Lefèbvre, Taboulet viết: «Dominique Lefèbvre, sinh tại vùng Calvados ngày 1-8-1810. Thọ linh mục tháng 12-1834. Đi thừa sai ngày 15-3-1835. Được gửi đến Bắc Kỳ, học tiếng Việt với cha Borie, rồi xuống sống ở Nam Kỳ, thường trốn tránh. Được Giám mục Cuénot chọn làm trợ giám mục, rồi được phong Giám mục tại Gothi ngày 1-8-1841. Vì có người tố cáo, Giám mục Lefèbvre bị bắt ngày 31-10-1844, ở gần Cái Nhum nơi ông đã xây dựng một Tu viện Dòng Mến Thánh Giá, và bị kết án chém đầu. Nhưng Thiệu Trị sợ những tầu chiến Pháp qua lại bên bờ biển của ông ta, nên còn trù trừ chưa phê chuẩn án tử hình, nên vị chủ giáo mới thoát chết.»[14] Bỏ qua giọng trịch thượng, chỉ xem các dữ kiện: Cái Nhum đã có một tu viện Dòng Mến Thánh Giá từ trước năm 1844. Giám mục Lefèbvre sống trốn tránh trong rừng rú mà xây được tu viện này. Đó là lối viết của các thừa sai và sử gia thực dân. Bouchot cho biết thêm Giám mục Lefèbvre xây cả bệnh viện Chợ Quán nữa. Vậy công ông lớn lắm. Các tác giả này không bao giờ để ý đến chi tiết: bị lùng bắt như thế mà vẫn xây được bệnh viện và tu viện, chắc phải có phép lạ.
Nhiệm vụ của Trương Vĩnh Ký trong những ngày Charner đánh Nam Kỳ Về việc Charner đánh chiếm Nam Kỳ, Bouchot viết: «Năm 1861, Đô đốc Charner trở về Sài Gòn, nhất định giải quyết cho xong bầy quân ở Huế; đó là những ngày Kỳ Hoà [trận đại đồn Chí Hoà] trôi qua trong sự giao hưởng vang rền của đại bác và hoả mai, rồi chiếm Mỹ Tho và Biên Hoà: phía An Nam có hai phe: Một bên là những kẻ ái quốc quá khích và mù quáng, dẫn đến nổi loạn; bên kia, ngược lại là những người nhìn thấy sự chống đối là vô ích và sự che chở của nước Pháp có thể kéo đất nước này ra khỏi sự giám hộ của bọn quan lại vô độ. Petrus Ký, mạnh mẽ nhờ kinh nghiệm học hỏi ở Pinha-lu và Pinang, ở trong phe thứ nhì. Chìm đắm hết mình trong công việc, ông đã tỏ ra sáng suốt minh mẫn; người ta thường khen thưởng sự can đảm của ông; và sau cùng ông hiện ra như viên trợ tá được tuyển chọn trong chiến dịch dàn quân thiết bị, tổ chức và chiếm đóng dứt khoát.»[15] Tất cả được nói rõ trong đoạn văn ngắn này: Trương Vĩnh Ký có mặt trong suốt thời gian Pháp đánh Nam Kỳ và ông đã đắc lực giúp quân Pháp cho tới khi họ hoàn thành việc tổ chức chiếm đóng dứt khoát.
Chế tạo ra một nhà bác học Ngay sau khi Trương Vĩnh Ký trở về Cái Mơn năm 1858, Jean Bouchot dành nhiều trang để ca tụng thiên tài Trương Vĩnh Ký về mọi lãnh vực: sự kết hợp nền «văn hóa phi thường» của đạo Chúa với một «trí tuệ vượt bực» đã đưa đến kết quả tuyệt vời: Trương Vĩnh Ký. Chúng tôi trích vài câu dưới đây: «Trở về căn nhà bên nội ở Cái Mông [Cái Mơn] sau mười năm xa vắng, được hấp thụ một nền văn hoá vừa sâu sắc vừa đa diện, sự hiểu biết vững chắc về những nghiên cứu ngôn ngữ học cơ bản này, sẽ đẩy ông đi xa trong một tương lai rất gần. [...]. Người Nam Kỳ này là một nhà bác học, trong nghiã rộng rãi nhất và trong sáng nhất mà Tây phương dùng chữ này; còn có thể nói, điều này khiến chúng tôi càng tin chắc rằng ông là nhà bác học duy nhất có phẩm chất như thế ở Nam Kỳ, kể cả nước Tàu tân tiến.»[16] Trương Vĩnh Ký là một người thông minh hiếm có, với khiếu ngôn ngữ khác thường, từ nhỏ được học chung với trẻ con nhiều nước khác nhau, tất nhiên nói được nhiều thứ tiếng. Tài năng này ta thấy ở một số người: các ca sĩ thượng thặng như Mireille Mathieu, Charles Aznavour, Céline Dion... đều hát và nói nhiều thứ tiếng. Nhưng Bouchot lại cho rằng: Trương Vĩnh Ký đã có những sự hiểu biết vững chắc về những nghiên cứu ngôn ngôn ngữ học cơ bản (du solide bagage de ces études de linguistique élémentaire) khi chưa học xong trung học thì rất lạ. Ngôn ngữ học không phải là môn dễ học, kể cả đối với sinh viên đại học. Trương Vĩnh Ký chỉ có thể hiểu biết về ngữ học, sau những năm tự học, chứ không thể có ngay, sau khi học xong lớp 10, 11. Jean Bouchot còn cho Trương Vĩnh Ký nhẩy lên hàng bác học, và trở thành nhà bác học duy nhất có phẩm chất như thế ở Nam Kỳ, kể cả nước Tàu tân tiến, thì quả là ông đã quá tay. Sau đó đến sự tôn vinh cái học thừa sai: «Kiến thức của ông giao cảm với thiên tài của hai giống người đã chăm nom ông thời niên thiếu, khiến cho trí nhớ này, thay vì sẽ tiêu huỷ óc lý luận và lô gíc, trái lại, càng giúp ông biện hộ cho bao nhiêu sự kiện, quan sát, suy luận, diễn dịch mà ông đã lựợm lặt được trong sự học hành và trong những chuyến đi. Không thể chối cãi được rằng nguồn cội của sự thành công này nằm trong nền giáo dục lạ thường của các vị thầy tu».[17] Lối viết xưng tụng không tiền khoáng hậu này, làm chóng mặt một cộng đồng dân tộc bị trị, chỉ khao khát có một giá trị được người Pháp công nhận. Và đó là lý do chính, khiến các tác giả Việt Nam, kể cả những vị được coi là học giả, cũng lấy làm sung sướng chép lại những «nhận định» như thế của Bouchot mà không kiểm chứng.
Được các danh nhân đón tiếp Một «nhà bác học» như thế, thì phải kết thân với các bạn đồng nghiệp, đồng đẳng, là các danh nhân ngay khi đến Pháp năm 1863. Bouchet viết: «Tại Pháp, ông đã có cơ hội kết thân với những nhân vật lừng danh trong giới văn học và nghệ thuật (1): ông quen biết Duruy, sử gia nổi tiếng, cựu Bộ trưởng Giáo dục, Victor Hugo, Littré, mà ông định đến cuối đời sẽ dịch cuốn tự điển Littré sang tiếng An Nam, Paul Bert mà ông sẽ gặp lại tại Đông Dương và sẽ trở thành cộng sự viên đắc lực. Tình bạn đối với những vĩ nhân này được gìn giữ bằng những trao đổi thư từ liên tục tới cuối đời, chỉ dập tắt với cái chết, khiến chúng ta có một trang đầy ắp tình cảm sâu sắc của ngòi bút An Nam này nhân dịp Paul Bert qua đời, nhân vật sau này sẽ trở thành người dẫn đường thận trọng và cẩn mật.»[18] Trước khi tới Pháp năm 1863, Trương Vĩnh Ký, chưa viết một cuốn sách nào, vậy mà khi đến Paris, ông đã «kết thân» được với «những nhân vật lừng danh trong giới văn học nghệ thuật Pháp» như Duruy, sử gia nổi tiếng, cựu Bộ trưởng Giáo dục; thi hào Victor Hugo; nhà văn hóa Littré, thì lạ lắm. Cần phải biết thực trạng này: Mãi đến những năm 1940, hội chợ ở Hà Nội, vẫn còn chia hai cửa: Một cửa cho người Âu, một cửa cho người bản xứ. Y như bên Mỹ, phân biệt da đen, da trắng. Không ai không biết người bản xứ được đối xử như thế nào ở thời điểm ấy. Phan Văn Trường đã bao lần khuyên Phan Châu Trinh (khi ở Pháp) đừng đến xin xỏ [Bộ Thuộc Điạ] cái gì, chúng nó khinh lắm. Kỳ trước, chúng tôi cũng đã trích một đoạn sách giáo khoa dạy trẻ con của «nhà bác học» Paul Bert viết về người châu Phi như thế nào. Vậy việc Trương Vĩnh Ký, một thông ngôn người bản xứ, không có nhiệm vụ chính thức, chưa từng viết một cuốn sách nào, đến Paris, lại «kết thân» được với các danh nhân Duruy, Victor Hugo, Littré và trao đổi thư từ liên tục tới cuối đời. Vậy nếu có thật, không hiểu tại sao ông Bouchot lại quên, không chép vài dòng thư trên, để làm chứng, như ông đã chép câu của Ernest Renan khen cuốn sử của Trương Vĩnh Ký. Tuy nhiên, chỉ có Paul Bert, là người làm chính trị, đã tính chuyện đi thực dân, cho nên gặp Trương Vĩnh Ký để hỏi về Việt Nam, là điều tin được. Và trong thư từ trao đổi với Paul Bert sau này, Trương Vĩnh Ký cũng nói đến cuộc gặp gỡ này.
Được vào hội Nhân Chủng Học Như để giải thích việc Trương Vĩnh Ký được các danh nhân trong giới văn học nghệ thuật tiếp đón, trong chú thích số (1) trang 21 ở trên, Bouchot ghi một hàng như sau: «Pendant son séjour à Paris, il fut nommé membre correspondant se la Société d'ethnographie». (Le Biographe, 1874) Dịch sang tiếng Việt: «Trong thời gian ở Paris, ông được gọi là hội viên tương tác của Hội nhân chủng học». (Le Biographe, 1874) Đây là thông tin rút ra từ một tờ báo hay một cuốn sách có tên là Le Biographe (Người viết tiểu sử), tạm hiểu là sách này ghi tiểu sử những nhân vật nổi tiếng. Tuy nhiên, trước khi tới Pháp, như trên đã nói: Trương Vĩnh Ký chưa viết một cuốn sách nào, và cũng không thấy ông nói đến một văn bản nào về nhân chủng học, trong thư mục của ông, vậy mà, ông lại được coi là hội viên tương tác của Hội nhân chủng học, mới thật lạ kỳ. Ông Nguyễn Đình Đầu còn đi xa hơn, trong sách Petrus Ký, nỗi oan thế kỷ, trang 31, ông viết: «Từ năm 1873, tức là lúc mới 36 tuổi, Trương Vĩnh Ký đã trở thành nhân vật nổi tiếng thế giới, được tạp chí Le Biographe (Tiểu sử nhân vật) đánh giá cao và xếp vào một trong 18 học giả hàng đầu thế giới lúc bấy giờ». Dữ chưa? Theo lời ông Nguyễn Đình Đầu, thì Le Biographe là một tạp chí. Nhưng ông không nói rõ xuất bản ở đâu? Mà lại in những thông tin kiểu «giật gân» như thế? Bởi vì: chưa từng thấy ai dám xếp hạng 18 học giả hàng đầu thế giới. Bởi lẽ hai chữ học giả không thể định nghiã được. Và có muốn định nghiã cũng không biết lấy gì làm tiêu chuẩn. Văn học không có tiêu chuẩn như khoa học, vì những địa hạt khoa học như y học, toán học, vật lý học... người ta có thể đánh giá bằng những khám phá, phát minh. Có thể ta cùng đồng ý với nhau: học giả là người có kiến thức rất sâu rộng về nhiều vấn đề. Nhưng thước đo là gì? Ví dụ như trường hợp Việt Nam, ta có thể coi Hoàng Xuân Hãn và Đào Duy Anh là hai học giả hàng đầu. Nhưng sách của hai ông đều viết bằng tiếng Việt, về văn hóa Việt, cho người Việt đọc. Tạp chí Le Biographe, không thể biết tên hai vị học giả này, cũng như tất cả học giả các nước khác trên thế giới không viết tiếng Pháp, tiếng Anh, để so sánh nhất nhì. Le Biographe chỉ đưa ra sự xếp hạng dựa trên sự độc tôn văn hóa Pháp, nói rộng ra là châu Âu, chứng tỏ sự thiển cận, nếu không muốn nó là ngu muội của sự độc tôn này. Bouchot chép lại tờ báo này, ta chỉ thấy buồn cười, vì ông không phải là «học giả». Nhưng ông Nguyễn Đình Đầu chép lại, thì ta không thể cười được nữa, vì ông là «học giả» được Giáo sư Sử gia Phan Huy Lê tôn vinh nhiều lần trong bài Tựa. Và học giả Nguyễn Đình Đầu chép lại một câu trong báo, chúng tôi tạm gọi là «lá cải» của Tây, để xếp Trương Vĩnh Ký vào một trong 18 học giả hàng đầu thế giới, thì rất đáng ngại vì danh từ «học giả» đã bị lạm dụng khắp nơi, ở Pháp, cũng như ở Việt Nam. Sau đó, Bouchot còn ghi Trương Vĩnh Ký đọc và viết 15 sinh, tử ngữ, phương Tây. Ông viết 11 thứ tiếng Á Đông. Tổng cộng 26 thứ tiếng sinh và tử ngữ! [19] Đáng buồn hơn nữa là con số này của Bouchot sẽ chạy dài trên nhiều bài và sách viết về Trương Vĩnh Ký, ở Việt Nam.
Một chuyến đi Âu Châu trong tưởng tượng Để chứng tỏ Trương Vĩnh Ký đi nhiều, biết rộng, Bouchot liệt kê tên 15 thành phố mà Trương Vĩnh Ký đã theo phái đoàn Phan Thanh Giản đã đi thăm, ở Pháp và châu Âu, trong chuyến đi Pháp năm 1863-1864. Bouchot viết: «Khi xong việc của sứ bộ, ông [Trương Vĩnh Ký] theo Phan Thanh Giản tự ý đi thăm nước Pháp: đi Rouen, Havre, Lorient, tại đây thày dạy học tiếng Pháp của ông ở Poulo-Pinang cũng lên tầu, đi Tours, Lyon và Bordeaux; từ đó ông lấy tầu đi Bồ Đào Nha. Ở Y Pha Nho ông đi thăm Alicante, ghé Barcelone, và đến Madrid, ông được tiếp đón ở Escurial[20]. Rồi ông qua miền Provence [Pháp] để đi Ý, thăm các tỉnh Gênes, Florence, Rome, tại đây ông được yết kiến Giáo Hoàng và tạ ơn Ngài vì những sự trợ giúp đặc biệt của các vị thừa sai đối với tổ quốc ông, nhất là Đức Giám mục Bá Đa Lộc. Bằng những mầu sắc sống động nhất, ông vẽ lại niềm hoan hỷ của những người An Nam, cuối cùng đã tìm thấy một kỷ nguyên hoà bình và yên ổn. Ông đi thăm những hầm mộ, rồi qua ngả Xante, Messine, Alexandrie, phái đoàn An Nam trở về Sài gòn ngày 18-3-1864. Petrus Ky trong 8 tháng, không kể nước Pháp, đã đi cả miền Nam phương Tây, trừ Hy Lạp và khắp nơi ông đã đi qua, ông đều khảo cứu phong tục, quan tâm đến ngôn ngữ, ông đã thu thập những tư liệu khả dĩ có thể dùng được trong những nghiên cứu sắp tới ông sẽ thực hiện».[21] Cuộc du lịch «vĩ đại và hoành tráng» quá, tạo tất cả điều kiện cho Trương Vĩnh Ký trở thành nhà bác học tương lai. Nhưng cũng có chỗ khiến ta hơi áy náy: Phan Thanh Giản lấy tiền đâu ra để dẫn cả đoàn hơn sáu chục người đi khắp Âu châu chơi trong tám tháng như thế? Chúng tôi xem hành trình của phái đoàn Phan Thanh Giản được sử Việt Nam chép lại như thế nào? Phan Khoang ghi như sau (tóm tắt): Ba sứ thần (Phan Thanh Giản, Phạm Phú Thứ và Ngụy Khắc Đản) và khoảng 60 quan viên tùy tùng mang theo lễ vật tặng vua Pháp và vua Y Pha Nho, từ Huế vào Gia Định. Pháp soái De la Grandière cho thuê thuyền Européen để đưa phái đoàn sang Tây, tốn phí triều đình chịu, và cử một sĩ quan Pháp là Rieunier và Aubaret đi theo hướng dẫn. Tới nơi, Pháp Hoàng đi vắng, ngày 7-11-1863, các sứ thần mới được vào yết kiến. Phan Thanh Giản dâng thư của vua Tự Đức. Aubaret làm thông ngôn (Bouchot ghi Petrus Ký làm thông ngôn). Sau buổi chầu hôm ấy, phái đoàn Việt Nam đàm phán với Bộ trưởng Ngoại giao Pháp Achille Fould. Vấn đề khá đơn giản vì vua Tự Đức đã dặn, họ đòi bao nhiêu tiền cũng trả, miễn là lấy lại được ba tỉnh. Ở Pháp lúc đó việc đánh chiếm thuộc địa gây tranh cãi và ngân quỹ chính phủ đang thiếu hụt, nên con số 100 triệu quan họ đòi, đáp ứng nhu cầu. Các chi tiết sẽ thương lượng sau ở Huế. Các sứ thần lên tầu đi Y Pha Nho, đến Madrid yết kiến Nữ hoàng Isabelle, rồi đáp tầu về nước, chẳng may gặp bão ở Địa Trung Hải, nên đến tháng 2 năm Giáp Tý (tháng 3-1864) mới về đến Gia Định.[22] Không hề nói gì đến việc «chu du» khắp nước Pháp và cả miền Nam Âu Châu. Chúng tôi kiểm lại sử Pháp, Taboulet viết: «Đi từ Huế ngày 21-6-1863, ba sứ thần và đoàn tùy tùng 66 người, do đại úy Rieunier hộ tống đến Paris ngày 13-9. Hội kiến Bộ trưởng Ngoại giao Drouhin de Lhuys ngày 8, và yết kiến Hoàng đế ngày 5-11-1863. Theo báo Moniteur, thì vương triều sẵn sàng thay đổi hiệp ước 1862 để sửa soạn cho một tình giao hữu Pháp-Việt mới. Sau đó các sứ thần đi xem những sáng chế mới lạ về kỹ nghệ và khoa học ở thủ đô, họ khâm phục lắm. Sau một thời gian ngắn ở Madrid, các sứ thần về tới Sài gòn ngày 18-3-1864, rồi đi thẳng về Huế để trình vua sự thành công của họ.»[23] Như vậy, Jean Bouchot đã tưởng tượng ra một câu chuyện ngao du Âu Châu vô tiền khoáng hậu, để khoe khoang kiến thức sâu rộng của Trương Vĩnh Ký. Vậy mà những nhà nghiên cứu người Việt đã đọc, không ai thấy «áy náy» gì cả!
Bản báo cáo Duperré Năm 1796, Trương Vĩnh Ký nhận nhiệm vụ đi Bắc Kỳ ba tháng để «xem xét tình hình», khi trở về Sài Gòn, ông viết bản báo cáo dài đề ngày 28-4-1876, gửi Thống sứ Dupurré, nhờ sự chuyển giao của ông Regnault de Premesmil, Tham Mưu Trưởng[24] về tình trạng tồi tệ của xứ Bắc và dân Bắc thầm mong được Thống sứ đến «giải phóng» [xem kỳ trước], Bouchot cho in lại văn bản này từ trang 34 đến trang 41. Nếu ta so sánh tình trạng Bắc Kỳ trong bản Báo cáo Duperré với bài du ký Chuyến đi Bắc Kỳ năm Ất Hợi, viết bằng chữ quốc ngữ, thì thấy đó là hai xứ khác nhau: - Xứ Bắc kỳ mà Trương Vĩnh Ký đi du lịch 3 tháng, ông kể lại trong Chuyến đi Bắc Kỳ năm Ất Hợi, là một vùng thần tiên, cảnh đẹp, người hay, ông được tiếp đãi hết sức nồng hậu, ở nhà các quan Tây lẫn quan ta[25]. - Còn xứ Bắc Kỳ trong bản Báo cáo Duperré là một xứ bần hàn đói khát, không có đồ ăn, dân chúng rên siết dưới sự tham tàn độc ác của bọn quan lại. Vậy đâu là sự thật? Bản báo cáo Duperré được Bouchot hết lời ca ngợi và cho rằng đó là lý do khiến Paul Bert mượn ông đi Huế sau này. Sau bản Báo cáo Duperré, Trương Vĩnh Ký nhận được phần thưởng đích đáng: ông được vào Hội đồng thành phố Sài Gòn, tức Hội đồng xã (Élections municipales), ta gọi là Xã Tây. Trương Vĩnh Ký là người Việt duy nhất được chọn vào Hội đồng Thành phố, tức Hội đồng Xã Tây, theo nghị định ngày 28-7-1877 của Thống sứ Duperré. Trước khi đi Bắc Kỳ, ông đã được nhận là thành viên Hội Á Châu (Société Asiatique), qua buổi họp ngày 11-2-1876, với tư cách là «giáo sư tại Sài Gòn», do Renan và Garroz đề cử.[26]
Lời khen của Ernest Renan Nhưng dến năm 1880, Trương Vĩnh Ký mới được giới Hàn lâm Pháp chính thức công nhận qua bộ sách lịch sử nổi tiếng Cours d'histoire annamite (Giáo trình lịch sử An Nam), hai cuốn, thường được gọi tắt là Lịch sử An Nam in năm 1875 và 1879. Ernest Renan, thạc sĩ (agrégé) triết học, nhà văn, nhà nghiên cứu đạo Chúa, năm 1880, sau khi đọc cuốn Lịch sử An Nam của Trương Vĩnh Ký, đã viết lời khen tặng nồng nhiệt, Bouchot trích dẫn lại như sau: «Ernest Renan, trong bản Báo cáo hàng năm ông đọc ngày 30-6-1880, tại Hội Á Châu, tuyên bố rằng: «Ông Trương Vĩnh Ký đã trình bày cho chúng ta rất minh bạch những ý tưởng mà người An Nam nghĩ về lịch sử của họ. Người ta kinh ngạc thấy trong cuốn sách nhỏ này một đầu óc trong sáng, một tính cách vô tư không thấy ở người Á châu. Nhiều nước Âu châu, không có cho các trường tiểu học của họ một cuốn sách sử tốt và chính xác như sách của ông Trương Vĩnh Ký»[27]. Lời «vàng ngọc» này của Renan trở thành huân chương Bắc đẩu Bội tinh về sử học mà người Việt thay phiên nhau chép đi chép lại. Bouchot viết thêm: «Dường như ngay từ thời điểm này, nhân vật của chúng ta đã giữ địa vị hàng đầu trong chính quyền Thuộc địa»[28].
Phiên âm truyện Kiều cho ai? Bouchot duyệt lại sự thăng tiến không ngừng, với những chức vụ, trách nhiệm và lương bổng quan trọng của Trương Vĩnh Ký từ năm 1872: «Từ năm 1872, ông được nhận hàm Tri huyện đệ nhất, lương 2.400 quan. Dạy các lớp tiếng Đông phương, 9000 quan. (trang 42). Người ta đã cử ông làm Giám đốc ấn hành những sách quốc ngữ của chính phủ thuộc điạ. Một nghị định ký ngày 17-11-1874, đưa ông vào Thượng Hội đồng Học chính [La Commission supérieure de l'Instruction publique] với tư cách này ông giữ vai trò quan trọng, trong việc đề nghị những giải pháp bổ ích, hoặc bãi bỏ những sửa đổi vội vàng, có thể có hại. Ông tiếp tục song hành in những sách được chính quyền thuộc địa đòi hỏi, chúng ta [người Pháp] còn nợ ông việc chuyển truyện Kiều sang quốc ngữ, thiên anh hùng ca nổi tiếng mà ta vừa làm thành phim [1925], là một truyện An Nam viết bằng thơ; một bài giảng tiếng Việt in thạch bản, một bài giảng tiếng quan thoại và chữ hán (cũng in thạch bản), là in lại những bài ông đã dạy trong trường Hậu bổ.»[29] Sau khi đọc những dòng này, chúng ta không còn ảo tưởng gì về việc Trương Vĩnh Ký phiên âm truyện Kiều để làm sống lại tác phẩm quan trọng nhất của văn học Việt Nam cho người Việt, mà ông chỉ làm theo đơn đặt hàng của chính quyền thực dân. Người Pháp không biết chữ Nôm là gì. Họ cũng không cần biết Kiều là tác phẩm như thế nào. Nhưng họ «nợ» ông một bản Kiều quốc ngữ, bởi vì ông làm theo yêu cầu của họ. Tiếp theo, Bouchot nói đến cuốn sách «Une analyse comparée des principales langues du monde» (Phép giải tích so sánh những ngôn ngữ chính trên thế giới) mà theo ông, Trương Vĩnh Ký đã bỏ ra mười năm để soạn, được tác giả J.Thomson kể lại trong cuốn Dix ans de voyage dans la Chine et l'Indochine (Mười năm du lịch Trung Hoa và Đông Dương) (Bouchot, trang 43-44). Có lẽ cuốn sách ngữ học này cũng trong địa hạt tưởng tượng, để đưa Trương Vĩnh Ký lên nhà ngữ học hàng đầu. Chúng tôi sẽ trở lại vấn đề này trong phần tìm hiểu tác phẩm văn học của Trương Vĩnh Ký.
Năm năm thức tỉnh - lá thư gửi dân biểu Blancsubé Theo Bouchot, trong 5 năm, từ 1877 đến 1882, không thấy Trương Vĩnh Ký hoạt động gì, không có dấu hiệu sinh hoạt trí thức như viết sách hay dạy học trong thời gian từ 1877 tới 1882. Và Bouchot tự hỏi: Phải chăng đời sống tinh thần của ông bị xuống dốc trầm trọng ở tuổi bốn mươi? Nếu chúng ta nhìn lại Thư mục do chính ông biên soại, cũng thấy một lỗ hổng lớn: kể từ năm 1877, chính quyền thực dân không in sách cho ông nữa và đến năm 1881, ông bắt đầu in sách trở lại với nhà xuất bản Guilland et Martinon. Vậy có phải vì tài chính? Trường Hậu Bổ bị đóng cửa năm 1877, nên ông bị mất một phần lương, và mất cả nơi in sách cho cho ông? Tuy nhiên, trong thư Trương Vĩnh Ký viết cho Paul Bert, ở Huế ngày 20-9-1886, có câu: «tới tháng 6 vừa rồi (1886), Nam Kỳ vẫn còn trả cho tôi lương giáo sư ngôn ngữ Đông phương, 9.000 quan mỗi năm». Như vậy việc trường Hậu Bổ bị đóng cửa không ảnh hưởng đến lương lậu của ông. Bouchot cũng đặt ra những giả thuyết vể việc này: hay là chính phủ thuộc địa không còn tiền để cấp cho ông in sách nữa khiến ông phải bỏ tiền ra in lấy, vv...[30] Nhưng chúng tôi đoán rằng, lý do nằm ở chỗ khác, và lá thư ông viết cho dân biểu Blancsubé, phản ảnh sâu sắc tâm sự của ông lúc bấy giờ. Đó là lá thư ông trả lới dân biểu Blancsubé về dự định cho người Việt nhập Pháp tịch, tháng 10-1881. Lá thư này được đăng lại nguyên văn tiếng Pháp, với bản dịch tiếng Việt của Nguyễn Bích Thu, trong Kỷ yếu Triển lãm Trương Vĩnh Ký ở Cali năm 2019 (trang 120-149), với cái tựa và lời giới thiệu kỳ lạ: Tựa: Thư Trương Vĩnh Ký gửi ông Đại Biểu Nam Kỳ Blancsubé về việc từ chối vào quốc tịch Pháp. Và với lời giới thiệu như sau: «Bài này đăng phóng ảnh bức thư 18 trang thủ bút của ông Trương Vĩnh Ký gửi cho Đại biểu Blancsubé về việc ông từ chối vào quốc tịch Pháp.» Thực ra, thư này không hề có ý từ chối vào quốc tịch Pháp cho riêng ông. Những lời giới thiệu này làm sai lệch và hạ thấp giá trị của lá thư quan trọng. Lá thư này có tầm vóc cao hơn nhiều, Blancsubé hỏi ý kiến Trương Vĩnh Ký về một dự án cấp Pháp tịch cho người An Nam, và nhờ Trương Vĩnh Ký nghiên cứu, rồi làm phúc trình về dự án này. Và đây là câu đầu tiên trong thư trả lời, Trương Vĩnh Ký viết: (bản dịch của Nguyễn Bích Thu) «Kính thưa Ông Đại Biểu, Vấn đề quan trọng là việc gia nhập quốc tịch Pháp của dân An Nam, Ông đã nghĩ đến tôi để tham khảo về những khó khăn và chống đối có thể xẩy ra trong khi thực hiện dự án này. Theo sự mong muốn của Ông, tôi đã nghiên cứu chi tiết và tỉ mỉ vấn đề gia nhập quốc tịch Pháp. Ngày hôm nay tôi vinh dự gởi Ông kết quả của những suy luận của tôi. Cũng như Ông đã nói rõ với tôi, tôi cũng thấy là việc gia nhập quốc tịch Pháp chỉ có thể thực hiện được với những người An Nam theo Thiên Chúa Giáo, một thành phần nhỏ bé của dân bản xứ. Nhờ những định chế Thiên Chúa Giáo, họ đã được chuẩn bị từ lâu cho cuộc biến đổi này, dù rằng có lẽ vẫn chưa đủ để họ chấp nhận việc này một cách không do dự. Ngược lại, những người khác, giới trí thức Nho học, những người theo Khổng Giáo và Phật Giáo, nghiã là đại đa số, khác biệt một cách chủ yếu với thành phần trên, do những tin tưởng và tôn giáo cũng như do gia phong và nguyên tắc xã hội. Chính đây sẽ là nơi cố thủ của những chống đối cứng rắn nhất, đối với những lợi ích mà chính quyền Pháp đã rộng rãi ban phát với việc gia nhập quốc tịch Pháp.» Tuy nói về việc gia nhập quốc tịch Pháp của người Việt, nhưng Trương Vĩnh Ký bàn đến nguyên nhân chống đạo Thiên Chúa của người Việt. Và ông phân tích cặn kẽ ba lý do chính: 1- Tầm quan trọng của tổ tiên. 2- Quyền uy của người Cha. 3- Lòng hiếu thảo của con cái. Trong phần Quyền uy của người Cha và Lòng hiếu thảo của con cái, ông viết về sự gắn bó của nguời Việt với Nghi lễ, là nền móng của quốc gia xã hội và người cha trong gia đình là «giáo chủ của đạo thờ cúng tổ tiên». Trong phần viết về Tầm quan trọng của tổ tiên, Trương Vĩnh Ký đưa ra những lý do sâu xa nhất trong tâm hồn người Việt: Người Annam tin rằng linh hồn bất diệt và họ tin vào thế giới bên kia «Việc thờ cúng ông bà tổ tiên là tôn giáo mà mọi gia đình chúng tôi đều tuân theo một cách nghiêm ngặt» «Như vậy, người sống cũng như người chết không thể không có nhau. Họ luôn luôn giúp đỡ lẫn nhau do đó các thế hệ trong một gia đình liên đới chặt chẽ với nhau thành một khối kết hợp và vững bền. Đây là một trong những nguyên nhân chính khiến người An Nam chống lại việc cải đạo sang Thiên chúa giáo». Không thể rõ ràng hơn: Trương Vĩnh Ký là người thấu hiểu hơn ai hết, tại sao có vấn đề cấm đạo và tại sao người Việt phần đông không theo đạo. Và ông viết những lời này cho dân biểu Blancsubé để giải thích tại sao người Việt không vào quốc tịch Pháp, nhưng ông ngụ ý nói rộng đến lý do tại sao họ không theo đạo Gia Tô và ẩn ý tại sao họ không theo Pháp. Chúng tôi tin rằng đây là một trong những lý do khiến Trương Vĩnh Ký ngừng hoạt động trong năm năm. Năm năm tự xét mình. Ông đã muốn ngừng không giúp Pháp nữa. Lá thư này rất quan trọng trong đời sống tinh thần của Trương Vĩnh Ký. Bouchot cũng đã hiểu ý nghiã sâu xa của lá thư này, nên đã giấu đi, không in lại trong sách, chỉ vì không muốn «làm xấu đi» hình ảnh một «nhà bác học theo Pháp» do ông chế tạo ra.
Viết sách theo yêu cầu của các Thống đốc từ thời kỳ chinh phục Từ 1882, 1883, Trương Vĩnh Ký hoạt động trở lại, ông dịch nhiều sách chữ Hán và phiên âm sách chữ Nôm ra chữ quốc ngữ, khiến Bouchot rất khâm phục sự uyên bác của ông. Bouchot viết về việc Trương Vĩnh Ký soạn và in sách chữ quốc ngữ, như sau: «Đó là những sách: Trương lưu hầu phú, Chuyện khôi hài, Kiếp phong trần, Bất cượng, chớ cượng làm chi, Nữ tắc, Thơ dạy làm dâu, Huấn nữ ca, Phép lịch sự An nam, Gia huấn ca, Thạnh suy bĩ thời phú, Hàn nho phong vị phú, vv,vv... Tất cả những văn bản dịch từ chữ Hán ra chữ quốc ngữ này[31] chỉ có một mục đích là cho dân An Nam chấp nhận mẫu tự La tinh, và giảm việc dùng chữ Hán, bằng sự phong phú của văn chương quốc ngữ. Những sách này đáp đúng yêu cầu của các Thống đốc (Gouverneurs militaires) ngay từ kỳ thời kỳ chinh phục, và được trình bày bởi ông Giám đốc Nội vụ Paulin Vial, người đã tiên đoán thấy tất cả những trở lực mà loại chữ tượng hình hiển lộ giữa dân tộc này và chúng ta.[32] Câu:«Những sách này đáp đúng yêu cầu của các Thống đốc ngay từ kỳ thời kỳ chinh phục», chứng tỏ việc tái tạo chữ quốc ngữ là yêu cầu của các Tướng lãnh Pháp đầu tiên đến chiếm Việt Nam, vì hai lẽ: - Để cho người Pháp dễ học tiếng Việt, vì chữ quốc ngữ viết bằng mẫu tự La tinh. - Làm cho người Việt quên chữ Nôm, chữ Hán. Chúng ta đừng quên: Chiếm xong đồn Chí Hoà (tháng 2-1861), hai tháng sau, ngày 8-5-1861, Charner đã ký nghị định lập Collège d'Adran (Trường Bá Đa Lộc) tức Trường Thông ngôn, do linh mục Croc đảm nhiệm. Năm 1866 giao cho Trương Vĩnh Ký điều khiển trong 22 năm đến khi trường đóng cửa năm 1888. Vậy Trương Vĩnh Ký là người thầy đầu tiên, sau các giáo sĩ, đã được các Thống đốc giao phó việc dạy tiếng Việt cho nhiều lớp người đi thực dân; và các sách Trương Vĩnh Ký viết ra là để dạy học, đáp ứng nhu cầu này từ thời viên Thống đốc đầu tiên đến chinh phục và cai trị Nam Kỳ.
Cộng tác với Paul Bert Bouchot dành cả một chương dài 40 trang, để trình bày sứ mệnh của Trương Vĩnh Ký với Paul Bert và ông đặt tên là La Mission du Tonkin (Sứ mệnh Bắc Kỳ) (trang 51- 90). Sau khi ca tụng con đường vinh hiển của Paul Bert trước khi đến Việt Nam, Bouchot giải thích tại sao Paul Bert «dùng» Trương Vĩnh Ký để «sai bảo» vua Đồng Khánh: «Xét thấy sự quan trọng «phải tìm ra bên cạnh dân tộc một phát ngôn viên, người này một khi chúng ta thuyết phục được, lại có đủ thẩm quyền để thuyết phục những người khác». Paul Bert đã quyết định dùng vua Đồng Khánh, «triết gia và học giả, rất thông thái ngang với đại đa số nhà nho và là học trò yêu của những người nổi tiếng nhất trong bọn họ». Vấn đề không phải chỉ tìm cho nhà vua một tôn thuộc trực tiếp, nhưng còn phải bao quanh vua những cố vấn hoàn toàn chịu ảnh hưởng của chúng ta. Cho nên Paul Bert nghĩ, muốn hoàn thành mục đích này, chỉ có sự cộng tác của một người An Nam mà ông biết và ông thích việc làm và lòng kiên tâm trung thành với nước Pháp, tôi nêu danh: Petrus Ký».[33] Bouchet đã trình bày rất rõ mục đích của Paul Bert trong việc «dùng» Trương Vĩnh Ký để chi phối Vương quyền, và sau đó ông chép lại những thư từ trao đổi giữa Paul Bert và Trương Vĩnh Ký. Qua những thư từ này, một phần đã được trích dẫn kỳ trước, ta thấy sườn chính của «Sứ mệnh» là đặt Trương Vĩnh Ký vào Cơ Mật viện (tức Hội đồng Thượng thư) để «dẫn dắt» các quan theo chỉ thị của Paul Bert. Trương Vĩnh Ký được vua Đồng Khánh phong chức Cơ Mật viện tham tá sung Hàn Lâm viện thị giảng học sĩ, như chúng ta đã biết: bề ngoài mũ áo cân đai làm quan với triều đình, bên trong là người giúp việc cho Paul Bert.
Qua những thư từ trao đổi giữa Trương Vĩnh Ký và Paul Bert, và những thông tin thu thập được từ Jean Bouchot, chúng tôi tạm tóm tắt lịch trình Trương Vĩnh Ký ở Huế như sau: Paul Bert đến Sài Gòn tháng 2-1886, đi cùng với Trương Vĩnh Ký ra Huế đầu tháng 4-1886. Trương Vĩnh Ký ở lại Huế. Paul Bert ra Hà Nội ngày 8-4-1886. Tháng 5-1886, Paul Bert lại về Huế. Trương Vĩnh Ký xin nghỉ ít ngày về Sài Gòn thăm gia đình, Paul Bert đồng ý[34]. Trở lại Huế ngày 7-6-1866, ngày 17-6-1886 Trương Vĩnh Ký viết cho Paul Bert lá thư kể những thành quả của công việc ông làm tại Huế, cuối thư này có câu: «Tôi bắt đầu công trình tên là «Kỷ nguyên mới»... từ khi ông [Paul Bert] mới sang đây và theo từng bước một tất cả những sự canh tân và cải cách của ông mà tôi sẽ trình bày như khuôn mẫu cho nước An Nam noi theo.»[35] Đó là thời kỳ tốt đẹp, Trương Vĩnh Ký tin tưởng vào tương lai, tuy Bouchot cho biết không tìm thấy «công trình Kỷ nguyên mới » trong văn khố gia đình. Chỉ ba tuần sau, trong thư Petrus Ký viết cho Paul Bert ở Huế ngày 7-7-1886 [để trả lời lá thư dài Paul Bert viết cho ông ngày 29-6-1886, nói rõ tham vọng đô hộ đến cùng và cho biết «Pháp không bao giờ bỏ đất này mà đi đâu, đừng có trông mong mà lầm» mà chúng tôi đã trích dẫn kỳ trước] bắt đầu có những khó khăn: Trương Vĩnh Ký than với Paul Bert là ông bị Villard, quyền Giám đốc Nội vụ, ký giấy cho ông nghỉ không công 3 tháng, kể từ ngày 7-6-1866, khi ông rời Sàigon để về Huế. Và ông cũng nghe được những chuyện đồn đại, nói xấu, đại loại như: Paul Bert bị hai nhân vật Pène-Siefert, thứ thuốc độc mạnh nhất và Trương Vĩnh Ký, phản thần, bao bọc[36]. Sau đó Bouchot không tìm thấy thư từ trao đổi giữa hai người, từ 7-7-1866 đến 25-9-1886. Ông chỉ biết Trương Vĩnh Ký trở lại Sài gòn, không rõ ngày nào [trong tháng 7 hay tháng 8?], bị sưng cuống phổi và có thể vì không còn tin tưởng vào tương lai một nhiệm vụ khó khăn với bao nhiêu oán thù chồng chất.[37] Bỗng ngày 25-9-1886, Paul Bert viết cho Trương Vĩnh Ký một thư quan trọng, giọng lạnh lùng khác hẳn; thư này viết ở Huế (Paul Bert trở lại Huế lần thứ hai). «Huế, ngày 25 tháng Chín, 1886 Kính ông, Tôi vừa nghe từ miệng vua nói rằng anh em họ Phan[38] đã đệ trình một bản dự thảo hiệp ước tận tay Hoàng Thượng. Đại cương hiệp ước này [đòi] Bắc kỳ được độc lập hơn nữa đối với Vương quyền, đổi lại Triều đình sẽ có quyền rộng hơn trong 12 tỉnh ở An nam, với sự phân quyền dần dần của các tỉnh ấy.[...] Ảnh hưởng ngày càng lớn của chúng tôi trên 13 tỉnh Bắc kỳ là để đền bù những hy sinh lớn lao của chúng tôi; đối lại, Vương quyền được tự do [hành động] hơn, trong những tỉnh ở An Nam»[39]. Đúng là lập luận «thảo khấu»: cướp nước rồi, lại ban chủ quyền cho vua như phân phát ân huệ. Rồi Paul Bert ra lệnh cho Trương Vĩnh Ký, với giọng trịch thượng và đe dọa: «Ông là đại diện có thẩm quyền chính trị về đường lối hòa đồng các lợi ích trong lòng Cơ Mật Viện, tôi yêu cầu ông dùng ảnh hưởng của mình để hỗ trợ những ý kiến chung trong bản đề nghị mà anh em họ Phan đưa ra. Tôi coi sự từ chối những đề nghị đó là một lỗi, một sự lầm lẫn, một thất bại trong chính trị của tôi. Tôi tin chắc rằng ông sẽ cảnh cáo Hoàng Thượng và các thượng thư và chỉ cho họ biết cái lợi của một chính sách, bề ngoài có vẻ như họ bị hy sinh, nhưng sẽ cho họ một cuộc sống thiết thực ở An Nam. Một lá thư hay một bức điện tín gửi trước khi ông về [Huế] sẽ tránh cho Hoàng Thượng những khó khăn trầm trọng. Nếu ông quên, thì tôi nhắc rằng ông phải viết thư cám ơn ông de Freycinet đã cho ông cái huân chương, ông phải biết ơn ông ấy và tôi, ông lại tưởng lầm là do Đô đốc Aube cho ông, nhưng ông này không ăn nhằm gì đến việc đó. [...] Tôi nhắc ông lời mà ông đã hứa với tôi về việc cho Hoàng Thượng nghỉ học tiếng Anh: tôi rất quan tâm đến việc này. Tôi nhận được từ Cơ Mật Viện một lá thư kỳ lạ, đòi số tiền một nghìn quan để trả cho những buổi lễ đạo (les messes) ở Quảng Trị. Chính phủ An Nam không được đàn áp, nhưng cũng không phải trả lương cho đạo Công giáo […] Hoàng Kế [Tá] Viêm sẽ bắt đầu cuộc hành quân lên mặt Bắc, ra Quảng Bình. Nay kính, Paul Bert Tái bút: Tối nay tôi ra Hà Nội.»[40]. Thư này giọng giận dữ, để lộ bản tính thực dân mà Paul Bert luôn luôn khôn khéo che giấu. Ông không gọi Trương Vĩnh Ký là Mon cher Lettré mà Đặng Thúc Liêng dịch là Kính tiên sanh, mà ông viết Mon cher Monsieur (Kính ông). Paul Bert đã trở về Huế một lần vào tháng 5-1886, và tháng 9-1886, ông trở lại để tổ chức việc dụ dỗ hoặc bắt vua Hàm Nghi và dẹp «loạn» Cần Vương. Thư này không đả động đến hai việc này. Mấy lời đầu thư, viết về một dự tính hiệp ước, mà Paul Bert muốn Trương Vĩnh Ký ép triều đình phải ký: để cho Bắc kỳ có quyền lớn hơn (tự trị); đổi lại, nhà vua có quyền «tự do hơn» ở An Nam, để «đền bù công lao khó nhọc» của Pháp ở miền Bắc. Chúng ta thừa biết: An Nam, hay miền Trung, theo hòa ước Giáp Thân 1884, vẫn toàn vẹn thuộc triều đình, vậy mà Paul Bert lên giọng «cho phép triều đình được tự do cai trị lãnh thổ của mình»! Miền Bắc bị quân Pháp chiếm, tức là họ cướp, vậy họ không có «công lao khó nhọc» gì cả. Paul Bert khi đến Hà Nội làm Thống sứ, năm 1886, là muốn biến miền Bắc thành thuộc địa như miền Nam. Điều mà Trương Vĩnh Ký cũng mong muốn. Và ông phải bắt cho được vua Hàm Nghi, mà chính sách thô bạo của de Courcy không bắt được. Lá thư này được viết trong bối cảnh đó: Paul Bert phải vào Huế tháng 9-1886 để chỉ đạo vua Đồng Khánh làm dụ, dụ vua Hàm Nghi ra hàng. Ông khôi phục nguyên hàm cho Hoàng Tá Viêm [bị cách chức vì thua trận Sơn Tây, Hưng Hoá năm 1884] và sai Hoàng Tá Viêm đem quân ra Quảng Bình dụ dỗ vua Hàm Nghi. Paul Bert trở ra Hà Nội cùng lúc Hoàng Tá Viêm xuất quân đi Quảng Bình[41]. Trong thư, Paul Bert khiển trách Trương Vĩnh Ký vô tích sự, không giúp ích gì cho ông trong những «khó khăn» này. Trương Vĩnh Ký nhận được lá thư cảnh cáo nặng nề, nhưng vẫn phớt lờ, tiếp tục ở Sài gon, không về Huế. Trong thư Trương Vĩnh Ký viết cho vua Đồng Khánh đề ngày 27-9-1886 [tức là hai ngày trước khi Paul Bert viết lá thư «khủng bố» trên] để cảm ơn bài thơ dài vua Đồng Khánh đã làm tặng ông, đoạn đầu có câu: «Ngày 27, tháng Chín 1886 Tâu Hoàng thượng, Chuyến nầy tôi ra chầu Hoàng thượng, đã hơn bốn tháng rồi. Vợ con cũng xin ra theo hơn một tháng rưỡi nay. Nay vì đến lúc phải ẩn mặt một hồi cho được việc cho nước nhà, cho Hoàng thượng. Bây giờ có khi Hoàng thượng chưa có thấy rõ là cần phải như vậy, rồi sau mới biết là mưu».[42] Vậy Trương Vĩnh Ký viết thư cho Đồng Khánh báo tin phải «ẩn mặt» không ra Huế, và đó là «mưu». Tiếp đó, Trương Vĩnh Ký nhận được điện văn «tối hậu» của Paul Bert, không đề ngày, như sau: Lệnh của Thống sứ truyền cho Khâm sứ ở Huế để chuyển cho Petrus Ký: «Tôi khẩn khoản yêu cầu ông lập tức đến gặp vua. Sự hiện diện của ông là thiết yếu không chỉ bởi vì Hoàng (1) ra đi, mà còn để giữ vua trong tình trạng cần thiết cho sự thành công của chương trình lớn. Khẩn cấp kêu gọi lòng yêu nước của dân chúng.»[43] Đây là lời nhắn cuối cùng của Paul Bert, trước khi lâm bệnh nặng. Nhận được điện tín của Paul Bert gọi về Huế gấp, Trương Vĩnh Ký vẫn không về. Tại sao? Trong thư viết cho vua Đồng Khánh, ông nói phải ẩn mặt, không về Huế, vì mưu. Mưu gì? Tháng 10-1886, Trương Vĩnh Ký viết cho Paul Bert hai thư, đề ngày 5-10-1886 và 4-11-1886[44] đều cáo bệnh không trở về Huế ngay được. Giọng văn vẫn giữ nguyên những tin tưởng cũ: Lá thư đầu hy vọng nước Pháp sẽ cho An Nam tự trị trong Đế quốc Đông Dương Pháp. Lá thư thứ hai, ông hứa sẽ dốc sức làm việc về Dự thảo đòi «Bắc kỳ tự trị» mà Paul Bert đã đề ra trong thư trước và gửi cho ông một bản sao, ông có vài ý kiến, sẽ xem lại và đưa cho vua và triều đình phê chuẩn. Nhưng hai thư này có lẽ Paul Bert không đọc, vì theo Taboulet, ông bị chớm bệnh từ cuối tháng 9, khi còn ở Huế.
Những đổ vỡ Chúng tôi nghĩ rằng chính sự bất tuân không về Huế, là nguồn cội việc sa thải Trương Vĩnh Ký, sau khi Paul Bert qua đời. Lúc đầu, ông nhận đi Huế và làm nội ứng cho Paul Bert trong Cơ Mật Viện, vì ông tin đó là con đường giúp nước: ông mong triều đình cộng tác với Pháp, để đạt văn minh tiến bộ. Nhưng dần dần qua những trao đổi với Paul Bert, ông đã nhận ra nhân vật này cũng chỉ là một tay thực dân đi kiếm ăn như những thực dân khác, nên ông bắt đầu e ngại. Có thể lúc đầu ở Huế, ông đã giúp Pháp trong việc tìm bắt vua Hàm Nghi. Nhưng sau thấy tình hình nguy hiểm hơn trước, ông chỉ muốn đứng ngoài «mách nước» cho Pháp chứ ông không muốn trực tiếp nhúng tay vào việc lùng bắt vua Hàm Nghi và đàn áp phong trào Cần Vương. Vì thế, ông không trở về Huế nữa. Vậy sự đổ vỡ giữa Trương Vĩnh Ký và người Pháp có thể đã bắt đầu từ trước khi Paul Bert qua đời. Cũng vì Trương Vĩnh Ký không trở lại Huế, nên sau khi Paul Bert qua đời, ngày 11-11-1886, ông bị nghi ngờ là không thật lòng với nước Pháp, họ không cho ông trở lại Huế và cũng không trả lương kếch sù cho ông như trước nữa, sự sa thải bắt đầu từ cuối năm 1886. Lá thư của Paulin Vial là gáo nước lạnh dội lên những «công lao» của ông với nước Pháp trong gần ba mươi năm: «Hà Nội ngày 11-12-1886 Ông Petrus Trương Vĩnh Ký, Để trả lời thư ngày 23-11 vừa qua của ông, tôi vội báo cho ông biết rằng, tôi đã truyền cho ông Khâm sai ở Huế những điều lệnh cần thiết về tình trạng những tên Cương, Thế và Phái[45] phải được giải quyết theo ý ông và gửi chúng về Sài gòn. Như ông đã tuyên bố với tôi rằng nhiệm vụ tạm thời của ông ở Huế đã chấm dứt sau cái chết của Thống sứ Paul Bert. Tôi đã điện cho Thống đốc Nam Kỳ báo tin cho ông biết. Vậy tốt hơn là ông đừng trở lại Huế, bởi vì xét về quyền lợi của xứ sở, nước Pháp cần có ở kinh đô một đại diện duy nhất chính thức và không một nhân vật quan trọng nào khác bên cạnh để một lúc nào đó, có thể gây ảnh hưởng trái lại với vị đại diện chính thức này. Xin nhận nơi đây.... P. Vial» [46] Paulin Vial, là một tay thực dân lão luyện, lên làm quyền Thống sứ, và chắc chắn đã được Paul Bert trước khi qua đời, trăng trối về việc Trương Vĩnh Ký «phản bội». Nhưng để trả lời lá thư độc ác của Vial, Trương Vĩnh Ký cũng không có một lập luận nào hay hơn những lời này: «Sài gòn ngày 8 tháng 12 năm 1886, Thưa ông Giám đốc, Tôi rất sung sướng trước thông báo của ông bởi vì tôi cũng không màng cái nhiệm vụ khó khăn mà người ta đã trao cho tôi. Tôi đã đau đớn phải rời Nam Kỳ; mà tôi làm việc này chỉ vì tình bạn với ông Paul Bert. Đường lối chính trị mà tôi theo, ở địa vị khó khăn của tôi Huế, là chính sách của ông Paul Bert; ổng đọc, tôi làm, tôi theo sát tất cả những chỉ thị của ổng. Tôi không ngạc nhiên khi thấy người ta bài xích công trình của vĩ nhân này sau khi ông chết....»[47] Câu này, làm mất thể diện người nói, trước người nghe: ổng đọc, tôi làm, tôi theo sát tất cả những chỉ thị của ổng, và làm cho Trương Vĩnh Ký mất hết uy tín và niềm tin, đối với dân tộc Việt Nam. Niềm cay đắng của Trương Vĩnh Ký là ông vừa nhận được Bắc đẩu bội tinh của Pháp ngày 2-8-1886. Trong thư cám ơn Thủ tướng Freycinet ngày 4-9-1886, ông viết: «Tôi rất hân hạnh được nhận huy chương danh dự này (Bắc đẩu bội tinh) của nước Pháp mà tôi không ngừng phục vụ từ năm 1860»[48] Không đầy bốn tháng sau ông bị sa thải (tháng 12-1886). Trong thư ông viết cho dân biểu Chavannes, có câu: «Việc gắn huân chương Bắc đẩu Bội tinh cũng đến chậm nhưng cuối cùng ngày 2-8 vừa qua tôi cũng được tuyên bố đệ ngũ đẳng (chevalier). Tôi sung sướng, nhất là với những tư tưởng mà tôi thể hiện ở đây. Việc được tuyên dương cuối cùng cũng xẩy ra [….] Tôi hy vọng được đi Paris năm nay, nếu người ta cho vua An Nam [Đồng Khánh] đi, có Pène-Siefert làm argonaute.»[49] Bouchot viết: «Sự vinh danh làm ông [Petrus Ký]cảm động nhất là sự tưởng thưởng hai mươi nhăm năm phục vụ đắc lực và trung thành, tưởng thưởng cho nhà bác học và cho cộng sự viên của những nhà xây dựng Nam Kỳ Pháp thuộc»[50]. Trong diễn văn cám ơn Bộ trưởng Giáo dục M. Spuller đã tặng huân chương Giáo dục, Trương Vĩnh Ký nói: «Tôi càng thêm hân hạnh với vinh dự mới mà nước Pháp trao cho, có cơ hội để chứng tỏ cho chính phủ mà ông đại diện sự tận tụy hết lòng của tôi đối với nước Pháp và niềm tin vững chắc vào thiên tài khai hóa văn minh của nước Pháp»[51]
Những lời chân thành này chứng tỏ sự tận tụy hết lòng của Trương Vĩnh Ký đối với nước Pháp và niềm tin vững chắc của ông vào thiên tài khai hóa văn minh của nước Pháp, được ông viết đi viết lại nhiều lần, đó chính là vinh dự lầm than của ông, khó có thể gột rửa trong xấp văn bản vô hình ông để lại cho hậu thế.
(còn tiếp) [1] Trường này của Hội Thừa Sai Paris lập ra từ những năm đầu mới sang Á Châu. Theo Bouchot, năm 1665, xây ở Mahapram gần Juthia [Bangkok], năm 1767, Xiêm La bị Miến Điện xâm chiếm, phải chạy sang Hòn Đất [trung tâm đạo ở phía dưới Hà Tiên]. Năm 1803, chuyển sang đảo Poulo-Pinang, do người Anh mua lại của vua Quedah năm 1786. (Bouchet, chú thích (1) trang 6-7). [2] Jean Bouchot, Petrus J.B Truong Vinh Ky (1837-1898), Nxb Nguyễn Văn Của, Sài gòn, 1927, trang 4-5 và chú thích số (1) trang 4-5. [3] Bouchot, sđd, trang 3-5; Nguyễn Văn Trấn, Trương Vĩnh Ký (con người và sự thật), trang 9. [4] Jean Bouchot, Petrus J.B Truong Vinh Ky (1837-1898), chú thích số (1), trang 9. [5] Cha Hòa (Borelle) người Pháp đã dạy ông ở trường Pinha-lu ngày trước. [6] Jean Bouchot, chú thích số (1) trang 10. [7] Nguyễn Văn Trấn, trang 12. [8] Bouchot, chú thích số (1) trang 15. [9] Nguyên văn tiếng Pháp: «On était alors au plein de la guerre franco-annamite; l'empereur Tu-duc, en refusant de recevoir les messages de la France, avait attiré sur son pays les représailles que l'Amiral Rigault de Genouilly menait, à Tourane, le 1er septembre 1858, et, à Saigon, le 17 février 1879» (Bouchot, trang 13). [10] Bouchot, trang 14-15-16. [11] Bouchot, chú thích số (1) trang 14. [12] Bouchot, chú thích số (2), trang14. [13] Taboulet, La geste francaise en Indochine, II, trang 441-442. [14] Taboulet La geste francaise en Indochine, I, trang 362-363. [15] Nguyên văn tiếng Pháp: «En 1861, l'Amiral Charner revenant à Sài Gòn, résolut d'en finir avec les troupes de Huế; ce furent alors les journées de Ki-Hoa passées dans la canonnade et le crépitement de la mousqueterie, puis la prise de My Tho et celle de Bien Hoa; deux clans se manifestaient parmi les Annamites: le premier se trouvait constitué de ces gens qu'un chauvinisme mal compris poussait à la révolte; le second au contraire était composé de tous ceux qui voyaient que la résistance était inutile et que la protection de la France pourrait peut-être arracher le pays à la tutelle de mandarins insatiables. Petrus Ky fort de l'expérience qu'il avait faite à Pinhan-lu et à Pinang était de ces derniers. Mêlé assez intimement aux affaires, il avait donné des gages de sa sagacité; d'autre part on louait assez généralement son courage; il apparaissait enfin comme l'auxiliaire d'élection dans cette campagne d'installation, d'organisation et d'occupation définitive». (Bouchot, trang 15) [16] Nguyên văn tiếng Pháp: «ll revint à la maison paternelle, à Cai mong, après dix années d'absence, pourvu d'une culture aussi profonde que variée et du solide bagage de ces études de linguistique élémentaire qu'il va pousser loin dans un avenir tout proche. […] Ce Cochinchinois fut un savant, dans l'acception la plus étendue et la plus pure que l'Occident reconnaît à ce mot; peut-être même serait-il possible de dire, ce qui renforcerait encore notre jugement, qu'il fut le seul savant, de cette qualité en Indochine et jusque dans la Chine moderne.» (Bouchot, trang 10-11) [17] Bouchot, trang 12. [18] Nguyên văn tiếng Pháp: «En France, il avait eu l'occasion de lier des relations utiles dans le monde des lettres et des arts (1): il avait connu Duruy, l'historien célèbre qui fut ministre de l'Instruction Publique, Victor Hugo, Littré dont il devait entreprendre, sur la fin de sa vie, de traduire en annamite le dictionnaire, Paul Bert, qu'il allait retrouver en Indochine et pour lequel il devait être un collaborateur si précieux. L'amitié de ces grands hommes, entretenue par une correspondance suivie, ne devait s'éteindre que dans la mort et nous avons une page pleine d'émotion profonde de cette plume annamite, à l'occasion du décès de Paul Bert, dont il devait être, plus tard, l'inspirateur avisé et vigilant.» Bouchot, trang 20- 21. [19] Bouchot, trang 96. [20] Cung điện và mộ vua Y Pha Nho. [21] Nguyên văn tiếng Pháp:«A l'issue de l'ambassade, il suivit Phan Thanh Gian qui s'était proposé de visiter la France: il fut à Rouen, au Havre, à Lorient où s'était embarqué son professeur de francais de Poulo-Pinang, à Tours, à Lyon, et à Bordeaux; de là il s'embarqua pour le Portugal. En Espagne, il visita Alicante, passa à Barcelone et à Madrid où on le recut à l'Escurial. Par la Provence, il fut en Italie où il visita Gênes, Florence, Rome; là, il est recu par le Souverain Pontife auquel il rend grâces pour les services éminents rendus à sa patrie par les missionnaires et notamment par Mrg d'Adran; il peint, sous les couleurs les plus vives, la joie qu'éprouvaient les Annamites à se trouver enfin dans une ère de calme et de paix. Il visite les catacombes, puis par Xante, Messine, Alexandrie, la mission annamite regagne Saigon où elle débarque le 18 Mars 1864. Petrus Ky avait en huit mois parcouru, en plus de la France, tout l'occident méridional sauf la Grèce, et partout où il était passé il avait étudié les mœurs, il s'était intéressé aux langages, il avait acquis des documents susceptibles de le servir dans les études qu'il allait entreprendre.» (Bouchot, trang 20) [22] Theo Phan Khoang, Việt Nam Pháp thuộc sử, trang 177-178. [23] Taboulet, II, trang 488. [24] Bởi vì Thống sứ về Pháp vì công vụ từ tháng 2 tới tháng 7-1876, Bouchot, trang 33. [25] Ông đến thăm Giám Mục Puginier nhiều lần, thăm linh mục Trần Lục người hết lòng với Pháp (Trần Lục sẽ mộ giáo dân tấn công chiến lũy Ba Đình của Đinh Công Tráng, 1887). [26] Bouchot, chú thích (1) trang 42. [27] Nguyên văn tiếng Pháp:«Ernest Renan, dans le Rapport annuel qu'il lut à la séance du 30 Juin 1880 de la Société asiatique, s'exprime ainsi: «M. Truong-Vinh-Ky nous présente avec clarté les idées que les Annamites se forment de leur propre histoire. On est frappé de trouver dans son petit livre une netteté d'esprit, une impartialité qui n'ont rien d'asiatiques. Beaucoup de nations européennes n'ont pas pour leurs écoles primaires un aussi bon précis que celui de M.Truong Vinh Ky» (Journal asiatique. VIIe série, tome XVI, Juillet-Décembre 1880, p.73) (Chú thích (1) trang 31, Bouchot). [28] Nguyên văn tiếng Pháp: «Il semble bien que dès cette époque notre personnage ait occupé dans l'administration de la Colonie une place de premier plan», Bouchot, trang 42. [29] Nguyên văn tiếng Pháp đoạn viết về Kiều: «Il continuait paralèllement les publications qui lui avaient été demandées par le Gouvernement de la colonie et c'est ainsi que nous lui devons la transcription en quoc-ngu du Kim van Kiêu, la celèbre épopée annamite qu'on vient de faire passser au cinéma, une Histoire annmite en vers…» (Bouchot, trang 43). [30] Bouchot, trang 45-46. [31] Thực ra là dịch từ chữ Hán và phiên âm từ chữ Nôm ra chữ quốc ngữ (và chữ Pháp) nhưng người Pháp không biết đến chữ Nôm, họ coi tất cả đều là chữ Hán. [32] Nguyên văn tiếng Pháp:«C'était alors l'Apologie de Truong Luong, Passe-temps, Les Evènements de la vie, Fais ce que dois, advienne que pourra, Devoirs des femmes et des filles, La Bru, Défauts et qualités des femmes et des filles, Les Convenances et les civilités annamites, Ecole domestique ou un père à ses enfants, Caprice de la fortune, Un lettré pauvre, etc, etc... Tous ces textes qu'il passait alors des caractères chinois en quoc-ngu n'avaient d'autre but que faire adopter l'alphabet latin par les populations annamites et de réduire l'usage des caractères chinois par l'abondance même de la littérature en quoc- ngu; ils repondaient au vœu formulé dès la conquête par les amiraux gouverneurs et exposé par le Directeur de l'Intérieur, Paulin Vial qui avait mesuré tous les obstacles que les idéogrammes faisaient surgir entre ce peuple et nous.» (trang 47-48) [33] Nguyên văn tiếng Pháp: «Concevant l'importance «de trouver auprès de la nation un porte-parole qui, une fois persuadé par nous, aurait assez d'autorité pour persuader les autres». Paul Bert avait décidé d'employer le roi Dong-Khanh, «philosophe et érudit, qui est comme savant, légal de l'immense majorité des lettrés et le disciple chéri des plus illustres «d'entre eux». Il s'agissait non seulement de prendre sur le monarque un ascendant immediat, mais encore de l'entourer dans ses conseils de gens acquis à notre influence. Aussi Paul Bert songea-t-il à s'assurer dans ce but la collaboration de cet Annamite qu'il connaissait et qu'il appéciait par ses travaux et sa constance fidèlité à la France, j'ai nommé Petrus Ký». (Bouchot, trang 52-53.) [34] Theo thư Paul Bert đề: Huế ngày 10-5-1886) (Bouchot trang 59, Nguyễn Văn Trấn trang 61. [35] Nguyên văn tiếng Pháp:«Je commence un travail intitulé l'ère nouvelle... qui commence à votre arrivée et suivre pas à pas toutes vos innovations et toutes vos réformes que je présenterai comme modèles à suivre pour l'Annam». (Bouchot, t. 61) [36] Bouchot, trang 68-70. [37] Bouchot, trang 70. [38] Hai anh em họ Phan mà Paul Bert nhắc đến ở đây, chắc là hai con trai của Phan Thanh Giản. Tháng 3-1886, Phan Thanh Liêm được bổ Khâm sai Đại thần, đem quân vào Quảng Nam, Quảng Ngãi, dụ Văn Thân ra hàng. [39] Nguyên văn tiếng Pháp: «Huế, le 25 septembre 1886 Mon cher Monsieur, Je viens d'apprendre de la bouche du Roi lui-même que les frères Phan avaient déposé un projet de convention entre les mains de Sa Majesté. L'idée générale de ce traité est une indépendance plus grande du Tonkin par rapport à l'autorité royale, en échange d'une plus grande action de celle-ci sur l'Annam des douze provinces, avec une séparation progressive de leurs intérêts […] Notre influence grandissante sur les treize provinces du Tonkin doit être la juste récompense des grands sacrifices que nous avons faits; il y a d'autre part, inrtéret à ce que l'autorité de sa Majesté s'exerce avec plus de liberté dans les provinces de l'Annam» (Bouchot trang 70-71) [40] Nguyên văn tiếng Pháp: «Représentant autorisé de la politique de concordance des intérêts dans le sein du Comât, je vous prie d'appuyer de votre influence les idées générales comprise dans les propositions des Phan. Je considérerais comme une faute, une erreur et un échec de ma politique le rejet de ces propositions. Je compte donc que vous avertirez Sa Majesté et les ministres et leur montrerez les avantages d'un système qui, en ne leur faisant sacrifier qu'une apparence, leur donne en Annnam une réalité. Une lettre ou une dépêche précédant votre retour peut éviter de graves ennuis à Sa Majesté. Je vous rappelle pour le cas où vous l'auriez oublié, que vous devez envoyer une lettre de remerciments à M. de Freycinet pour la décoration que vous devez uniquement à lui et à moi et que vous avez attribuée par erreur à l'Amiral Aube qui, sans doute, n'en a jamais entendu parler.[...] Je vous rappelle la promesse que vous m'avez faite de faire cesser à Sa Majesté l'étude de l'anglais: j'y tiens expressement. J'ai recu du Comât une très étrange lettre, demandant une somme de mille francs pour payer des messes au Quang Tri. Le Gouvernement annamite ne doit ni persécuter ni salarier la religion catholique […] Hoàng Kế [Tá] Viêm va commencer sa campagne dans le Quang Bình en remontant vers le Nord. Votre bien dévoué Paul Bert P.S. Je pars ce soir pour Hanoi» (Bouchot, trang 71-72) [41] Rồi việc này cũng không xong, Hoàng Tá Viêm lại trở về Huế. [42] Nguyễn Văn Trấn, trang 81. [43] Nguyên văn tiếng Pháp: «Je vous prie instamment rejoindre immédiatement le Roi. Votre présence est indispensable non seulement à cause départ Hoang (1) mais pour entretenir le Roi dans état d'esprit nécessaire au succès grande entreprise. Fais appel pressant au dévouement patriotique population», Bouchot, trang 72. Bouchot viết trong chú thích (1) như sau: «Sau Nguyễn Hữu Độ, cựu Tổng đốc Hà Nội, một người có thế lực bên vua, là cha Hoàng, người bản xứ, do Hội Thừa Sai đưa vào làm thông ngôn và hưởng ân sủng của vua. Rất mềm mỏng và tế nhị, ông ta không những nắm được tinh thần mà còn cả các thói quen của vua Đồng Khánh và trở thành một người trên đầy quyền thế (un ascendant tout puissant). Vị trí được thèm muốn và luôn luôn bị đe dọa, và bị chiếm đoạt» (Trích Chailley, Paul Bert au Tonkin, trang 65, in lại trong Bouchot, trang 72). Khi Paul Bert đến Huế, ông đem theo Pène-Siefert, là người thân cận, Trương Vĩnh Ký chỉ là người được đi theo Pène-Siefert, Bouchot viết tiếp: «Cha Hoàng bị thay thế bằng nhân vật nổi tiếng Pène-Siefert, mà ông Paul Bert buộc vua phải nhận. Cha Hoàng bị sa thải và gửi trả lại giáo khu của ông ở Yên Hoa (Hà Tĩnh), vẫn làm cha xứ đến ngày nay [1925]» (Bouchot trang 73). Sau khi Paul Bert qua đời, Pène-Siefert, đi Tân Gia Ba (Theo thư Trương Vĩnh Ký gửi B.S. Chavanne, tháng 10-1887, Nguyễn Văn Trấn, trang 162. [44] Bouchot, trang 73 và 77; Nguyễn Văn Trấn, trang 85 và 89. [45] Là những người giúp việc Trương Vĩnh Ký [46] «Nguyên văn tiếng Pháp: Hanoi, le 11 décembre 1886 Monsieur Petrus Trương -vĩnh- Ký, En réponse à votre lettre du 23 novembre dernier, je m'empresse de vous informer, que je donne à M. le Résident Supérieur à Huế les instructions nécessaires pour que la situation des nommés Cuong, Thé, Phai soit reglée suivant le désir que vous exprimez et pour que ces jeunes gens soient renvoyés à Saigon. Ainsi que vous me le déclarez vous même, votre mission temporaire à Huế se trouve terminée par suite de la mort de M. le Résident général Paul Bert. J'avais prié par dépêche M. le Gouverneur de le Cochinchine de vous en informer. Il est préférable en effet que vous ne retourniez pas à Hué, car dans l'intérêt du pays il est nécessaire que la France soit représentée dans cette capitale par un seul agent officiel et qu'aucune autre personnalité importante ne puisse à côté de cet agent, jouir d'une influence qui, à un moment donné, pourrait se trouver en contradiction avec la sienne. Recevez... P. Vial (Bouchot, trang 79-80) [47] J'ai été très heureux de la communication que vous m'avez faite car je ne tiens pas beaucoup à cette mission délicate qu'on m'a donné. Je me suis arraché avec beaucoup de peine de la Cochinchine; si je l'ai fait c'était uniquement à cause de l'amitié de M. Paul Bert. La politique que j'ai suivie à mon poste difficile à Huế n'était autre que la politique de M. Paul Bert; c'était dicté, j'en ai toutes les instructions possibles. Je ne m'étonne pas qu'on la blâme puisque l'oeuvre de ce grand homme est blâmée après sa mort... ) (Bouchot, trang 81) [48] «Je suis très honoré de recevoir cette marque de distinction (La Légion d'honneur) de la France que je n'ai cessé de servir depuis 1860» A.F (Archives de la Famille- Lettres) (Văn khố gia đình-Thư tín), (Bouchot, chú thích số (1) trang 15). Bắc đẩu bội tinh này do Paul Bert đề nghị với Thủ tướng Pháp cho ông năm 1886: Thư Paul Bert viết cho Petrus Ký ngày 25-9-1886, (Bouchot, trang 71). [49] «La décoration de la Légion d'Honneur a tardé à m'arriver, mais enfin, le 2 Aout dernier, j'ai été déclaré chevalier. J'en suis heureux, sur tout pour les idées que je représente ici. Le droit de cité leur est enfin reconnu […] J'espère aller à Paris cette année, si l'on permet au roi d'Annam de s'embarquer avec Pène-Siefert pour argonaute.» (Bouchot, trang 83) [50] «Honneur qui lui fut sensible entre tous, récompense de vingt-cinq années de bons et loyaux services, récompense insigne donnée au savant et au collaborateur des constructeurs de la Cochinchine francaise.» (Bouchot, trang 84). [51] «Je suis d'autant plus heureux de cette nouvelle distinction qu'elle m'offre l'occasion de témoigner au gouvernement que vous représentez mon profond dévouement à la France et ma ferme conviction dans son génie civilisateur» (6-Aout-1887), Bouchot, trang 89.
|